(Kính tặng những ai, đă một lần đến và sống tại thành phố Pleiku để hồi tưởng về kỷ niệm)
Thời chiến tranh Việt Nam, Pleiku là một địa danh mà hầu như ai cũng
biết. Một thành phố, (đúng ra là một khu thị trấn) dân cư thưa thớt,
mà đa số là dân người Thượng. Một nơi đèo heo hút gió xa tít tận
miền cao. Vậy mà tiếng tăm, và vang bóng một thời.Cuộc chiến đă làm
nên tiếng tăm? Hay nói đúng hơn là “người lính” đă làm nên một địa
danh nổi tiếng này.Ngày trước, ai đă từng là lính chiến? Ai đă từng
là kẻ “bị đày”? Và ai đă từng là dân “tứ chiếng”, là kẻ “giang hồ”?
Th́ đất địa Pleiku là nơi được mời gọi.
Tôi đến Pleiku vào giữa năm 1969. Không phải là ǵ ǵ cả, mà là một
sĩ quan mới ra trường. Về đơn vị binh chủng Lực lương Đặc biệt, SQ
hoặc HSQ mới ra trường là phải đi tác chiến, thử lửa một thời gian.
Ai cũng vậy. Coi như phải chấp nhận thử thách, gian nguy, phải rèn
luyện “da ngựa dậm ngh́n” cho đáng mặt làm trai.Những ngày đầu mới
đến Pleiku thật lạ lẫm, chán chường. Một phố thị chỉ như là một thị
trấn nhỏ lại lắm người. Dân địa phương th́ ít mà tứ xứ th́ nhiều.
Những năm trước (từ 1966-67), từ khi có bước chân các “chú Sam” đến
là sôi động hẵn. Người ta nói: Mỹ đến đâu là như có “mật” ở đó. Đàn
ong, lũ kiến, ruồi nhặng bay theo. Có lẻ cũng không sai, v́ từ dạo
đó, Pleiku tiếng tăm lừng lẫy. Phố xá nhỏ hẹp. Phố Pleiku chỉ có 5-7
con đường ngang dọc. Đường phố chính là Hoàng Diệu, đi từ đầu đến
cuối đường, hút chưa tàn điếu thuốc. Chung quanh th́ làng mạc thưa
thớt dân cư. Một thị trấn vùng núi, đèo heo hút gió. Vậy mà, những
ǵ ở nơi khác có là Pleiku thời dạo đó vẫn có – có đủ cả. Có quán
xá, có bar, có nhà hàng, có vũ trường, có đĩ điếm, có trác tán, ăn
chơi… Dân tứ phương đổ về, góp phần cho Pleiku bao thứ hay, thứ dở.
Người ta về làm ăn, về t́m việc, sinh nhai, sinh kế kiếm tiền. Về để
kiếm sống, và cũng về … để chết. Một bộ tư lệnh quân đoàn nằm đó, và
một phi trường lớn cũng ở đó (phi trường Cù Hành). Ngày đêm xe cộ
tấp nập tới lui và máy bay lên xuống không ngớt. Từng đoàn quân,
từng đơn vị, lính ở đâu cũng lần lượt kéo về, ghé qua, trú đóng.
Nhiều thứ lính, nhiều đơn vị, binh chủng, được gọi là “thứ dữ”, thứ
“bất trị”, đều có mặt. Nhiều chủng tộc, sắc dân. Không lừng lẫy,
tiếng tăm sao được? Người ta hát, qua câu vè ví von: “Pleiku đi dễ
khó về, trai đi bỏ mạng, gái về nát thây”. Nghe mà phát ớn. Tuy
nhiên, nói vậy, tiếng đồn như vậy, nhưng mà không hẵn là vậy. Thật
sự th́ Pleiku không dữ dằn, không khắc nghiệt lắm đâu. Mà là một nơi
dễ mến, và cũng “thân thiết”. Tôi đă đến đấy gần hai năm và khi ra
đi, cảm thấy nhiều lưu luyến. Xin kể: Pleiku có khí hậu giông giống
như Đà lạt. Một vùng đất cao nên khí hậu mát quanh năm. Cây cảnh hoa
màu, Đà lạt trồng được thứ ǵ th́ Pleiku cũng trồng được thứ đó:
bông hoa và rau trái. Ai đă có đến vườn hoa Phú thọ? Một xóm ngoại ô
(chỉ cách thị xă vài cây số?) với nhiều vẻ nên thơ, t́nh tứ, đẹp
không ngờ. Hoa rất nhiều và đủ thứ. Hoa khoe săc muôn màu. Ngoài hoa
là cây ăn trái. Mít ngon đặc sản vùng này. Tha hồ mua, tha hồ hái
trái và tha hồ ăn, cho dầu “kẻo nhựa vân tay”. Mít, hoa chỉ là cái
cớ. Nếu vào Phú thọ, khách c̣n t́m nhiều cái khác nữa: Cùng mấy em
đi dạo, t́m “sầu riêng”, “măng cụt”, hái “vú sữa” chín mềm, mân mê
“mận hồng đào” da trơn thơm ngát (nghĩa bóng). Mặc sức mà thưởng
thức. Thú vị làm sao! Nhưng mà cũng phải cẫn thận, coi chừng. VC
cũng thường ṃ ra và mời đi “du ngoạn”..Đi dạo biển hổ. Phong cảnh
đẹp và thơ mộng. Thiên nhiên đă ưu đăi cho vùng đất địa rừng núi
Pleiku. Một cái hồ khá là rộng, chu vi hàng mấy cây số (tôi không
được rơ diện tích, nhưng thấy là lớn rộng). Nước phẵng lặng xanh
trong. Bao quanh từng khoảng cây rừng, sương giăng mờ mịt. Nghe nói
biển hồ không có đáy? Nước không bao giờ cạn kiệt. Một đồi đá thấp,
nơi vui chơi, ḥ hẹn rất thơ mộng, rất trữ t́nh. Có am, có chùa,
tượng phật, cây cảnh. Từ trên đỉnh dài xuống mé mặt hồ, từng nơi,
từng chổ, hấp dẩn, gọi mời. Đă có biết bao mối t́nh hẹn ḥ, thề ước
tại đây? Pleiku nắng bụi, mưa bùn? Những ngày mưa dầm rả rít, mưa
không dứt, thành phố trở nên ăm đạm. Vậy mà cũng ít ai “an phận” nằm
nhà, nằm queo doanh trại để mà nhai gạo sấy, thưởng thức lương khô?
Nếu không phải bận công tác, trực hành quân th́ cũng “bay” ra phố,
vô quán cà phê, quán nhậu. Hay ít nhất cũng tạt vào “lữ quán” Bà Tám
(cầu số 3) để giải buồn. Ở đây, các em tươi mát, chí nghĩa, chí
t́nh. Tiền không có cứ “ghi sổ”, lương lănh trả sau. Bà Tám rất là
điệu nghệ.
Nắng bụi? Đúng là như vậy. Bụi đường đất đỏ, màu đỏ gạch, bám vào
trên thân thể, trên áo quần, trên nón, trên giày…Dầu anh đi về đâu,
nếu một lần ghé qua Pleiku, người ta vẫn biết: anh về từ “miền đất
đỏ bụi mù” Pleiku, phố núi. Dấu giày in phố núi - Bước chân anh lấm
bụi hồng - Đất Pleiku, bụi mờ vươn theo nắng - Lê gót phong trần,
anh một thuở dừng chân. Pleiku hầu như con gái khắp tứ xứ, khắp mọi
miền. Đủ “kiểu”, đủ “cở”: Từ cô gái Huế nằng nặng giọng nói nghe êm
tai đến các nàng “nẩu” (dân Phù cát, Phú Yên, xứ Quảng). Quen nàng,
chỉ nghe nàng nói cũng đă thấy vui tai. Dân miền Nam, tôi cứ “hả?”
hoài mà không hiểu được nàng nói những ǵ. Các em B́nh Định, Nha
trang, Tuy ḥa, Sài g̣n, miền Tây, và cả dân Bắc (kỳ) cũng không
thiếu. Pleiku hầu như qui tụ “bông hoa” khắp mọi miền đất nước.
Đă có nhiều cơ hội, nhờ quen với Tiểu đoàn 20/CTCT. Ban văn nghệ
Tiểu đoàn qui tụ khá nhiều ca sĩ – con gái khắp mọi miền – Vài ba
tuần lễ, một tháng mở “bale”, mở tiệc rước mời. Rước cả những “em
Pleiku” (cở tuổi choai choai 16, 17, 18… ham vui, thích nhảy). Đến
để mà tha hồ hát ca, nhăy nhót. Đơn vị B17/LLĐB, thời thiếu tá Ngô
đ́nh Lưu (tay chịu chơi, hào hoa phong nhả) ông cho lập một “vườn
tao ngộ”. Trồng hoa kiểng, có ghế đá, xích đu, có bàn ngồi ngắm
trăng, uống rượu, tán gẩu nói chuyện phào. Các cô rất thích. Thích
v́ được ch́u chuộng săn đón. Ca hát nhăy nhót cho đă, mời các em
ngắm, dạo vườn hoa – hoa muôn sắc, hoa muôn màu – các em rất thích.
Thích th́ cứ ngắm, cứ chơi. Và… thích nữa… th́ cứ ở qua đêm cũng
được…Nhờ thế, mà Pleiku dù là xứ “bị đày”, vẫn không thấy buồn, thấy
chán. Vừa đi hành quân, lội rừng, đánh giặc, vừa chơi bất cần đời mà
cảm thấy cuộc đời… vẫn đáng sống. Chiến tranh dù nghiệt ngă, chết
chóc, dù hủy hoại mọi tương lai. Đời ĺnh dù phải sống nay, chết
mai, vẫn không sợ. Kẻ này đi, người khác đến, qua bao tháng năm, vẫn
cứ chiến đấu, cứ vui chơi. Nếu không vui, nếu không “xả lán” quên
đời th́ làm sao mà chịu nổi. Cứ chơi, cứ lăn xả, và cứ… quên ḿnh.
Pleiku vẫn luôn là nơi yêu đời, vui sống. Không vui chơi ở đơn vị,
th́ vui chơi ở các tửu đ́ếm, nhà hàng. Hai cứ đ́ểm: Hoàng Liêng,
Mimosa, là nơi “đóng quân” hàng đêm của lính. Có tiền th́ vung vít,
ít tiền th́ một ly cà phê đá, một gói thuốc cũng đủ cho “nữa đêm về
sáng”. Giờ giới nghiêm không là quan trọng. Chưa say, chưa xỉn chưa
về. Say quá, gục ngă, nằm đường, có quân cảnh chở đưa về. Cùng lắm
là “kư củ”. Cả mạng sống c̣n chẳng màng, sá ǵ năm, mười ngày “trọng
cấm” lẻ tẻ. Ngang tàng mọi nơi, ăn chơi mọi chổ. Và có lẻ từ tính
vung vít bạt mạng, chơi không biết sợ của lính núi rừng mà địch quân
phải nể sợ. Sợ những thằng lính liều mạng, liều ḿnh. Liều mà đánh
giặc, giữ vững được đất nước quê hương. Sau này, quê hương, đất nước
có phải bị mất đi là tại, do ai? Tại những tên (ngồi mát ăn bát
vàng) hèn nhát, khiếp nhược. Chắc chắn không phải tại mấy tên lính
“ba gai” chẳng bao giờ biết sợ, bất cần đời, coi thường mạng sống…Cà
phê Hoàng Lan, những đêm không ngủ được, những lần nhậu xĩn quắc cần
câu, ghé Hoàng Lan để thưởng thức hương vị tách cà phê. Đắng bờ môi
mà ngọt ngào t́nh cảm. Mùi hương thoang thoảng. Hương hoa (từng nụ)
ngọc lan phảng phất về đêm. Hương hăng hắt của mái tóc thả lững bờ
vai của em (bé) Monique H’ Lem, người con gái Thượng lai Tây có dáng
dong dỏng cao, mũi thẳng, cặp mắt lắng sâu màu xanh lục, đôi môi
mọng, cười rất duyên, và … đẹp đéo chịu được. Tôi đă ghiền và đă mê
“Hoàng Lan” hầu như một dạo. Trời xui đất khiến để tôi, dân trai xứ
miền Tây (thiếu ǵ con gái đẹp) lại xúc động, mê say một người con
gái Thượng xứ bụi mù. Không biết ai đă từng đến Pleiku, và đă từng
“uống” cà phê Hoàng Lan (1970). Xin xẻ chia chút tâm t́nh này. Trên
bốn mươi năm. Bây giờ vẫn nhớ.
C̣n nữa! Quán bún về đêm, có một “o” xứ Huế. Giọng nằng nặng, êm ái
nhẹ nhàng, quyến rũ làm sao. Em chỉ là người làm công chạy bàn mời
khách. Vậy mà đêm nào không ghé, không thưởng thức vị bún ḅ thơm
lừng, ăn ớt vào “cay té lưỡi”, nước mắt tuông tràn, th́ về nhà không
ngủ được (v́ đói). Em bé Huế dễ thương ơi! Bây giờ, em ở đâu? Chắc
đă chồng con, đă già đi, da mồi tóc bạc? Nếu em c̣n sống? Dẫu sao,
kỷ niệm một thời nơi xứ nắng bụi mưa bùn, cũng c̣n “một chút ǵ để
nhớ, để thương”...Pleiku, một phố thị nhỏ mà đi không giáp. Đi hoài
vẫn c̣n chổ để đi. Nếu có được một em bên cạnh đi không biết mơi,
không biết chán, và thời khắc cũng như ngưng đọng, ngừng trôi. Các
em là dân tứ xứ, và các anh cũng từ mọi nẻo về đây. Bọn anh v́ “bị
đày” mà đến, c̣n các em do“tự nguyện” mà về. Về đây đi em? Về để bắt
gặp và làm quen (cả làm t́nh) với những tên lính “bụi” như anh. Chắc
cũng không phải em ham tiền, ham cao sang danh vọng, hoặc ham làm
kiếp “giang hồ” mà là do định mệnh an bày sắp đặt? Ḿnh không tránh
được. Cuộc đời lính, kiếp giang hồ, thân phận giống như nhau? Có các
em để đời các anh thêm ư nghĩa (dù không trong sạch, chả thanh cao).
Nhưng các em cũng đă góp phần, góp sức cho cuộc chiến, cuộc đời. Dở
hay. Hay dở? Cứ mặc! Tầm thường hay thánh thiện? Chẳng màng! Chiều
Biển Hồ. Một buổi chiều, sau chuyến hành quân về, chờ vự vụ lệnh
(thời gian đó, đi phép bằng SVL), đi Sài g̣n. Chúng tôi, hai thằng
mượn chiếc xe Jeep của chỉ huy phó để đi một ṿng phố xá. Nói là chỉ
đi dạo phố, chứ thực sự là đi kiếm chổ nào đó để giải khuây. Trời xế
chiều, Pleiku vắng ngắt một số đường. Hai đứa vừa đảo một ṿng vẫn
chưa có ư định đi đâu. Một chiếc xích lô ngược chiều chạy tới. Trên
xe hai nàng con gái đẹp mặc áo dài. Trời, mặc áo dài đi dạo phố giữa
xế trưa th́ không phải là dân địa phương. Tên chạy xích lô cũng
điệu, chạy chầm chậm và ngừng lại trước đầu xe Jeep. Tôi dừng xe,
bước tới. Hai người đẹp có ư hỏi t́m địa chỉ nhà. Tôi móc ví trả
tiền xe.
- Xin đừng ngại. Hai cô về đâu tôi…, xin phép, chúng tôi có thể đưa hai cô đi. Tụi tôi chỉ đi chơi, đang rănh…
Một nàng e dè. Nàng kia bước xuống đưa địa chỉ t́m nhà.
- Chị em em từ Qui nhơn lên t́m nhà đứa bạn. Địa chỉ này…
- Đường Hai Bà Trưng. Cũng không xa mấy! Tụi tôi đưa hai cô đi. Nếu hai cô không ngại.
- Sợ phiền các anh!
- Không sao. Tụi tôi cũng muốn làm việc nghĩa. Vả lại, rất hân hạnh được các cô cho phép.
Thằng bạn nhanh nhẩu tiếp xách cái túi hành trang để vào xe và trịnh
trọng mời hai quí nương lên xe yên vị….
Chó ngáp phải ruồi! Buồn ngủ gặp chiếu manh.! Ở đâu mà khiến xui như
thế này?
Vừa đi, vừa gợi chuyện. Th́ ra hai cô giáo lên Pleiku chơi. Cũng
muốn t́m biết đây đó một vài nơi xinh đẹp ở xứ bụi mù. Trời c̣n sớm.
Mời hai nàng cùng đi một ṿng Pleiku cho biết, và sau đó là ra viếng
cảnh biển hồ. Một buổi chiều quá là mộng, là mơ, làm quên đi bao gian
khổ chiến trận mấy ngày qua: leo rừng, lội núi. Và quên cả cái sự vụ
lệnh đi phép đang chờ. Tôi, thằng bạn, cùng hai người khách bất chợt
thật là vui. Hai nàng cũng thành tâm và quyến rủ. Bờ hồ sương giăng
lăng đăng. Mặt hồ lăn tăn một ít cơn sóng gợn buổi chiều hôm. Cảnh
vật quá mộng, quá thơ, quá hửu t́nh. Hai thằng lính hành quân về
chưa kịp hớt tóc, chưa kịp diện đồ. Bù xù tóc tai, áo quần nhà binh
xốc xếch, vẫn không làm suy giảm những ân t́nh của hai em gái hậu
phương – hai cô giáo miền biển mặn, cát vàng khát khao “t́nh anh
lính chiến”. Thêm một đêm, và gần một ngày (hôm sau) với t́nh yêu
thương nồng thắm. “Hai mươi hai” giờ, quả là ư nghĩa, quả là thú vị
cuộc đời. Chúng tôi chia tay, hẹn ngày tái ngộ, đưa hai nàng về địa
chỉ hai nàng cần t́m. Lưu luyến chia ly, giă từ, ḥ hẹn…Tôi về, năn
nỉ thiếu tá chỉ huy phó gần đứt lưỡi. Ông chỉ giận dỗi một lúc, rồi
mọi việc cũng qua. Lên Ban 1 nhận sự vụ lệnh, bay Sài g̣n đi tiếp
mấy ngày (phép) c̣n lại.
T́nh người bản thương.
Làng Pleimrong, cách Pleiku khoảng 30km. Là một buôn làng giàu có
thịnh vượng nhất vùng. Có một trại lực lượng đặc biệt (do Đ/úy Báu
làm trưởng trại). Hầu hết biệt kích quân là người thượng (khoảng một
tiểu đoàn (350-400 quân). Mỗi lần đi hành quân vùng Pleimrong là coi
như đi dưỡng sức, v́ địch (khi đó:1970) chỉ lẻ tẻ đơn vị nhỏ. Một
vùng khá an ninh nhờ đ/u Báu thường xuyên tung quân hành quân lục
soát.. Một lần, tôi cùng đơn vị (tiểu đoàn) BKQ/ Tiếp ứng về đó hành
quân, các đại đội th́ đóng bên ngoài. Tôi, SQ phụ tá Toán A174 (chỉ
huy TĐ)/BKQ/TƯ - chỉ theo với nhiệm vụ cố vấn - nên tà tà đi nh́ều
chổ cho biết. Buồn, không làm ǵ, đi vào mấy nhà thượng (kiếm những
nhà giàu). Sức giàu của một nhà thượng ở đây không thua ǵ người
kinh. Nhà sàn, cây danh mộc, mái ngói. Tài sản có hàng bạc triệu
(năm 1970): một đàn ḅ 5-7 chục con, đàn dê cũng 5-6 chục. Heo lúc
nhúc, gà lung tung chạy khắp vườn. Mua một con (gà) lớn nhỏ đều đồng
giá. Nếu con nhỏ, sau này cũng lớn vậy thôi, núi rừng nuôi nó (người
dân thượng bảo vậy). V́ thế không có chuyện so sánh lớn bé. Có một
lần, vào dịp tổng thống Thiệu đến thăm, và ông được dân làng đăi
rượu cần. Hai cái “ché” chứa rượu cần dành đăi tổng thống, trị giá
200.000 đồng/cái. Dân làng tổ chức tiếp đón rất ŕnh rang .Nhà giàu,
có con gái –thuộc hàng tiểu thơ – không làm ǵ, thường ở nhà dệt
vải. Trông “tiểu thơ” ngồi dệt vải cũng quí phái lắm. Dệt những thứ
thổ cẩm (từng miếng vừa vừa dùng làm xà rong, khăn choàng, có thể
may áo dài) màu sắc sặc sở rất đẹp. Các nàng cứ lo dệt, dệt trên nhà
sàn lót gổ đẹp. “Khách” đến chơi được lịch thiệp chào mời vào nhà.
Nói chuyện, các nàng có thể nghe, nói được tiếng kinh (tiếng Việt)
nhưng không rành lắm. Như vậy là có thể chọc ghẹo và làm quen. Gặp
trai kinh, hầu như mấy nàng cũng thích, tuy hơi e ngại. Ít nói, chỉ
hay cựi. Thân mật, ngồi sát vào nhau, sờ soạn, mó may, không phản
đối, có phần như…thích? Ngay cả sờ ngực, sờ vú, hôn hít… Nhưng mà
“bắt cái nước” th́ tuyệt đối không, trừ khi là chồng nàng. Đó, dễ
dăi như vậy đó, mặc t́nh mà vui chơi, mà thân mật. Sờ ngực khá thú
vị, ngực căng cứng, no tṛn. Hôn th́ mùi hăng hăng như khét nắng.
Cũng v́ em dễ dăi, em thích. Cũng tại ḿnh ham vui, thích khám phá
t́m của lạ. Chứ không ham muốn ǵ đâu. Gái thượng mà không lai (lai
Pháp) th́ không thấy ǵ là đẹp. Xin lỗi nha! Nhưng tiến xa hơn nữa,
hoặc sàm sở th́… coi chừng. Có thể bị mét (báo cáo), bị thưa v́ có
thái độ xấu xa. Tới tai ông tỉnh trưởng Đ/tá Yaba là rắc rối. Đ/tá
Yaba rất uy quyền, rất có uy tín, được toàn dân thượng tin yêu. Ông
bảo vệ người thượng, rất thẳng thắng với quân đội kinh (nếu có hành
vi sai phạm). C̣n nhớ, có một lần đi chơi, thăm mấy nữ nhân viên
(kinh) ở ṭa hành chánh tỉnh, tôi đậu xe nhằm “parking” của ông (tại
ṭa tỉnh trưởng, v́ thiếu chổ đậu) bị ghi số xe, phù hiệu đơn vị,
báo về Đ/tá Can (chỉ huy trưởng C2/LLĐB). Tôi bị kêu lên, ông la cho
một trận, thiếu điều kư củ. Con gái thượng, con nhà giàu cũng khá là
nết na chững chạc - nết na mà vẫn cho sờ mó? - Thấy trai kinh dường
như thích (nhất là sĩ quan trẻ tuổi) nhưng dè dặt, cẫn thận. Thích
th́ thích nhưng khó mà rủ đi chơi riêng lẻ. Không biết có phải khó
khăn gia đ́nh? Tuy nhiên, đến chơi, ngồi bên nhau, chọc ghẹo, cha mẹ
thấy, chẳng nói ǵ. Không biết họ bằng ḷng hay v́ sợ mà không
nói?Thú vị nhất là ra ŕnh xem tắm suối. Buổi trưa, không làm ǵ,
tôi cùng một vài đứa rủ ra mé suối lén ŕnh đàn bà con gái thượng
tắm. Tắm có hai bến tắm: đàn ông tắm riêng và đàn bà con gái tắm
riêng, khoảng cách khá xa. Và phái nữ luôn dành phần phía trên ḍng
nước chảy. Khi tắm, các ả cứ tự nhiên “thoát y”, lơa lồ thân thể.
Như các nàng tiên. Trửng giởn, liếng thoáng, đùa cợt, té nước, chạy
quanh…Cả một đám thân thể trần truồng. mặc sức mà ŕnh xem cho đă
mắt. Bất thần đứng dậy. Thấy có người, mẹ con chí chóe la lối, vụt
chạy, quơ đồ đạc khăn áo che vào thân, tỏ ra hốt hoảng. Một lần bị
như vậy coi như bến tắm phải bỏ đi. T́m bến khác. Ŕnh xem con gái
thượng tắm rất vui, nhưng mà phải kín đáo và cẫn thận. Bị báo cáo,
bị thưa là khốn. Kư củ và đổ đi chổ khác như chơi. Người thượng khá
chân thật, rất t́nh người. Ít ranh ma, xảo trá. Trừ khi họ được
chung sống nh́ều với người kinh. Thời VNCH, dân tộc người thượng
được luật pháp bảo vệ, lại có phần được ưu đăi nhiều thứ. Cũng nhằm
mục đích lấy ḷng để mua chuột, cai trị? Đến với họ, quen thân với
người thượng cần nên giữ ư dè chừng. Tránh lợi dụng, tránh ma mảnh,
lừa dối, gạt gẫm, hăm hại, nhất là lănh vực t́nh cảm yêu thương.
Người con gái thượng khi yêu rất thật, cho bằng cả ḷng tin. Tuy
nhiên, gạt gẫm, dối lừa, chơi qua rồi bỏ. Hậu quả khôn lường (cả vật
chất lăn tinh thần). Nghe nói người thượng có biệt tài “thư”. Đối
với ai gạt lừa bội phản. Thư một đống đá sỏi, da trâu trong bụng,
cho bỏ thói Sở Khanh phản trắc lưu manh. Nghe nói thôi, chưa có dịp
thấy. Ché rượu cần Làng Pleikép, cách thị xă Pleiku khoảng 10 km. Một
làng được người Mỹ (qua VN giới thiệu yêu cầu) giúp vật liệu xây
dựng nhà cửa, mọi thứ tiện nghi cho toàn thể dân làng. Đúng ra,
Pleikép chỉ là một ấp. Một bữa, xây cất xong, tổ chức lễ khánh thành,
mời “ân nhân” BCH/B17/LLĐB (Mỹ lẫn Việt). Chỉ huy trưởng đi công
tác. Đáng lẻ chỉ huy phó đi, thiếu tá Quỳnh (CHP) kêu tôi (là trưởng
Ban CTCT) đi thế. Một buổi tiếp đón khá trọng thể, Hai dăy thức ăn
bày thẳng tắp chạy dài. Phía trên là bàn dành cho khách quí (VIP).
Thức ăn là thịt dê thui nham nhở, c̣n sống, máu tuơm . Hai ché rượu
cần hai bên. Hai chiếc ghế dành cho thượng khách (trung tá cố vấn Mỹ
và tôi). Hai dăy người dân hai bên đông đúc. Mọi người vổ tay hoan
hô mừng đón, chờ đợi khai mạc. Tr/tá Mỹ chào. Tôi chào. Hai tên đứng
hai bên khá trịnh trọng, mỗi người dùng chiếc khăn trắng nắm cần câu
(cần uống ruợu), lau, ngậm miệng nút cho ruợu ra. Xong, lau lại và
hai tay cung kính đưa sang cố vấn Mỹ và tôi, mỗi người ngồi nút một
cần. Phải uống cạn một “can” (theo nghi thức). Cái miệng ché rộng cở
gang tay đầy nước tới miệng ché. Một thanh gác ngang, ở giữa là một
que dính liền dài khoảng 2,5cm nằm trong nước hướng mủi xuống dưới.
Nút (uống) ruợu (từ dưới đáy), nước trên miệng dực xuống, dực đến
khi đầu que lên phía trên mặt nước, là một “can”. Dung lượng rượu có
thể gần cả lít. Hai hàng người dân phía dưới đứng chờ. Thỉnh thoảng
vổ tay tán thưởng. Tôi nâng chiếc cần nút. Từng giọt rượu nồng tuông
chảy vào miệng, ng̣n ngọt, thơm thơm, cũng dể uống. Tuy nhiên, càng
uống, cơ thể nóng bừng. Chất rượu lan khắp cơ thể. Bên kia tên Mỹ
cũng cố mà nút. Anh ta ngưng và tôi bên này, chiếc que cũng đă lộ ra
trên mặt nước. Cơ thể đă nóng và đầu óc hơi choáng váng. Một tràng
pháo tay vang dậy. Và hai tên “hầu cận” lại đổ thêm nước vào, lên
đầy miệng ché. Kính mời nhị vị cạn thêm “can” nữa. Trời đất! Như vậy
là nghi thức phải uống hai “can”. Bụng tôi đă sắp no ph́nh. Tứ chi
gần bủng rủng. Tên Tr/tá cố vấn Mỹ nút, và tôi cũng nút. “Bá quan
văn vơ” đứng dưới tiếp tục chờ. Cạn thêm ½ can, tôi gần muốn ngă.
Đầu óc nóng bừng. Tên Mỹ vừa xong. C̣n tôi. Chết bỏ cũng phải ráng
cho cạn, dầu rằng uống không muốn nổi nữa. V́ thể diện, v́ danh dự,
tôi cố nút. Và sau cùng cũng cạn. Vổ tay vang dậy, mọi người xúm vào
uống và ăn. Tôi được chuyền đưa cái nĩa với miếng thịt dê tươm máu.
Đón nhận và cắn một cái, tôi lợm giọng, muốn ói. Phải ráng mà dằn.
Để miếng thịt xuống, tôi ra dấu “người bạn đồng hành” (cố vấn Mỹ)
xin kiếu. Tên Mỹ đứng dậy chào giă từ. Tôi cũng chào và từ giă bước
ra. Lạng quạng, muốn ngă. Tên tài xế d́u tôi ra xe. Vừa lên xe, chạy
ra chưa khỏi cổng là tôi ói. Ói tơi tả, ói dài dài về tới cổng trại.
Đầu óc như muốn bể tung, nhức buốc. Ai đưa về pḥng tôi cũng không
nhớ. Miên mang, dă dượi, suốt một đêm và gần cả một ngày. Chiều đến,
tạm tỉnh, thiếu tá Quỳnh chỉ huy phó đến thăm. Động viên khen ngợi:
- Cậu đở chưa?
Kể ra cũng không phải mất mặt. Ói trên xe, ói dọc đường không ai biết. Tham dự buổi lễ thành công. Cám ơn cậu. Một lần, cho biết. Tởn tới già. Sau này nghe nói đến rượu cần, tôi phát sợ. Thật sự, rượu cần ngon. Có lẻ rượu đăi khách quí, người thượng họ làm chất liệu ngon, tốt. Lại nước rượu đầu tiên, nguyên chất. Uống ng̣n ngọt, thơm thơm, nồng nàng hương vị. Cũng là thứ rượu ngon. Ngon không thua ǵ rượu đậu nành, rượu nếp than, rượu đế. Cũng là “quốc tửu”. Hân hạnh lắm thay!...Cuộc đời binh ngiệp, trăi bao năm, tôi đă đi, đến khá nhiều nơi, nhiều chổ: đồng bằng, biển cả, núi rừng… qua bao nhiêu miền đất nước, quê hương. Pleiku vẫn là nơi đáng nhớ.Vùng cao nguyên đất đỏ: nắng bụi mưa bùn. Nghe qua, ai cũng ngại, cũng sợ, không muốn đến. Nhưng đă đến rồi, vẫn thấy luyến, thấy thương – Thương đất nước, thương t́nh người, thương cảnh vật. Trước đây, thời giặc giă chiến tranh là vậy.
Bây giờ không biết sao?
Viết về Pleiku, viết để nhớ về kỷ niệm. Và những ai, đă một lần đến Pleiku, xin cùng nhau chia xẻ chút nỗi niềm.
Tháng tư 2011
Ng. Dân.
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại