Chuyện t́nh khó
quên
May mắn &
Hên xui trong đời lính chiến
Ba, bốn phát
Tập Truyện Thuyền Đời
13 người cuối cùng về
từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Nguyễn Văn Luận
(Lời giới thiệu: Tôi không dám tự cho mình đã đọc nhiều
sách và lại càng không dám phê bình một cây bút nào...nhưng
qua bài tự truyện này, tôi phải thảng thốt lên rằng Ồ
giọng văn gãy gọn, ngắn mà súc tích biết bao, ngắn gọn như
là tác giả tiết kiệm từng lời từng chữ...để không dẫn
dắt độc giả vào những chi tiết quanh co nhưng vẫn làm rung
động trái tim tình người... không như nhiều cây bút khác tôi
đã từng đoc. Mời các bạn theo dấu chân di vào đoản buồn một
đời lưu lạc...)
-----
Hai năm sau ngày đất nước chia đôi, từ miền Bắc hoang tàn, tôi lặn
lội tới vùng giới tuyến mong vượt thoát vào miền Nam tự do.
Lần tới gần sông Bến Hải, đêm tối âm u bờ Bắc, tôi đă nh́n thấy cầu
Hiền Lương v́ bờ Nam rực sáng ánh đèn. Trên cột cờ cao vút, bóng cờ
vàng sọc đỏ lung linh. Giọng ca ngọt ngào từ loa treo vọng về miền
Bắc:
“...sông Bến Hải là nơi chia cắt đôi đường...
hỡi ai... lạc lối... mau quay... về đây ...!”
Tôi đứng đó chơi vơi định hướng, đăm đăm nh́n cờ vàng bên kia bờ
sông lịch sử, uống từng lời ca trong cơn đói khát, rồi bừng tỉnh,
lao lên phía trước. Từ đâu đó, mấy cái nón cối xông ra. Tôi bị trói
hai tay bằng sợi thừng oan nghiệt, theo nón cối về lại địa ngục trần
gian.
Mười chín tuổi, lao tù đầy đọa, tôi đă mất mẹ, mất cha, bị qui là tư sản, xa vắng họ hàng v́ chia rẽ giai cấp. Tôi mất Hà nội là nơi tôi sinh ra làm người Việt Nam. Không có tang cha khi cha gục xuống, không có tang mẹ khi mẹ xuôi tay, không hy vọng có đám cưới đời ḿnh.
Bạo quyền cộng sản Việt Nam bắn giết
hàng trăm ngàn người, bị qui là địa chủ. Nhiều trăm ngàn người bị
tập trung lên rừng, để lại vợ con không nhà không đất. Thời gian làm
ngưng nước mắt, oán than cũng vô ích, chỉ c̣n tiếng kêu vang vọng
khắp miền: “Chúng tôi muốn sống!”
Hai mươi lăm năm sau (1981) tôi vượt biển, thoát tới Hong Kong. Bốn
mươi tư năm từ lúc chào đời, tôi thành người tị nạn cộng sản.
Ngày tiếp kiến phái đoàn Mỹ xin đi định cư, một ông Mỹ dáng nghiêm trang, nghe tôi trả lời, đột nhiên hỏi “Anh có biết nói tiếng Pháp?”. Tôi nh́n ông, giọng run run:
““L'exilé partout est seul!” (Kẻ lưu đày nơi đâu cũng cô độc).
Ông gật đầu hiểu cả tiếng Tây, hiểu
ḷng tôi đau xót. Xưa tôi học trường Albert Sarraut, Hà Nội.
Đứng bên rào kẽm gai, sau dăy nhà tôn của trại tị nạn Hong Kong, một
ḿnh, suy tư thân phận. Tôi sẽ đến nơi xứ lạ là nước Mỹ xa xôi, t́m
quê hương mới, chỉ trở về khi đất nước Việt Nam tự do, không c̣n
cộng sản.
Đứa bé chừng 5, 6 tuổi, tung trái
banh, toan bắt th́ trượt chân trên sân trại. Tôi đă kịp giang tay đỡ
cháu khỏi ngă th́ người đàn bà chạy tới, đứng im, lặng lẽ nh́n tôi.
Tiếng trẻ thơ kêu “Má”, tôi nh́n nàng... Sự thầm lặng và ánh mắt
trao nhau là chân t́nh của người tị nạn Việt Nam nhẫn nhục, khổ đau,
nói được nhiều hơn lời nói. Rồi những ngày sau đó, tâm sự, nỗi niềm,
tôi đă cùng Mai kết thành bạn đường và bạn đời, đi Mỹ định cư.
Chồng Mai là người lính Cộng Ḥa hiên ngang dưới lá cờ vàng ba sọc
đỏ, quyết bảo vệ quê hương. Anh tử trận, mang thân đền nợ nước, để
lại con thơ. Mai trở thành góa phụ, miền quê Đà Nẵng, cuốc đất trồng
khoai, nuôi mẹ già con dại. Sau năm 1975, mất nước. Mẹ già khuất núi,
con chậm lớn v́ cháo loăng, bo bo thay cho sữa mẹ và cơm.
Một đêm mưa băo, Mai bị tên Việt cộng trưởng công an xă cưỡng hiếp, du kích xă canh gác quanh nhà. Mai phải sống v́ con mới lên ba, mất cha c̣n mẹ. Người dân Đà Nẵng ra đi, đă mang theo vợ con người lính chiến tới Hong Kong năm 1981. Đứa con lên sáu không biết tiếng gọi “Ba”!
Tôi mang nặng tủi nhục, đọa đày triền miên từ đất Bắc đi t́m tự do. Mai gánh những thương đau, mất mát, cơ cực của miền Nam, bồng con đi tị nạn. Lấy dĩ văng chia xẻ cùng nhau, chúng tôi sắp xếp lại hành trang cho bớt gánh đoạn trường, đi Mỹ.
Con đă có Má, có Ba. Má bồng con, Ba xách túi. Con có đồ chơi, cầm chiếc máy bay vẫy chào các chú, hai người lính chiến Quảng Nam đưa tiễn. Tôi nh́n con tự nhủ: “Ba sẽ dạy con tiếng “Cha”, chỉ cho con h́nh người lính Cộng Ḥa, ở bất cứ nơi đâu đều là Cha con đó!”.
Mai đă nhất định không đi kinh tế mới.
Tôi đă trốn công trường, vào tù chịu đựng, bây giờ dù bỏ lại quê
hương nhưng c̣n Tổ quốc Việt Nam. Bốn ngàn năm lịch sử, thăng trầm,
người dân nước Việt sẽ không trở thành Cộng sản.
Quê hương mới của chúng tôi là vùng đông bắc nước Mỹ. Căn apartment
hai pḥng, hai chiếc giường nệm, một chiếc bàn con, đă cho tôi ấn
tượng đẹp những ngày đầu tới Mỹ.
Lúc tôi khôn lớn, không có chiếc giường làm nơi cư trú, v́ đă thành vô sản. Rồi tôi hiểu, vô sản cũng vẫn c̣n giai cấp. Phải lên rừng, một miếng nylon bọc vài manh vải gọi là quần áo, th́ mới thành “người vô sản chân chính”!
Nh́n con ngon giấc ngủ thần tiên, vợ chồng tôi thao thức, không phải lo âu mà th́ thầm những dự định tương lai. 18 tháng welfare trợ cấp, đủ thời gian cho ḿnh đi học tiếng Anh. Đọc ḍng thư hội M&RS nhắc trả nửa tiền nợ vé máy bay sang Mỹ Xin “bạn trả dần 12 tháng, giúp cho người sau bạn định cư”, theo ư Mai, ư nghĩ nhân hậu của người đàn bà làm mẹ, “ḿnh trả ngay từ tháng thứ hai”.
Việc đơn giản là tại sao người ta không khấu trừ vào trợ cấp, lại đ̣i riêng. Mai chỉ nhẹ nhàng “nợ th́ ḿnh trả, ở hiền sẽ gặp lành”, nhưng tôi lại suy nghĩ mung lung.
Đây là bước đầu thử thách, cái thước đo ḷng người tị nạn. 72 đô tiền nợ một tháng, có thể không trả và quên đi. Một lần để ḷng vẩn đục sẽ trở thành bất lương.
Cha mẹ bất lương con cái sẽ chẳng nên người.
Một sáng mùa Xuân, “bé Nam” gọi Má,
gọi Ba, chỉ bông hoa mầu vàng mầu đỏ đung đưa bên vườn hàng xóm, kêu
lên “hoa tu-líp”. Bà già người Mỹ đứng trên thềm, giơ tay vẫy vẫy.
Mai đă nói “Thank you”, ngọt ngào, mạnh dạn, tay chỉ trỏ, diễn tả
được những ǵ muốn nói.
Bà Jenny hiểu chút ít về “chiến tranh Việt Nam” qua tivi, sách báo
hồi bà c̣n dạy học. Bà đă thấy “Boat people”, những thuyền nhân tị
nạn, nhưng lần đầu bà thấy một gia đ́nh người Việt đến vùng này, lại
là hàng xóm nên bà có cảm t́nh. Đây là ứng nghiệm “Ở hiền gặp lành"
hay là sự may mắn cho gia đ́nh tôi? Nói thế nào th́ cũng đúng v́ vài
nơi trên đất Mỹ vẫn c̣n kỳ thị chủng tộc.
Thời gian trôi đi nhưng hai tiếng “lần đầu” lặp lại: lần đầu ra nhà
Bank, lần đầu tới Post Office. Có những lần đầu chưa biết, nhưng có
hai lần đầu quan trọng: “bé Nam” đi học, chúng tôi xin được việc làm.
Bà Jenny cùng chúng tôi đưa “cháu” tới trường, bà cho chiếc mũ
baseball và đôi giầy sneaker trắng muốt, khen “Cháu cute”. Vợ chồng
nh́n nhau, không hiểu, lát nữa về tra tự điển.
“Từ nay chúng ḿnh có Má, bé Nam có Bà...!” Mai thốt lên khi chúng tôi đồng ḷng nhận “Má Nuôi”. Bà Jenny thành “Má Jen”. Chuyện xảy ra vào ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), 17 năm về trước.
Sống một ḿnh trong căn nhà rộng răi, bà Jenny vốn là cô giáo nên rất yêu trẻ. Bà mời “cả nhà” sang ăn Turkey.
Bé Nam lên bảy, đi học, hiểu nhiều về Thanksgiving hơn Má và Ba. Ăn uống vui vẻ, vợ chồng tôi nói chuyện với bà, có lúc ngồi im lặng hơi lâu v́ vốn tiếng Anh ít ỏi.
Bỗng bé Nam kêu “Má...!”, bà Jenny toan đứng dậy th́ Mai buột miệng nói: “Má... let me do it!”.
Nghe tiếng “Má” lỡ lời của Mai, tiếng
Việt, vừa lạ, vừa thích, bà bâng khuâng giây lát.
Mai kể chuyện xưa, miền Đà Nẵng cuốc đất trồng khoai, nuôi mẹ già
con dại... Tôi góp phần thông dịch, bớt thêm: Người Việt Nam coi
việc chăm sóc cha mẹ già là bổn phận, dù chịu nhiều cơ cực cũng cố
gắng đền ơn sinh thành, dưỡng dục.
Bà suy nghĩ mấy ngày, bỏ dự định chuyển về Florida, tỏ ư muốn nhận gia đ́nh tôi làm Con, làm Cháu.
Chúng tôi dọn nhà sang ở chung với “Má Jen”, điều này ít thấy trong các gia đ́nh người Mỹ có con trưởng thành. Các con nhờ Má, nói được tiếng Anh. Cháu quấn quít bên Bà, xem chú chuột Mickey. Mùa đông buốt giá nhưng trong nhà nồng ấm t́nh người. Má vui tươi hơn trước, thích ăn bánh xèo và phở Việt Nam.
Mai vẫn cặm cụi hàng ngày, làm những
chiếc ví tay của phụ nữ. Mấy người bạn Việt Nam đặt cho Mai biệt
danh “Bà đầm hăng bóp” v́ “giỏi việc, lại biết tiếng Anh”, nhiệt
t́nh giúp đỡ bà con.
Cũng như Má Jen, Mai không thích sa hoa, theo Má vào tiệm sách trong
Mall nhiều hơn vào tiệm bán phấn son, make up. Việc từ thiện đă
thành sở thích, Mai gửi 200 đôla, mỗi lần, giúp đồng bào băo lụt
miền Trung, miền Bắc, v́ lương tâm, đạo lư. Kẻ cầm quyền ăn chặn của
dân, như đám cướp, có bao giờ được măn kiếp yên thân. Đức Phật từ bi
dạy Mai ḷng độ lượng.
Tôi làm technician, ngành điện tử.
Nhớ xưa, học sửa radio bị nghi làm gián điệp. Bộ công an Hà nội lấy
công nông lănh đạo, coi “điện tử” là CIA. Mười bẩy năm trong ngành
điện tử, nay chắc tôi thành CIA ngoại hạng!
Bây giờ, ngồi trước máy computer, nối vào mạng Net, đọc Website
tiếng Anh, tiếng Việt, thông tin thế giới bằng email, việc hăng,
việc nhà, công tư ḥa vào nhau từng ngày làm việc, tôi đă có cuộc
sống an ḥa, hạnh phúc, một gia đ́nh thật sự yêu thương.
“Ngày mai, chúng ḿnh đi New York thăm con”.
Mai nắm tay tôi, hân hoan về ngày mai.
Ngày mai là tương lai của bé Nam ngày trước, giờ là một thanh niên cao 6 feet, đầy nghị lực bước vào đời. Xong đại học, Nam Nguyen trở thành chuyên viên tài chánh, làm việc trong văn pḥng, tầng thứ 32 của một nhà “chọc trời” New York.
Ngày con ra trường là ngày vui trọn vẹn, ngày con nhận việc mới là niềm sung sướng của Má, của Ba, của Gia Đ́nh tị nạn, mong ước từng ngày cho Con thành Người.
Lâu lắm rồi, tôi mới có một đêm không
ngủ để nh́n lại đời ḿnh. Tháng chín, trời sang Thu se lạnh vùng
đông bắc nước Mỹ. Tôi đă sống nơi đây 18 năm tị nạn, không thất vọng
mà tin tưởng vào tương lai.
Người cộng sản muốn làm hung thần cai quản địa cầu, dựng lên Địa
Ngục. Dựng được vài phần th́ sụp đổ, sót lại từng mảnh vỡ điêu tàn.
Hung thần đă chết.
Thoát kiếp lưu đày làm người tự do, tôi kính cẩn tri ân người phá ngục: người lính Cộng Ḥa, giương cao lá cờ vàng ba sọc đỏ, chính nghĩa Quốc Gia. Việt Nam, từ tinh thần đến lănh thổ.
Người lính chiến Cộng Ḥa hiên ngang đi làm Lịch Sử. Không có Anh, tôi đă không có niềm tin để sống sót, đă thành nấm mộ hoang trên rừng xơ xác. 21 năm kiên cường giữ vững miền Nam, Anh đối mặt hung thần, cứu sống thêm hàng triệu người vô tội.
Người lính của miền Nam tự do tử trận. Anh để lại người Vợ hiền, cuốc đất trồng khoai, chúng vẫn không tha, chà đạp nhân phẩm. Tôi lê bước chân vô định, gặp Mai làm Bạn Đường, nh́n mắt con thơ thấy h́nh người lính chiến.
Anh đă để lại Con Thơ cho tôi được làm “Ba” mang tṛn trách nhiệm. Con đă trưởng thành, mai này sẽ góp phần xây dựng lại Quê Hương. Tôi muốn níu lại thời gian để được thương vợ, thương con nhiều hơn nữa.
Đă quá nửa đêm về sáng. Nh́n Mai ngon
giấc ngủ thần tiên như “bé Nam” ngày đầu tới Mỹ, tôi ngồi im lặng
bên bàn viết, đợi chờ sớm mai để được nh́n b́nh minh bừng sáng
Phương Đông, được nh́n Mai thức dậy, mỉm cười, âu yếm nh́n chồng.
Cuộc sống an vui. Ngót 20 năm rồi, không biết khóc, đêm nay tôi nhỏ
từng ḍng lệ, xúc động, bùi ngùi.
Tôi đang sống và đang viết Bài T́nh
Ca của Một Người Tỵ Nạn.
(tudo NGUYỄN VĂN LUẬN)
2024
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Tháng ngày tao loạn
Sài G̣n ơi!
Đoạn kết câu
chuyện t́nh buồn
Đôi giầy trậ
Thư kư của thiên
thần
Với tàu định
mệnh Lam Giang HQ 402
Bà Mẹ thượng đẳng
Do Thái và Bài học sinh tồn
Một bà mẹ vất vả
Áo bà ba tím
Anh hùng Richard Norden
Văn hoá không tên
Họ đến và chết v́ tự do
Thiên đường đă xa
Yếm thắm hương xưa
Ông Sư nhà quê
C̣ng lưng vẫn gánh
Cuộc đời và sự nghiệp của danh ca Hà Thanh
How the 1972 North VN Easter offensive...
Xác
chết trên băi biển
Những
món nợ khó trả
Nếu
có thể đi về quá khứ...
Người
đưa tin... độc địa
Chị Agnès
Một thời chinh chiến điêu linh
Người Saig̣n ….xưa!!!
Trí thức sến
Đuổi gà cho vợ
Hậu Duệ VNCH rạng danh Tiểu Bang Texas
Máu đào
Bản tình ca của
người Tỵ Nạn
Miếng ăn
Cờ Việt Nam Cộng Ḥa ngay giữa thủ đô
Melbourne
Đại uư Andrew Dang (gốc Việt), Phi công B-2
Chiến tranh Israel-Iran
H́nh ảnh Lễ Kỹ Niệm Ngày Quân Lực 19/6
tại Úc
Kỷ niệm ngày 19 tháng Sáu tại Cali
Mắt lệ cho
người
BS trong tù
Những ánh mắt trẻ thơ
Gặp lại cố nhân!
Lệnh gọi “học tập cải tạo”, một vết chém cay nghiệt!
Những năm nào chiến tranh đă quên
Sau 30 tháng 4. những nhớ và quên
Từ một tấm h́nh
Những người
chiến sĩ vô danh
Phố núi
Nhiều khi
Viết trong ngày Memorial Day 2025
Đệ Thất Hạm Đội - Cứu giúp thuyền nhân
Sự đời
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong nhớ bạn
Chuyện t́nh thời
chiến
50 năm – c̣n đó nỗi buồn
30 tháng 4. Một vài hồi tưởng...
Tiếng khóc của
một dân tộc
Bài thơ của
một người học tṛ cũ
Vào viện dưỡng lăo
Thu - Hát cho người
Mảnh vụn
Ơn em
Người vợ
lính
Melbourne - Tưởng niệm 50 năm Ngày Quốc Hận
Ngày người tù binh trở về!
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam
Vào ngày này năm 1975, Chiến dịch Gió lốc
Ngày cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Cong lưng vẫn gánh
Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975
Tháng
Tư - Nh́n lại tháng Ba găy súng
Băng đạn cuối cùng
Cuộc di tản tệ hại ở toà Đại Sứ Mỹ
Tưởng nhớ anh Năm
Nguyễn Đ́nh Bảo
Cờ Vàng: Biểu tượng của Việt Nam Cộng Ḥa
Vĩnh biệt anh chị Trần Hoài Thư
T́m được hài cốt Th/T Trương Phùng...
Các anh hùng LCĐB tử thủ An Lộc
Đêm đ́nh
chiến
Ai xứng đáng được phủ Quốc Kỳ VNCH
Những
tên vc nằm vùng
Giải oan cho Tổng Thống Thiệu
Trại tị nạn Camp Pendleton năm 1975
33 năm t́m được xác chồng
Kẻ bại trận
nợ người tử trận!
Sao Mai 09
Tuấn Ngọc -
Gửi gió cho mây ngàn bay
Chữ "Tín"
Nghĩa trang tử sĩ Biên Ḥa
Tonle Tchombe
(Tống Lê Chân)
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Không
bỏ Anh Em, không
bỏ Bạn Bè
T́nh
người
trong cuộc
chiến
Trận
chiến Đại Phú
Tâm thức người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc giới
Tâm tưu của một thằng lính ngụy
Tao là Ngụy!
Những kẻ mở
miệng là phát ra tiếng "Ba Que"
Ba mươi tháng tư năm
xưa, bác ở đâu?
LHQ chất vấn Việt Nam về TPB VNCH
Chết để làm ǵ
Đưa anh về nhà
Chiều
Thằng "Cầu" đỏ
Kỷ niệm 50 năm người Việt định cư tại Úc
Chương tŕnh kỷ niệm 50 Năm, người Việt Tỵ Nạn CS
Chuyện về một lá thư
Đất nước lạ lùng
Chuyến đi Hawaii & giây phút thần tiên khó quên
Người Lính Già Oregon Đă “Giă Từ Vũ Khí”
Bên bờ sinh tử
Đời ơi tôi khóc !
May mà ta c̣n có em...
Nhà báo lăo thành Mạc Kinh
Tô Lâm thừa nhận Sài G̣n trước 75 phồn vinh
Khi rừng chưa thay
lá
Bạn xưa 50 năm cũ
Cuộc hành tŕnh
Hăy thắp
cho anh một ngọn đèn…
Trận tổng tấn công của VC và phản công của TQLC trong Tết
Mậu Thân
Kỷ niệm Cổ Thành Đinh Công Tráng
Tái chiếm Quảng Trị, trận chiến dài nhất
QLVNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị
Sài G̣n, quán cafe & tuổi lang thang
Khoác áo chiến y
Một nét văn hoá Sài G̣n xưa
Sài G̣n ơi, Em c̣n đó hay không?
Ḍng sông đứng lại
Con người thực Anthony Fauci
Trong lửa đỏ, giữa sự chết, trên Quê Hương!
Tết năm này nhớ
tết năm xưa
Phi vụ cuối cùng
55 năm Tết Mậu thân 1968
Huế 1968 - thảm khốc và hy vọng
Người Việt Nam
đầu tiên nhảy dù là ai?
H́nh ảnh Lễ Thượng Kỳ mồng một Tết Ất Tỵ tại Úc
Đêm giao thừa buồn
3 mẫu chuyện ngắn
Đi t́m hơi ấm
Đồng Hương
Ngựa đá qua sông
50 năm nh́n lại người Việt tại Hoa Kỳ
Con dao con chó
Người Nam Kỳ
Tâm sự của một cựu sinh viên Luật Khoa Sài G̣n
Sự chiến đấu kiêu hùng của QLVNCH
Người ở lại Định Quán
Xứ cao bồi những ngày trước lễ Giáng Sinh
Phiên phiến tuổi già
Một chuyện rất Việt Nam
Đỉnh ngu trí tuệ
Tạp ghi CẢM ƠN NGƯỜI VIẾT SỬ “Phía Bên Kia”
Bạn thân từ thiếu
thời
Chân dung
ngày xưa Hoàng Thị
Xóm cũ nội thành
Tôi tay đôi với tụi nó đây!
Tấm thẻ bài
Rạn rụa lệ mềm
Các con phải sống
Hồi Kư của người về Từ Hoa Lục Đỏ 1974