NHỮNG MẢNH ĐỜI DANG DỞ - Phần 7

NGÀY VỀ

Khi sinh ra ai cũng mong muốn có một cuộc đời an nhàn sung sướng. Nhưng người dân quê hương tôi hầu như không ai có được một cuộc đời lành lặn. Sự thống trị của ngoại bang, chiến tranh chia cắt làm tan nát biết bao nhiêu gia đ́nh người dân hiền lành vô tội. Có lẽ chúng ta chỉ c̣n lại những mảnh đời không lành lặn, được chắp vá với nhau qua những chặng đường đời. Hôm nay xin được kể cho các bạn nghe về những mảnh đời dang dở đó.


Đoàn tàu chưa dừng hẳn chúng tôi đă nhảy xuống khỏi lan can ở toa cuối cùng, chạy vội vă vào trú mưa dưới mái nhà ga. Nh́n qua cửa sổ tôi thấy đă hơn 11 giờ khuya trên chiếc đồng hồ treo tường. Ánh đèn vàng vọt, ga vắng người, chỉ có một số hành khách lên xuống các toa vào đêm hôm khuya khoắt như thế này. Hùng, Huy, Thành và tôi cố t́m trong ga một vài hàng bán thức ăn, để dằn cơn đói mà từ chiều tới giờ v́ chống chỏi với cái lạnh và các nỗi lo sợ vây quanh mà anh em chúng tôi đă quên mất.

Ba giờ chiều hôm đó anh Thuyên đưa anh Hùng, Ngọc và tôi đến sân ga Huế. Các người bạn tù ở Huế đă hướng dẫn chúng tôi bọc ṿng sân ga để vào theo ngơ các đường rầy.
Đồng Sỹ Tường nói với tôi:
- Cất tiền để đi đường ăn. Tù...! Tội ǵ phải mua vé! Vé tàu Thống Nhất cũng không tới phiên mi, công nhân viên c̣n phải đợi cả tháng.
Tôi thấy Miễn ngồi trên chiếc xe đạp, trong một góc, nh́n chúng tôi cười, vẫy tay hỏi thăm, chúc xuôi Nam mạnh giỏi. Có chừng hơn mười người bạn ở Huế ra ga đưa tiễn chúng tôi.

Một người bạn nói “Dự báo thời tiết cho biết, có mưa giông cấp 5, cấp 6 tối nay. Tụi mi ráng đi cho kịp, không th́ kẹt lại đó".
Một anh khác thêm vào: "Tụi mi chia ra mỗi thằng lên một toa, kiếm một góc nào đó chui vào, ráng chờ cho tới khi nào tàu chuyển bánh th́ yên".
Quay qua nh́n Hùng, thấy khuôn mặt lo lắng của anh tôi cảm thấy không yên.

Thường th́ cảnh tiễn đưa ở sân ga bao giờ cũng rất là buồn. Buồn v́ cảnh kẻ ở người đi... Nhưng anh em bạn tù chúng tôi th́ ngược lại, họ không mong chúng tôi ở lại mà lại mong cho chúng tôi đi khuất mặt để về với gia đ́nh đang mong đợi trong Nam.

"Những chiếc khăn hồng lất phất bay,
Những bàn tay vẫy những bàn tay,
Những đôi mắt ướt t́m đôi mắt..."

Chưa bao giờ trong cuộc đời tôi lại có một buổi chia tay lư tưởng như vậy! Chia tay nhưng vui, chia tay nhưng không có nước mắt mà chỉ có nụ cười đưa tiễn.

Hơn bốn giờ chiều loa phóng thanh thông báo tàu Thống Nhất 2 sẽ đến ga lúc 4 giờ 30 phút. Tôi cảm thấy nóng ruột. Quay qua th́ Ngọc đă lủi đi một góc nào rồi, theo đúng sự cố vấn của các bạn tù Huế. Hùng gương mặt rầu rĩ, lo lắng hỏi tôi:
- Sao đây Minh?
- Tàu đến ḿnh cứ leo đại lên toa rồi tính sau.
Khoảng gần 4 giờ 30, c̣i tàu hú vang ở khúc quanh khuất tầm mắt cuối đường rầy, và chẳng bao lâu đoàn xe lửa Thống Nhất xuất hiện. Đoàn tàu trông có vẻ mới mẻ, đẹp mắt, khác với những đoàn tàu cũ kỹ mà tôi đă nh́n chán mắt ở ga Saigon mỗi ngày tôi đi đến trường Trương Minh Kư thuở xưa.

Hai chị em tôi thường đi tắt xuyên qua ga Saigon, rút ngắn được một khoảng đường hơn cây số. Tôi thích những ḥn than đá nhặt được trên đường rầy, chúng đen mượt và óng ánh dưới nắng như những ḥn ngọc đen.
Tàu dừng hẳn. Các cửa toa được mở ra. Sau khi các hành khách xuống xong th́ các hành khách mới lên tàu. Anh em chúng tôi bắt đầu chia nhau leo vào các toa. Thật là số “giẫm phải ổ kiến lửa", tôi chui vào đúng ngay cái toa dành cho các anh bộ đội đi công tác. Vừa không có chỗ trống, lại trông thấy tôi lạ, có lẽ vẫn c̣n h́nh ảnh của người bên kia chiến tuyến nên các anh ấy la ầm lên:
- Anh này ở đâu vào đây thế?
Hai cô soát vé nghe thế tiến lại, hỏi vé tàu và mời tôi đi xuống.
Chân vừa chạm đất th́ thấy Hùng hốt hoảng chạy tới, hai anh em chúng tôi lại leo lên toa xe kế. H́nh như đă được báo động, các cô soát vé lại chận chúng tôi và mời xuống lần nữa.

Thất vọng nhưng vẫn b́nh tĩnh, tôi kéo Hùng chạy về phía toa cuối cùng, nhưng chúng tôi dă bị chận lại ngay cửa toa.
"Bất Quá Tam", ba bận không được, tôi không nhảy lên xe nữa mà ngồi tính kế.
- Hùng à! Đợi xe bắt đầu chạy ḿnh nhảy lên. Tôi nói với anh cùng với một cái gật đầu cảm thông và khích lệ.

Hơn 5 giờ chiều, c̣i hụ, đoàn xe bắt đầu chuyển bánh. Thế là tôi nhanh chân nhảy ngay lên một toa gần đó, Hùng cũng bám theo tôi.
Tôi nhớ măi cô gái soát vé la toáng lên:
- Các anh có xuống không...?
Cô ta cung tay làm như chuẩn bị xô anh em chúng tôi xuống. Lặng người một giây, tôi suy nghĩ thật nhanh... Quay ḿnh nhảy khỏi toa tàu, Hùng cũng nhảy theo tôi. Đoàn tàu Thống Nhất 2 rời ga xe lửa Huế...
Nhớ lời một anh bạn tù nói với chúng tôi ban chiều "Tụi mi xui. Tụi mi tới sớm một chút đi tàu Thống Nhất 1, tàu Saigon dễ hơn. Tàu ni tàu Hà Nội". Th́ ra có bốn chuyến tàu Thống Nhất. Tàu số lẻ 1 và 3 xuất phát từ Saigon, hầu hết nhân viên trên tàu người Nam. Tàu số chẵn 2 và 4 xuất phát từ Hà Nội, thảo nào toàn là dân Bắc.

Đoàn tàu bắt đầu tăng tốc độ. Tôi nghe tiếng Đồng Sỹ Tường hét lớn "Nhảy lên! Nhảy đại lên!". Quay người lại th́ toa cuối cùng cũng vừa trờ tới nhưng cửa toa tàu đă đóng kín, tôi nhảy đại lên, bám vào lan can sắt, nghiêng người lại kéo Hùng cũng vừa nhảy bám theo sau. Tiếp theo Hùng là Thành và Huy, hai người không biết ở đâu lại xuất hiện bất ngờ, tôi và Hùng nép qua một bên để Thành và Huy có chỗ đu vào.
Chúng tôi vừa đặt chân xuống lan can th́ tiếng c̣i tàu vừa chấm dứt, tàu bắt đầu lao về phía trước với tốc độ nhanh hơn. Bốn anh em tù chúng tôi, những người khách cuối cùng, những người khách không được chấp nhận của đoàn tàu Thống Nhất 2 vừa rời ga Huế. Nh́n ngược về phía sân ga, các bạn tôi vẫy vẫy tay tiễn đưa, xa dần, xa dần mà trong ḷng c̣n nhiều xúc động...

Hơn một giờ sau đoàn tàu chạy qua Vinh Hiền. Nh́n về hướng Đông tôi nhớ đến ngày 26/3/75 tại cửa Tư Hiền, nơi anh em chúng tôi chấm dứt chặng đời binh nghiệp, để bắt đầu cuộc đời tù đày.

Trời nhá nhem tối, những đám mây đen từ biển kéo vào vần vũ và cơn băo bắt đầu đổ bộ. Mưa tầm tă khi đoàn tàu gần đến Lăng Cô, chân đèo Hải Vân, trời tối mù mịt, chắc vào khoảng gần 7 giờ tối. Thành lôi ra tấm poncho, hai chúng tôi trùm lấy cho nhau giữ hơi ấm. Hùng và Huy cũng lấy ra những tấm ni lông, chúng tôi nép vào nhau để chống chọi cơn băo và những hạt mưa tới tấp quất lên người.

Đoàn tàu ́ ạch leo đèo Hải Vân dưới mưa băo. Có những khúc quanh gắt, tàu chạy chậm hẳn lại. Tôi nghe những tiếng móc sắt mà những tài xế đoàn tàu thả xuống để bám đường rail “cọc, cạch, cọc, cạch, cọc, cạch ...” Những tiếng sắt va chạm trong đêm làm cho tôi tưởng nhớ đến một đoạn thơ, thật là hợp lúc nhưng không hợp t́nh.

“Tôi thấy tôi thương những chuyến tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có ǵ vương vấn trong hơi máy
Những chiếc toa, đầy nặng khổ đau”.


Không biết chiếc toa cuối cùng đầy nặng khổ đau này có thông cảm cho bốn người khách bất đắc dĩ đă gửi thêm sức nặng lên ḿnh nó không nhỉ?
Nh́n về hướng biển, làng Lăng Cô dưới chân đèo ch́m trong màn mưa bắt đầu nặng hạt, xa xa lờ mờ vài ngọn đèn leo lét, mưa băo như thế này mà kéo dài vài ngày th́ làm sao các ngư dân ra khơi để kiếm ăn. Khoảng tám giờ tối đoàn tàu chui qua một đường hầm dài, từ đó trở đi chúng tôi không c̣n thấy ǵ ngoài ngoài màn mưa và sương mù dày đặc từ các hốc núi bốc ra.

Càng lên cao tàu càng chậm dần, có những lúc tàu như dừng lại. Tiếng máy hú rền lên trong đêm, nh́n về phía trước những đóm lửa từ đầu máy phun lên không gian mờ mịt, tôi cảm thấy lạnh người...

Những ngày c̣n bé tôi thích nghe người lớn kể chuyện ma, hai chân rút lên giường, lấy chăn hay bất cứ một mảnh vải nào trùm lấy cho đừng cảm thấy lạnh. Có những đêm quá khuya, mẹ tôi mắng “Thằng này có đi ngủ không, mai c̣n đi học”. Trèo lên gác, chui vào mùng, chụp vội cái chăn để trùm kín người từ đầu đến chân mặc dù trời không lạnh lắm, co người lại tôi thầm nghĩ “Trùm kín thế này chắc ma không nh́n thấy ḿnh đâu, nhưng nếu ma kéo chăn ra th́ làm sao?”. Nghĩ thế tôi càng co người lại.

Nh́n theo ánh đèn xe lửa xuyên màn mưa và sương mù dày đặc, tôi chợt nhớ đến câu chuyện “Bóng Người Trong Sương Mù” trong tập truyện ngắn “Anh Phải Sống” của Khái Hưng và Nhất Linh. Tôi rụt đầu vào poncho, không muốn nh́n và nghe thấy những âm thanh ma quái vang lên trong đêm với bóng người trắng trong sương mù, vẫy vẫy đôi tay kêu gọi con tàu “Dừng lại! Dừng lại! Dừng lại!”. Bên cạnh tôi Thành vẫn c̣n lầm bầm chửi “Mẹ mầy, con mẹ Bắc Kỳ!”

Ngày đơn vị dừng chân ở chợ Sải, Triệu Phong, tôi quen Thành. Mỗi lần không vừa ư một người bạn miền Trung th́ anh lại nói “Mẹ mầy, thằng Nẫu!”. Không vừa ư ai Bắc Kỳ th́ “Tao nói rồi, cái thằng rau muống!", nhưng chưa nghe anh than van về "giá sống" bao giờ. Có điều là nói hay chửi xong anh lại cười x̣a chứ không như lần này, anh lầm bầm cả buổi tối...

Bên bờ sông Vĩnh Định, chợt thức giấc một đêm khuya, tôi thấy Lên, người hiệu thính viên, chồm người ra khỏi vơng chụp lấy cái đèn pin dă chiến, làm băng pin PRC-25, bóng đèn được bọc bằng giấy bạc bao thuốc lá. Anh hối hả vặn lên, có lẽ quá vội vàng, anh lộn giây, đèn lóe sáng rồi tắt lịm. Chồm qua phía chiếc radio, Lên chụp lấy, vặn thật lớn giữa đêm khuya. Tôi bực ḿnh hỏi:
- Mày làm cái ǵ vậy Lên?
Lên im lặng không trả lời. Tôi gắt:
- Tắt đi, làm ǵ mà mầy mở radio giờ này!
Anh vặn tắt radio rồi chúi đầu vào trong cái vơng. Lần đó chúng tôi qua đêm tại căn bếp của một ngôi nhà ba gian đă bị sập v́ đạn pháo bên bờ sông Vĩnh Định. Tôi và Lên mắc vơng vào những cây cột nhà bếp, đâu chân vào nhau, chiếc máy truyền tin dựa vào cây cột ở chân vơng. Sáng hôm sau tôi hỏi Lên:
- Làm ǵ mà mày bật đèn, bật radio giữa khuya vậy?
- Em thấy ma.
- Ở đâu?
Đưa tay chỉ về phía ngôi nhà chính đổ nát không ai dọn dẹp, cả ngôi nhà ba gian sập hoàn toàn trên nền nhà...
- Mày thấy như thế nào?
- Một cô gái tóc thề, mắt sáng như đèn, nh́n cḥng chọc vào em với gương mặt giận dữ.
- Thiệt không mậy?
- Em nói thiệt.
Quay qua anh Xê và những người lính trong ban chỉ huy, tôi nói thật gọn:
- Ḿnh dời nhà.

Lần khác, trung đội tôi làm tiền đồn cho đại đội sau ngày ngưng bắn ở La Vang Thượng trong một ngôi làng nhỏ tên là Như Lệ. Những ngày mưa dầm ướt át, ngồi bó gối nh́n quanh, buồn muốn khóc. Thảo nào làng lại chẳng có tên là "Như Lệ".

Khi bàn giao tiền đồn, chúng tôi vét lại giao thông hào, Hạ Sĩ Tâm nh́n thấy một xương sọ người và một đôi dép râu. Tinh nghịch anh đặt chiếc xương sọ lên bờ giao thông hào rồi lấy đôi dép râu gác trên đầu chiếc xương sọ, miệng nói "Sinh Bắc Tử Nam".
Tối hôm đó Tâm lên cơn điên lồng lộn như bị ai đấm đá dữ dội, chúng tôi phải trói anh lại, và đang đêm cho hai người lính dẫn anh vào đại đội gặp Trung Sĩ Nhất Trần Ngâm, người Việt gốc Miên vùng 4. Anh Ngâm dùng roi dâu quất vào người Tâm, Tâm quằn quại trên mặt đất. Hôm sau Tâm được đưa ra điều trị tại Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương, vài tháng sau được trả về đơn vị anh vẫn chưa tỉnh trí.

Trong đời lính tôi đă gặp quá nhiều chuyện ma quỉ như thế này rồi; đêm nay dưới cơn mưa băo trên đèo Hải Vân, tôi không muốn nh́n thấy thêm một lần nữa.
Tôi quay qua chọc Thành, hy vọng anh em chúng tôi có những tràng cười để qua cơn chịu đựng. "Ai biểu mày là giá sống làm chi! Nếu mày là rau muống, chắc mày đă bỏ thây trên đường ṃn Hồ Chí Minh rồi". Chúng tôi cười khúc khích, cảm thấy thương cho những người "Sinh Bắc Tử Nam!".

Gần mười giờ khuya đoàn tàu bắt đầu đổ dốc. Anh em chúng tôi thật căng thẳng ở những khúc quanh gắt. Bám chặt vào lan can tàu, anh em chúng tôi níu lấy nhau, nghe tiếng bánh sắt nghiến trên đường rail, nh́n những tia lửa bắn ra do sức ma sát của những bánh sắt trên đường tàu trong đêm mù sương, có lẽ các bạn tôi cũng như tôi đang thầm cầu nguyện cho con tàu b́nh an đến Đà Nẵng.

Nhớ lại cảnh anh em chúng tôi đi Roller Coaster trên đèo Hải Vân năm xưa mà trong ḷng c̣n kinh sợ, khác hẳn với cảnh Roller Coaster ở Magic Mountain hoặc Disneyland bên này, hét lên v́ cảm giác và thích thú.
Nửa khuya hôm đó tàu rời ga Đà Nẵng mang theo bốn anh em chúng tôi, những hành khách không ngủ; thật t́nh th́ không dám ngủ, sợ lơi tay bỏ mạng dọc đường. Thành th́ cứ tiếp tục "Mẹ mày! Con quỉ Bắc Kỳ".

Trời vừa sáng tỏ th́ đoàn tàu chạy chậm lại rồi ngừng hẳn. Ṭ ṃ, chúng tôi rời lan can tàu đi dần về các toa trước để hỏi thăm t́nh h́nh, th́ ra tàu hỏng máy. Chúng tôi mừng thầm và tự an ủi, “Nếu tàu hỏng máy lúc leo đèo Hải Vân, có lẽ anh em chúng tôi đă nằm vương văi đâu đó dọc Lăng Cô”.

Nh́n qua cửa sổ một toa xe, tôi trông thấy Quư, một bạn tù trước cùng học ở Khoa Học Saigon. Anh học Lư Hóa Vạn Vật, c̣n tôi Toán Lư. Tôi gọi Quư và gửi cái ba lô đẫm nước mưa của tôi, để được dễ dàng xoay xở. Sau này về Saigon, đến nhà anh nhận lại "gia tài tù" th́ nó đă được giặt, phơi khô và xếp cẩn thận lại rồi.

Đoàn tàu Thống Nhất 2 nằm chịu trận giữa đường chờ sửa chữa. Chúng tôi nhờ các bạn may mắn hơn đă ở yên trong các toa mua hộ thức ăn dằn bụng.
Khoảng 2 giờ chiều đoàn tàu chợ Đà Nẵng - Qui Nhơn xuất hiện. Chúng tôi rời lan can tàu Thống Nhất 2 để nhảy lên các toa của đoàn tàu chợ Qui Nhơn. Đoàn tàu chợ không có cửa như tàu tốc hành Thống Nhất. Kiếm một góc toa chúng tôi ngồi xuống nghỉ mệt sau gần một ngày đêm căng thẳng và không được nghỉ ngơi.

̀ à ́ ạch dọc đường, ghé các ga, cuối cùng đoàn tàu cũng về đến ga Diêu Tŕ, Qui Nhơn khi trời vừa sẩm tối. Tàu chưa dừng, loa phóng thanh đă oang oang thông báo: “Hành khách có vé xếp hàng bên trái, hành khách không có vé xếp hàng bên phải, ai không có vé phải mua vé phạt 100%”. Giá vé Đà Nẵng - Qui Nhơn 26$, ai không có vé phải trả 52$. Tính thầm số tiền c̣n lại trên người, th́ nếu phải mua vé chỉ một lần này thôi đă quá nửa số tiền anh em chúng tôi được phát là 95$ tiền vé xe lửa về Saigon và 7$ tiền ăn dọc đường.

Nh́n về phía cổng ra vào của nhà ga. Tôi trông thấy một người lính công an đang đứng gác. Kéo các bạn ra khỏi hàng, vừa đi về phía cổng tôi vừa nói "Công an giữ ḿnh th́ bây giờ công an thả ḿnh". Tới trước mặt anh công an, tôi mở lời:
- Chào cán bộ.
- Ǵ thế! Các anh muốn ǵ thế?
Giọng nói miền Bắc, có lẽ anh là một công an thuộc ngành hỏa xa được điều động vào làm việc trong Nam.
- Thưa cán bộ, anh em chúng tôi học tập cải tạo được thả từ Huế. Gần một tuần nay, chúng tôi đi đường không c̣n đủ tiền, xin cán bộ cho ra Qui Nhơn gặp người quen mượn tiền về quê. Tôi tŕnh bày hoàn cảnh và xin được cho ra khỏi ga.
- Có thật anh hết tiền không nào?
- Thật mà cán bộ. Tôi bị kẹt ở Huế cả tuần, chờ tàu Thống Nhất mà không mua được vé nên tiêu hết tiền.
- C̣n anh này? Anh công an quay qua hỏi Thành.
- Tui cũng vậy! Cán bộ không tin cứ xét, không nghe nó lầm bầm "Mẹ mày Bắc Kỳ" nữa!
May phước anh công an không hỏi Hùng và Huy. Hai anh chàng này chả bao giờ dám nói láo.
- Các anh nói dối là các anh chết với tôi đấy nhé!
Có lẽ thông cảm hoàn cảnh, anh đưa chúng tôi ra cổng và nói với nhân viên gác cổng:
- Cho các anh này ra.

"Thương người là tính bẩm sinh của dân tôi"

Sau khi ra khỏi ga, chúng tôi kiếm một hàng bánh ḿ nhét đầy bụng rồi ghé đến một ṿi nước công cộng uống cho thật no.
Đêm hôm đó bốn anh em chúng tôi nằm ôm nhau ngủ say như chết trên một vỉa hè của thành phố Qui Nhơn bỏ mặc ḍng người qua lại.
Tờ mờ sáng nghe Thành hét lên:
- ĐM! Thằng nào rọc túi tao rồi.
Chiếc áo jacket sờn vai cũ kỹ của Thành bị rọc ở một góc túi, thiệt là hết nói “Ăn xin gặp ăn trộm”.
Chúng tôi kéo đến ṿi nước công cộng để rửa mặt rồi trở lại ga Qui Nhơn với hy vọng có tàu xuôi Nam.

Tôi chợt nhớ tới Phan Văn Châu với lời nhắn trước khi được thả ở Cồn Tiên, nhét vào tay tôi tấm giấy xếp nhỏ và nói "Chừng nào về, trên đường xuôi Nam, đến Qui Nhơn, nhớ ghé nhà tao".
Châu cùng học với tôi ở Khoa Học, tôi hỏi nó kỷ niệm nào nhớ nhất khi lần đầu vào Saigon. "Chiếc xích lô máy", Châu trả lời. "Tao vừa xuống xe đ̣ th́ một chiếc xích lô máy trờ tới, tao leo lên để đến địa chỉ người quen, thiệt là xanh máu mặt. Tao thấy nó chạy như đâm vô đít người ta, rồi lạng qua lạng lại. Ngồi trên xe tao né qua trái, rồi né qua phải; thằng cha tài xế vừa lái xe vừa nh́n tao, vừa cười sằng sặc. Khỏi có lần thứ nh́!".

Đêm cuối ở trại, trước khi ra về, trao cho tôi chiếc ba-lô mà gia đ́nh nó đem ra kỳ thăm viếng trước đó, Châu nói:
- Ê Minh, hồi chưa quen mày, tao ghét mày lắm!
- C̣n bây giờ th́ thù tao chớ ǵ?
- Không, tao thấy mày chơi với bạn thiệt t́nh ...
"Xin lỗi bạn nhe Châu, tờ giấy xếp tư c̣n nằm trong đáy bóp nhưng tôi không dám lôi ra, không muốn đến làm phiền bạn. Giờ này bạn ở đâu? Cho gửi lời thăm hỏi!".

Ga Qui nhơn đông nghẹt người nhưng bảng thông báo cho biết không có xe lửa rời ga ngày hôm đó. Chờ đến 9 giờ sáng cũng không có ǵ thay đổi. Chúng tôi hỏi thăm đường sá và kéo nhau ra bến xe đ̣. Khi đến nơi th́ chỉ c̣n vài chuyến cuối cùng, chẳng có bán vé ǵ cả, muốn đi th́ cứ móc túi ra trả 55$ một người. Nóng ḷng muốn về anh em chúng tôi phải bấm bụng lấy tiền mua vé.

Vượt đèo Cù Mông, vượt cầu Đà Rằng xe phom phom xuôi Nam. Khoảng ba giờ chiều xe đến đèo Rù Ŕ. Nh́n về phía trại lính trên đèo bị bỏ hoang phế, lại nhớ đến thời gian sau ngày đi chiến dịch chúng tôi được về trú đóng ở đây, rồi th́ đến ngơ vào trung tâm huấn luyện Đồng Đế, nơi đă rèn luyện chúng tôi thành một người lính. Ngày nhập trại chúng tôi chỉ vào tượng đồng đen của người lính trước cổng nói đùa "Chừng nào phơi nắng đen như thế này th́ ḿnh ra trường..."

Trên ngọn đồi sau trường không c̣n bức tượng người lính ở đó nữa, dù sao cũng hơn là họ đổi cái nón sắt của anh thành cái nón cối. Mỗi chiều hoàng hôn nh́n lên tượng người lính trắng và ngọn đồi in h́nh trên bầu trời th́ sẽ thấy câu thơ mà ai đă từng ở trường Đồng Đế phải biết:

"Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ,
Em nằm xơa tóc đợi chờ anh."


Xuống xe ở Nha Trang gần bốn giờ chiều, đường phố ướt át và mát rượi sau cơn mưa. Gần sáu năm rồi sau ngày thống nhất đất nước, Nha Trang trông có vẻ tàn tạ, những tấm bảng bích chương, quảng cáo, cổ động vẽ h́nh các công nhân, bộ đội và các khẩu hiệu "Lao động là vinh quang" mà khi c̣n ở trong tù anh em chúng tôi thường đùa là "Lao động là vất vả, nằm ngả là vinh quang" trông có vẻ lạc lơng làm sao ấy. Gần sáu năm rồi mà chúng tôi chẳng được nghe thêm một bài hát hoặc một bài thơ mới về cái thành phố miền biển đáng yêu này.
Có lẽ văn nhân, nghệ sĩ đă bỏ bút, bỏ đàn để cầm cày, cầm cuốc đi kiếm ăn rồi, c̣n ai mà mơ về “Nha Trang là miền quê hương cát trắng, Ai qua không ghi vào ḷng một niềm luyến tiếc bâng khuâng”, luyến tiếc ǵ trong khi bụng không có một hột cơm.

Chúng tôi đi lần về ga xe lửa, gần đến ga th́ thấy Ngọc và Hiệp đi về phía chúng tôi.
"Tiên sư mày, giờ này sao c̣n ở đây. Ông tưởng mày về đến Saigon rồi." Tôi nh́n Hiệp miệng nói lớn. Nó trả lời "Mẹ, nhớ Nha Trang quá ghé lại thăm".
Hiệp cùng học Khoa Học với tôi, gia đ́nh ở Hố Nai, Biên Ḥa.
Hiệp kể: “Tao với một thằng bạn, không phải thằng Ngọc này, leo lên tàu Thống Nhất 1 tại Huế lúc ba giờ chiều. Xe đă chạy rồi, hai con nhỏ soát vé vào hỏi vé, hai thằng tao gốc Bùi Chu, Phát Diệm nói giọng Bắc đặc, thế là tụi nó đuổi chúng tao ra lan can. Xe leo lưng chừng đèo Hải Vân th́ mưa băo ập vào. Hai thằng tao ướt như chuột lột, tụi tao ngồi rủa "hai con quỉ ác độc". Một lúc sau nghe bên trong có tiếng nói chuyện qua lại, cửa sổ mở ra và một con nhỏ soát vé ló đầu ra hỏi:
- Có phải hai anh là tù cải tạo không?
- Vâng, tụi tôi là tù cải tạo được thả ra ở B́nh Điền. Tao trả lời.
Thế là cửa mở rộng, hai nàng tiên kiều diễm lách ra để hai tụi tao vào.
Những người dân miền Nam trong toa nhường chỗ cho tụi tao ngồi, người th́ đưa khăn lau, người th́ đưa nước uống, có người c̣n đi mua thức ăn cho tụi tao. Khi tới Nha Trang tao xuống ga, họ ngăn cản, nói là nên đi luôn v́ một lần đi là một lần khó khăn. Tao nói là c̣n một chuyện nợ nần t́nh cảm ở Nha Trang nên phải xuống để giải quyết. Thằng bạn kia hăi quá không dám xuống."

C̣n thằng Ngọc kể: "Ở Huế tao lủi vô một góc, nh́n kỹ không có động tĩnh, tao leo lên toa của những người dân buôn, tao xề xuống chỗ của một bà quấn khăn người miền Nam. Biết tao là tù cải tạo, bà để yên cho tao ngồi. Tàu chạy, tụi nó đến soát vé và đ̣i tiền phạt, những người dân buôn miền Nam chung tiền góp cho tao, thấy thế nó làm ngơ, thế là tao có thêm ít tiền."

- Thế th́ mày xuống đây làm ǵ, không đi về luôn cho êm chuyện.
- Nhớ Nha Trang quá, sẵn dịp đi ngang ghé lại thăm, hồi tưởng lại quăng đời quá khứ, không biết c̣n có dịp trở lại nữa không...
Sáu đứa chúng tôi tạt vào một quán nước bên đường, ngồi ăn uống qua loa và nghỉ mệt. Thực sự th́ chỉ có bốn đứa tôi cần nghỉ mệt, hai thằng kia có mệt ǵ mà nghỉ.

Anh chủ quán nghe chúng tôi kể chuyện đường về đâm ra thông cảm, đem tặng cho chúng tôi hai xị rượu thuốc và một ít mồi lai rai.
Rời quán chúng tôi đi dạo ṿng quanh thành phố để nhớ lại những địa điểm mà một thời đă hằn dấu trong cuộc đời chúng tôi, những người lữ khách.

Trở về ga th́ trời đă tối hẳn, chúng tôi t́m một góc trống ngồi nghỉ chuẩn bị cho ngày mai. Ngọc lôi cây đàn ra, cây đàn đă làm cho tôi và nó bị kiểm điểm nhiều lần về tội hát nhạc vàng. Đêm hôm đó nơi sân ga, nước mắt lưng tṛng tôi ngồi hát bài "Nha Trang ngày về" của Phạm Duy. Hùng càng làm cho không khí thêm se lạnh với bài "Đêm Đông" của Nguyễn Văn Thương. Chung quanh chúng tôi khoảng năm mươi người lữ khách ngồi quây quần im lặng thưởng thức, không một tiếng vỗ tay, không một lời tán thưởng. Hiệp, Ngọc và Thành thay phiên đàn cho chúng tôi hát gần hai tiếng đồng hồ.
Anh công an gác ga đi qua đứng nh́n chúng tôi rồi yên lặng bỏ đi. Có lẽ anh đến một góc nào đó trong sân ga để cảm thấy rằng, anh cũng như chúng tôi, tất cả đều là những lữ khách trên chính quê hương Việt Nam đă tàn tạ v́ chiến tranh, chia rẽ, hận thù...

Chúng tôi bị thức giấc bởi những tiếng náo động của những người đi buôn tràn vào sân ga sớm lúc 5 giờ sáng. Theo ḍng người chúng tôi ṿng ra ngoài rồi theo ngả các đường rầy để leo lên đoàn tàu chợ Nha Trang - Saigon. Hùng không muốn mạo hiểm một lần nữa nên xếp hàng mua vé. C̣n năm thằng chúng tôi leo lên xe ngồi trước. Khoảng 7 giờ sáng hành khách có mua vé được lên xe. Th́ ra những người dân buôn đă chọn trước những chỗ tốt rồi.

8 giờ sáng tàu rời sân ga, chạy đến Cam Ranh th́ nhân viên soát vé tàu vào toa của chúng tôi. Trước đó, khi biết chúng tôi là tù cải tạo những người dân buôn vội vàng nhét những bao hàng dưới chỗ ngồi chúng tôi ngồi. Anh nhân viên soát vé sau khi coi xong giấy tờ của tôi th́ nói "Chúc mừng các anh, chúc các anh may mắn!" rồi bỏ đi. Anh độ chừng hơn 30 tuổi, chắc cũng có thời là chiến binh miền Nam.

Tàu ghé qua các ga Mường Mán, Hàm Tân, Long Khánh và nhiều ga khác nữa mà tôi không nhớ tên, ḷng lâng lâng nghĩ đến lúc về tới nhà chắc bố mẹ tôi ngạc nhiên lắm. "Tam thập nhi lập", bố mẹ tôi đă già, tôi không có dịp phụng dưỡng mà c̣n là một gánh nặng cho gia đ́nh.
Chúng tôi lót ḷng bằng các thức ăn mua trên xe lửa hoặc ở các ga dọc đường. Tôi không cảm thấy đói, mệt ǵ cả v́ nỗi vui mừng sum họp với gia đ́nh đă xóa mất đi rồi.
Đoàn tàu đến Thủ Đức th́ trời đă hoàng hôn, song song với đường tàu từ Thủ Đức về B́nh Triệu là Quốc Lộ 1. Con đường tôi đă đi lại rất nhiều lần từ thời Trung Học, những ngày đi chơi ở Thủ Đức, Biên Ḥa, Lái Thiêu... Tôi c̣n nhớ những khúc quanh trên đoạn đường này.

Gần đến B́nh Triệu xe lửa từ từ chậm lại. Tôi thấy các người dân đi buôn bắt đầu quăng hàng hóa xuống đường. Dọc theo đường là các xe Honda ôm, xích lô, ba gác, ba bánh gắn máy chờ đón để chở đi những hàng hóa mà dân buôn sợ phải đóng thuế khi vào đến ga.
Tôi hỏi một thanh niên trẻ đứng cạnh cửa:
- Chừng nào th́ đến ga Saigon?
- Ga Saigon giải tỏa rồi, tàu chỉ đến ga B́nh Triệu mà thôi.
- Thế th́ chúng tôi xuống đâu?
- Các anh xuống đây tốt nhất, đi xe ôm hoặc xe xích lô về Saigon.
Anh em chúng tôi bắt đầu nhảy ra khỏi tàu, Ngọc, Hiệp, Thành, Huy và tôi.

Chân vừa chạm đất tự nhiên đôi ḍng lệ vui mừng trào ra. Tôi đă thật sự đặt chân đến Saigon, nơi mà gần 30 năm trước tôi được sinh ra ở nhà thương Từ Dũ. Nơi mà bố và các anh chị đă đến đón mẹ và tôi ngày ra đời, cũng là nơi mà tôi đă theo bố đến đón mẹ và các em tôi sau này. Nhớ đến ngôi nhà mà tôi đă được dưỡng nuôi từ tấm bé cho đến khi trưởng thành, tôi đột nhiên xúc động.
Bài nhạc "Ngày về" của Hoàng Quư chợt thoát ra từ cửa miệng.

"Tung cánh chim t́m về tổ ấm,
Nơi sống bao ngày giờ đằm thắm,
Nhớ phút chia ly, ngại ngùng bước chân đi, luyến tiếc bao nhiêu ngày qua..."


Chúng tôi 5 đứa nhảy lên một chiếc xe ba bánh gắn máy để đi về Saigon. Xe quẹo trái ở ngă tư B́nh Triệu. Từ trên dốc cầu B́nh Triệu nh́n về phía Saigon, những hàng đèn sáng rực càng rực sáng hơn lên trong ḷng tôi.

"Saigon đẹp lắm Saigon ơi, Saigon ơi!"

Ở cuối con đường này là nhà tôi, gia đ́nh tôi đang chờ đợi...
Những cánh chim tha phương sẽ bay về tổ cũ và mái ấm gia đ́nh, sẽ hàn gắn lại những vết thương đời, chiến tranh, tù tội, xóa đi các vết chàm đă khắc sâu vào thể xác cũng như tâm hồn những niềm đau âm ỉ không nguôi.

Tối hôm đó Hùng về thẳng nhà người em gái ở Phú Nhuận, Huy theo Thành đến trọ nhà người bà con ở Phú Thọ Ḥa, Hiệp và Ngọc ở lại nhà tôi qua đêm. Sáng sớm hôm sau Hiệp về Hố Nai - Biên Ḥa, Ngọc về B́nh Tuy. Hai ngày sau đó Thành về Mỹ Tho, Huy về Vĩnh B́nh.

Anh em chúng tôi không gặp lại nhau từ đó. Bây giờ Hiệp ở Santa Ana, Hùng ở San Jose, California, Thành ở Chicago, Illinois. Chỉ buồn cho Ngọc, Ngọc vẫn chưa dứt nợ súng đạn, đă qua đời sau một cuộc đọ súng với cướp khi đang làm việc trong một tiệm Liquor ở Texas. Huy quyết định ở lại Việt Nam chỉ với một ư nghĩ đơn giản "Xin chọn nơi chôn nhau cắt rốn, làm nơi gửi nắm xương tàn".

C̣n tôi, ngồi đây với những mảnh đời dở dang được viết ra trên giấy...

MX NGUYỄN NGỌC MINH
Nguyễn Trăi B363
Tiểu Đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến
 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại