Chuyện t́nh khó
quên
May mắn &
Hên xui trong đời lính chiến
Ba, bốn phát
Tập Truyện Thuyền Đời
13 người cuối cùng về
từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tôi đến thị xă Ban Mê Thuột vào một buổi chiều đầu mùa khô năm 1977.
Gió bụi của miền cao nguyên đất đỏ làm tôi tối mắt sau một chuyến đi
dài trên chiếc xe đ̣ cọc cạch.. Để mặc cho anh Chu Sơn - chồng tôi -
loay hoay với mấy túi áo quần, sách vở. Bước xuống xe, tôi chỉ c̣n
đủ sức ngồi bệt trên đám cỏ bên vệ đường. Đất đỏ, cỏ úa và bầu trời
buổi chiều xám xịt. Đất trời Ban Mê Thuột buổi đầu giao tiếp đối với
tôi chẳng thú vị ǵ.
Nơi tôi làm việc là khoa nhi Bệnh viện tỉnh Daklak. Đây là một đấu
trường quá sức với tôi. Cảm nhận lúc đầu là như thế. Khoa có 50
giường bệnh, bệnh nhân nằm la liệt hai ba em trên một giường. Những
chiếc giường sắt tây cũ rét, cái mất song, cái găy chân kê đóng khập
khễnh. Mền chiếu đen điu, tả tơi rách nát. Nhân viên của khoa vỏn
vẹn có 10 người. Một trưởng khoa, một bác sĩ điều trị, sáu y tá và
hai hộ lư (y công). Trưởng khoa là chị Liên, y sĩ từ chiến khu về.
Bác sĩ điều trị là một đại úy quân y lưu dụng, ông Nguyễn Hữu Thới.
Sáu chị y tá là các chị: Hoa, Hà, Toan, Ri, Kính và H'Băm làm nhiệm
vụ điều dưỡng. Hai y công là chị Thái và chị Bé.
Bệnh viện tỉnh DakLak trước 1975 nguyên là một bệnh viện dă chiến
quân dân y. Sau 1975 phần quân y tách riêng để h́nh thành nên bệnh
viện quân đội. Cơ sở hạ tầng của bệnh viện dă chiến quân dân y này
trở thành cái vỏ của một bệnh viện đa khoa dành cho dân các huyện
nông thôn của tỉnh Daklak (thị xă Ban Mê Thuột có một bệnh viên
riêng: bệnh viện thị xă).
Ban Mê Thuột "giải phóng" từ tháng 3 năm 1975. Tôi lên nhận việc
cuối tháng 3 - 1977. Hai năm "giải phóng", vừa đủ để những dăy pḥng
cấp bốn trở thành cái vỏ chật chội, loang lổ, xập xệ tối tăm của một
cơ sở gọi là bệnh viện. Khoa nhi chiếm hai pḥng cách nhau một hành
lang hẹp. Mỗi pḥng có một bóng đèn huỳnh quang ở giữa, hai đầu là
hai bóng đèn tṛn 100 watts tù mù vàng vọt khi có điện. Khi không có
điện th́ bà con người dân tộc thiểu số, người kinh tế mới thắp sáng
bằng bất cứ thứ ǵ kiếm được. Nước th́ khi có khi không. Bà con
người dân tộc thiểu số đun nhét cả vỏ, cùi bắp, lá lảy, giẻ rách
xuống miệng cầu xí. Hai chị y công làm việc đầu tắt, mặt tối mà
không khí của khoa pḥng vẫn nặng nề khó chịu.
Y cụ th́ không có ǵ ngoài hai b́nh oxy rỉ rét, mấy cái máy đo huyết
áp x́ hơi, kim tiêm th́ phải mài đi mài lại trên các viên đá, khi
chích các em khóc thét lên và ḷng chúng tôi th́ như bị cứa bởi lưỡi
dao cùn.
Bệnh nhân của chúng tôi đa phần đến từ các buôn làng người dân tộc
thiểu số, các khu dinh điền cũ (được thành lập thời TT Ngô Đ́nh Diệm)
và vùng kinh tế mới. Hầu hết các em bị suy dinh dưỡng và mắc các
bệnh lây nhiễm. Da các em bủng beo, xanh tái, lớp mỡ dưới da hầu như
không c̣n, trên da đầy mụt nhọt, chốc lở và vết cắn thâm tím của
muỗi ṃng, vắt, đỉa.
Theo sự sắp xếp của lănh đạo bệnh viện, tôi đến khoa nhi để thay thế
bác sĩ Nguyễn Hữu Thới. Bác sĩ Thới sẽ chuyển đến trạm chống lao.
Một tuần lễ làm việc dưới sự hướng dẫn của người bác sĩ tiền nhiệm
đối với tôi là một cuộc chuyển giao tận tụy giữa hai thầy tṛ. Ông
sợ tôi không đủ sức để đương đầu với một nhiệm vụ quá ư nặng nề. Ông
bảo tôi nhanh chóng học tiếng và phong tục tập quán của người dân
tộc thiểu số. Qua ông tôi c̣n học được tính kiên nhẫn, khiêm tốn,
ḷng yêu nghề, tinh thần lạc quan, t́nh yêu con người và cuộc sống.
Ông đă rời khoa nhi đúng một tuần lễ sau khi tôi đến, nhưng trừ
những ngày nghỉ theo qui định hành chánh, những lúc ốm đau hay những
trường hợp bất thường, ngày nào ông cũng trở lại khoa nhi suốt ba
năm tôi làm việc tại đó.. Vợ ông ‒ chị cán sự Bê đang làm việc tại
khoa lây (khoa truyền nhiễm). Buổi sáng ông chở vợ đi làm, buổi
chiều ông đến đón vợ trên chiếc xe đạp. Ông không chờ vợ ở khoa lây
mà chờ vợ ở khoa nhi. Mục đích của ông là để xem tôi có hỏi ǵ không,
và mặc nhiên ông trở thành người cố vấn tự nguyện cho tôi suốt hơn
ba năm tôi ở khoa nhi Bệnh viện tỉnh Daklak. Đối với ông làm việc ở
trạm chống lao là một h́nh phạt nặng nề. Ở trạm chống lao ông trở
nên người nhàn hạ. Ông và cả tôi nữa không hiểu v́ lư do ǵ một bác
sĩ chuyên nhi như ông lại bị trói tay trói chân ở trạm chống lao
trước t́nh trạng khoa nhi và cả Bệnh viện tỉnh Daklak la liệt bệnh
nhân mà bác sĩ chỉ đếm được chưa hết mười ngón tay trên hai bàn tay..
Mỗi buổi chiều khi chị Bê vợ ông xong việc ở khoa lây, đến khoa nhi
để ông chở về, tôi nhận ra niềm hân hoan trong mắt họ. Như thế là họ
đă qua được một ngày b́nh yên để trở về với bốn đứa con đang chờ ở
nhà.
*
Tôi rời khoa nhi Bệnh viện tỉnh Daklak cuối năm 1980 khi không c̣n
đủ sức để cầm cự. Tôi bị sốt rét, sinh con trai đầu, không có sữa.
Chồng tôi, anh Chu Sơn, bị lao phổi nặng, bác sĩ Thới điều trị.
Chính ông đă khuyên chúng tôi nên nhanh chóng về đồng bằng để có
điều kiện cách ly và có thêm dinh dưỡng là những điều kiện tối thiểu
để chúng tôi tồn tại.
Chúng tôi về Đà Nẵng, không c̣n gặp bác sĩ Thới mỗi ngày tại khoa
nhi, nhưng tin tức về ông tôi vẫn nhận được.
Ông trụ lại Ban Mê Thuột mặc dầu ông có điều kiện làm lại cuộc đời ở một nơi chốn khác. Tôi nhớ có lần ông đă tâm sự:
– “Ḿnh con địa chủ, học trường Tây,
lại là sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Ḥa, hơn thế nữa là trí thức.
Địa chủ cộng với Tây, cộng với sĩ quan ngụy quân, cộng với trí thức,
cộng với Ê Đê, cộng với giải phóng, cộng với Xă hội Chủ nghĩa để trở
thành người Việt Nam. Làm người Việt Nam mà không đói khát, không
đau thương, không khổ nhục, chưa thực sự là người Việt Nam”.
Ôi, cái công thức, cái con đường ǵ mà đắng cay đến thế. Có đi hết
những chặng đường như thế mới là người Việt Nam sao? Đối với riêng
tôi, những lời của Nguyễn Hữu Thới là một liệu pháp giúp tôi vượt
qua được những bi quan khiếp sợ trong những ngày đối đầu với bệnh
tật và môi trường sống xă hội chủ nghĩa tại Ban Mê Thuột. Ông đích
thực là người thầy thuốc mẫu mực, một con người lương thiện mà bất
cứ một nền y tế, một đất nước b́nh thường nào cũng nhất thiết không
nên rẻ rúng.
Mấy tháng sau khi về Đà Nẵng chồng tôi một lần trở lại Ban Mê Thuột,
gặp lại bác sĩ Nguyễn Hữu Thới – người thầy thuốc đồng thời là người
tri ngộ trong một đêm cùng nhau trăn trở, đă biết thêm một thông tin
ngẫu nhĩ rằng: Nguyễn Hữu Thới là hậu duệ đời thứ mười hai của
Nguyễn Hữu Cảnh, người mà 300 năm trước vâng mệnh của chúa Nguyễn
đến lập đồn biên pḥng ở Mố Xoài, nay thuộc tỉnh Đồng Nai.
Thông tin cuối cùng chúng tôi nhận trễ tại Đà Nẵng vào cuối năm 1994
rằng là bác sĩ Nguyễn Hữu Thới bị đột quỵ, cương quyết không chịu đi
bệnh viện, đă qua đời ở cái tuổi chưa đến 60. Ông không c̣n đủ sức
để đi tiếp con đường khổ nạn làm người Việt Nam mà ông đă vạch cho
chính ḿnh.
Rời Ban Mê Thuột tôi mang tâm trạng
một người bỏ cuộc, chạy trốn. Nhẹ nhàng hơn tôi xem ḿnh như người
lính bị loại khỏi cuộc chiến mà ḿnh đă dấn thân. Ba năm hai tháng
bảy ngày ở khoa nhi Bệnh viện tỉnh Daklak quả là một quăng thời gian
đáng nhớ của một người thấy thuốc đến đúng cái nơi cần phải đến.
*
Nhưng điều đáng nhớ nhất của tôi chưa phải là “liệu pháp Nguyễn Hữu
Thới” mà là “liệu pháp Hoàng Ngọc Châu”.
Hoàng Ngọc Châu đến bệnh viện vào một buổi chiều áp tết năm Mậu Ngọ (1978) trong t́nh trạng cấp cứu: mặt mày Châu như một tàu lá héo, em khó thở, da xanh mướt, môi nhợt nhạt, mũi hếch, cánh mũi phập phồng, mắt lồi, đầu ngón tay ngón chân bè ra và tím tái.. Việc chẩn đoán bệnh cho Châu không khó lắm v́ các triệu chứng lâm sàng đă rơ ràng và khá đầy đủ. Em bị tim bẩm sinh: một trường hợp thông liên thất đă đổi shunt và có biến chứng tăng áp phổi(1).
Chúng tôi nhanh chóng làm các thủ
pháp cấp cứu, các thủ tục nhập viện và nói với người nhà (mẹ em)
chuẩn bị tinh thần để em ở lại bệnh viện dài ngày.
Những ngày áp tết bệnh viện và khoa nhi giảm dần quang cảnh tấp nập.
Các bệnh nhân nhẹ hay đă ổn định lần lượt cùng với thân nhân về quê
lo Tết và ăn Tết. Nhân viên bệnh viện một số cũng “tranh thủ” về nhà
để làm cái ǵ đó chuẩn bị các thứ...
Tôi lần đầu tiên đón tết xa nhà. Những thứ phân phối nhận được từ
ban “đời sống” bệnh viện nhiều và khác lạ hơn ngày thường nhưng
chúng tôi không đủ sức “lo Tết”. Ăn uống cũng rất cần cho t́nh trạng
thiếu thốn dinh dưỡng như chúng tôi, nhưng nghỉ ngơi đối với riêng
tôi lại cần thiết hơn rất nhiều. Trang hoàng nhà cửa, cúng kiếng,
nội ngoại, bạn bè nay đă xa không cần phải thăm hoặc tiếp bất cứ ai.
Căn pḥng nhỏ hẹp và tối do nhà nước cho ở hoàn toàn không thích hợp
với một gị lan rừng do người cha của một bệnh nhân tặng.
Ba ngày Tết của hai vợ chồng “côi cút” chúng tôi là những lần đèo
nhau trên chiếc xe đạp đi quanh các nơi cần mà chưa đến được trong
thị xă. Chúng tôi không đủ sức đi xa hơn. Kết quả là được thở thoải
mái hơn là thăm ngắm cảnh quan. Mỗi lần đi ra khỏi “pḥng tiêu chuẩn”
chúng tôi đều ghé khoa nhi. Hoàng Ngọc Châu và những em bệnh nặng
khác trở thành đối tượng để tôi thăm Tết.
Đặc biệt mẹ con Hoàng Ngọc Châu là
hai người nói tiếng Huế duy nhất trong số bệnh nhân của tôi lúc này.
Châu đă qua cơn nguy cấp, tỏ ra liến thoắng, sinh động và ưa bắt
chuyện.. Qua câu chuyện ba ngày tết tôi biết quê cha của Châu là Hải
Lăng, Quảng Trị, quê mẹ em là Huế, gia đ́nh theo đạo Chúa, nghèo và
đơn chiếc. Cha em là quân nhân của chế độ cũ, mẹ em là thợ may có
một bàn máy đặt tại nhà với khách hàng là bà con quanh xóm.
*
Năm 1972, Châu 3 tuổi, gầy yếu xanh xao theo mẹ vào Huế trong “mùa
hè đỏ lửa”. Hai mẹ con em trú tại nhà bà ngoại ở thôn Lịch Đợi, phía
sau nhà ga Huế. Ba em là quân nhân, thường xuyên vắng nhà, theo đơn
vị nay đây mai đó.. Mẹ em bày một cái bàn nhỏ bán nước chè cho khách
qua lại tại một góc trước sân ga để sống qua ngày.
Chiến tranh chấm dứt, ba em thôi làm lính, gia đ́nh bé nhỏ của em
rời nhà bà ngoại trở lại Hải Lăng sinh sống bằng nghề nông. Gia đ́nh
sum họp chưa được bao lâu, chính quyền địa phương đưa ba em đi học
tập cải tạo ở Cồn Tiên, mẹ em tham gia hợp tác xă nông nghiệp. Do em
bị đau ốm thường xuyên, mẹ phải ở nhà chăm sóc nên công điểm ở hợp
tác xă chẳng được bao nhiêu, cuộc sống hai mẹ con trở nên cùng quẫn
phải bồng bế nhau vào lại Huế nương nhờ bà ngoại. Việc bán nước chè
ở trước ga Huế thu nhập không đủ để đóng góp cùng bà ngoại trong các
nhu cầu đơn giản mà cấp thiết của ba người, một già yếu, một trẻ
bệnh và một phụ nữ chân yếu tay mềm hết đường bươn chải. Họ quyết
định đi kinh tế mới theo chủ trương của nhà nước.
Phú Xuân, xă kinh tế mới cách quận lỵ Buôn Hồ 30 cây số, cách Ban Mê
Thuột 70 cây số về phía đông bắc là quê hương bất đắc dĩ sau cùng
của họ. Bởi phía sau họ c̣n có ba nơi để nghĩ tưởng và nhớ thương về,
bà con đồng đạo, nhà thờ xứ và đặc biệt người đàn ông là cha, là
chồng, là rể đang đi học tập cải tạo.
Ở xă kinh tế mới Phú Xuân bệnh t́nh của Châu ngày một nặng thêm. Bà ngoại trông nom cháu và đảm trách công việc: bếp núc, heo gà. Mẹ cháu, chị Sửu – một ḿnh ra đồng giữa hai thời kiểng với hợp tác xă và đầu tắt mặt tối với mảnh đất vườn 1.000m2 bao quanh nhà.
Châu phát bệnh nặng giữa đêm, không
đợi được đến sáng để theo chuyến xe công nông duy nhất trong ngày ra
huyện, chị Sửu phải gọi nhờ mấy người trong đội sản xuất thay nhau
vơng Châu đi suốt sáu bảy tiếng đồng hồ đường rừng ra bệnh viện
Huyện. Bệnh viên Huyện Buôn Hồ điều trị mấy ngày không thuyên giảm,
họ giới thiệu Châu lên Bệnh viện tỉnh Daklak.
*
Ở khoa nhi Bệnh viện tỉnh Daklak, qua giai đoạn cấp cứu, Châu có vẻ
khỏe hơn, ăn uống được tí chút. Một tuần sau em đi lại được, nói
năng hoạt bát, ưa bắt chuyện, quan tâm nhiều thứ, thắc mắc nhiều
điều, tỏ ra là một đứa trẻ thông minh. Tôi phải nhắc nhở cả hai mẹ
con là nói nhiều không có lợi cho việc điều trị bệnh, em vâng lời
nhưng chóng quên. Em chờ những lúc tôi rỗi tay là lân la hỏi hết
chuyện này đến chuyện nọ. Có lần em hỏi tôi:
– Bác biết tiếng Tây phải không?
Tôi nh́n em thật lâu và hỏi lại:
– Con thắc mắc như thế để làm ǵ? Con cần biết điều ǵ phải không?
– Hôm trước con thấy bác nói chuyện với bác sĩ Thới toàn tiếng Tây không à (2).
– Ừ mà chuyện bác biết hay không biết tiếng Tây, con hỏi để làm ǵ.
– Ở với bà ngoại, con hay nghe bà hay nhắc đến Thánh Đường, Thánh Lễ La Vang. La Vang đối với ngoại và cả mẹ nữa vô cùng tôn kính và thiêng liêng. Con không hiểu hai từ La Vang là ǵ. Con đă hỏi mẹ và ngoại nhiều lần nhưng cũng chỉ được trả lời: đó là một nhà thờ rất to, rất thiêng. Một lần nào đó hồi xa xưa Đức Mẹ đă hiện ra che chở cho người có đạo trước sự truy đuổi chém giết của người ngoại đạo. Ba con đi học tập. Mẹ và ngoại muốn đến đó để cầu xin Đức Mẹ cứu giúp cho Ba mau được thả về. Không đi được, đêm nào mẹ và ngoại cũng cầu nguyện, van xin Đức Mẹ La Vang cho ba được về, cho cháu được lành bệnh. Con không hiểu từ La Vang là ǵ? Có phải kêu to và vang xa hay la lối vang núi đồi như mấy người lớn ở quê mới giải thích không? Hay La Vang là tiếng Tây mà người ḿnh v́ dốt mà không hiểu được? Bác biết tiếng Tây, bác giảng cho con, con rất muốn nghe.
Tôi phân vân không biết giải thích thế nào cho em, đây là một vấn đề tôi đă trao đổi nhiều lần với cha Petitjean (3), người dạy Pháp văn cho tôi. Tôi cố tóm tắt sao cho thật dễ hiểu.
– Theo bác, La Vang không phải là tiếng Tây cũng không là tiếng Việt. Gốc của La Vang là lá vằng. Lá Vằng là loại cây mọc hoang trên núi đồi Quảng Trị, lá vằng là một loại cây thuốc mà ngày xưa các bà mẹ khi mang thai thường uống để sinh con có nước da hồng hào không viêm nhiễm. Lá vằng cũng dành cho các bà mẹ sau khi sinh uống để có sữa nhiều. V́ thương con nên các bà mẹ đă chịu khó uống thứ nước lá rất đắng này trong suốt một thời gian dài từ khi mang thai đến hết thời kỳ cho con bú. Thời vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn cách đây khoảng 220 năm, đạo Thiên Chúa bị đàn áp. Dân xứ đạo Cổ Vưu (một xứ đạo cách thị xă Quảng Trị 4 cây số về phía tây, cách thành phố Huế 50 cây số về phía bắc) đă chạy trốn ở một ngôi chùa hay đ́nh miếu ǵ đó đă hoang tàn giữa một đồi chung quanh có nhiều cây lá vằng. Cuộc sống khó khăn, đói khổ, bệnh tật, một đêm nào đó họ thấy Đức Mẹ Maria hiện ra ban phép lành và che chở họ. Nhờ vậy họ vượt qua hiểm nguy, bệnh tật và tuyệt vọng. Từ sau sự kiện Đức Mẹ hiện ra trên đồi lá vằng, địa danh này trở nên nổi tiếng trong cộng đồng người công giáo. Nhiều người, nhiều gia đ́nh gặp tai ương hoạn nạn đă lên đó cầu xin để được tai qua nạn khỏi. Nhà thờ trên đồi lá vằng được xây dựng, sửa chữa, xây mới ngày một to lớn và đẹp đẽ.
Tôi nói chưa xong th́ Hoàng Ngọc Châu nóng vội hỏi:
– Nhưng tại sao nhà thờ trên đồi lá vằng lại gọi là La Vang ?
Tôi lấy một đơn thuốc lật mặt sau viết lớn cùng trên một hàng bốn chữ: Lá Vằng – La Vang đưa cho Châu và bảo:
– Con hăy quan sát và nói cho bác nghe có ǵ giống nhau và khác nhau trong bốn chữ này.
Hoàng Ngọc Châu cầm tờ giấy nh́n và ngẫm nghĩ một lúc và trả lời:
– Lá Vằng có dấu sắc, dấu á, dấu huyền. La Vang không có dấu nào cả.
Tôi giải thích tiếp cho Châu:
– Tiếng Tây và chữ Tây không có các dấu huyền, sắc, hỏi, ngă, nặng, chữ Tây cũng không có các âm ă, â. Người Tây quen nói và viết tiếng nước họ, khi họ nói và viết tiếng Việt họ thường nói sai và viết sai. Ví dụ chữ lá vằng họ nói và viết thành la vang. Tên con là Hoàng Ngọc Châu, họ viết và đọc là Hoang Ngoc Chau. Tên mẹ con là Sửu họ viết và đọc là Suu. Trong số những người dân Đạo chạy nạn Tây Sơn lên trốn trên đồi lá vằng chắc chắn có một ông cố đạo người Tây. Ông này nói không chuẩn tiếng Việt, lá vằng ông nói thành la vang. Dân có đạo ḿnh rất kính phục, vâng lời tuyệt đối và hay bắt chước bất cứ thứ ǵ có thể bắt chước được từ các ông cố đạo suốt mấy trăm năm. La Vang hay Hoang Ngoc Chau hay Suu là ba trong rất nhiều ví dụ.
Hoàng Ngọc Châu chăm chú nghe ra vẻ bằng ḷng với những lời giải đáp của tôi.
Tôi hỏi tiếp em:
– Thế con thích gọi nhà thờ La Vang hay nhà thờ Lá Vằng?
Châu trả lời nhanh và gọn:
– La Vang th́ dễ nói hơn, Lá Vằng th́ hay hơn.
Tôi chưng hửng trước nhận xét dứt
khoát của em. Đằng sau ánh mắt mệt mỏi, làn da xanh tái, những nhịp
thở ngắn thiếu khí ấy tôi cảm nhận được những nét tinh anh, thánh
thiện tồn tại như những tia nắng le lói đang tắt dần giữa bầu trời
tối đen.
*
Sau Tết khoảng 10 ngày, thấy chị Sửu, mẹ Châu, đang loay hoay nấu
nướng ǵ đó ở khu bếp dành riêng cho người nhà bệnh nhân, trở lại
pḥng, tôi bảo Châu:
– Mẹ con nấu nướng vất vả lắm, con gắng ăn nhiều cho mẹ vui. Châu cúi mặt, đưa tay chùi nước mắt và nói:
– Bác không biết mẹ con và bà ngoại cực khổ và thương con như thế nào đâu. Trước khi đi bệnh viện, con nghe được câu chuyện giữa mẹ và bà ngoại. Ba con đi học tập chưa về, con không biết hỏi ai để biết sự thật. Con nói với bác nhưng bác đừng nói lại với ai.
Châu vừa nói đến đó, thấy mẹ bưng cháo vào, em dừng lại, làm ra vui vẻ, nhận tô cháo từ tay chị Sửu, vừa thổi vừa ăn một cách ngon lành. Nét mặt người mẹ tươi hẳn lên, trông chị tràn đầy hạnh phúc và hy vọng.
Mấy hôm sau chị Sửu gởi Châu lại cho người nuôi bệnh bên cạnh để về Phú Xuân lấy thêm gạo củi. Châu chờ lúc tôi không bận việc, em vội đến bên tôi không ấp úng như bữa trước, trái lại em tỏ ra chững chạc tự tín:
– Hôm trước con định kể chuyện con cho bác nghe, nhưng mẹ vào, con vội thôi. Hôm nay bác có rảnh và muốn nghe con nói không? Tôi bảo:
– Con cứ nói , bác nghe đây.
Châu buồn bă, khóc rưng rức rồi nói trong nước mắt:
– Con không... không... phải... là... con... đẻ... của mẹ. Mẹ Sửu... không phải... là... mẹ đẻ.... của con.
Tôi bối rối không hiểu chuyện ǵ, tôi hỏi lại Châu:
– Tại sao con nói thế?
Châu bảo:
– Trước khi đi Bệnh viện Buôn Hồ con nghe bà và mẹ nói nhỏ với nhau rằng: “bệnh con thấy tăng không thấy giảm. Phải đưa đi nhà thương thôi. Cả bà và mẹ đều khóc và nói: Dù không phải là con đẻ, là cháu ruột nhưng không thể không thương. Khó khăn thế nào cũng phải cố thôi. Phải bán con heo lấy tiền, mượn thêm thúng lúa xay gạo để đem nó đi chữa bệnh”.
– Bác ơi! Châu tiếp tục nói, con rất nhớ ba, thương mẹ, thương bà. Bác ơi! con có sống được không? Ba con có về kịp không? Bác ơi ... Châu vừa nói liên hồi vừa thở hổn hển, rồi ̣a khóc.
Tôi đau điếng trong ḷng, muốn khóc nhưng cố gắng tỏ ra b́nh thường và nói:
– Con sẽ không sao đâu, ăn nhiều và đừng nghĩ đến chuyện buồn. Ba con sẽ về thôi.. Con có mẹ và bà thật tuyệt vời. Tôi lau nước mắt cho em, xoa đầu an ủi để em bớt xúc động. Được một lúc lâu, hết khóc, Châu nói:
– Bác ơi! con có điều nhờ bác, bác phải hứa giúp con.
– Ừ bác sẽ giúp, làm ǵ đươc trong sức của bác, bác sẽ làm.
– Con biết không sống được đến ngày
ba về, con nhờ bác viết cho ba con một cái thư. Viết rằng con nhớ
thương ba, mẹ và bà ngoại hết ḷng thương yêu chạy chữa và chăm sóc
cho con. Con cũng rất thương bà và mẹ. Con chết v́ bệnh nặng không
chữa được, mai tê ba về đừng la trách mẹ tội nghiệp.
Tôi bàng hoàng, bao tử thắt từng cơn, không cầm được ḷng, nước mắt
chảy dài. Cố gắng trấn tĩnh, tôi nói với Châu:
– Con cũng có thể viết thư cho ba kia mà.
Châu bảo:
– Bác viết th́ ba tin hơn. Con viết ba không tin bằng bác viết.
Nói được với tôi câu đó, Châu bớt xúc
động, em có vẻ thanh thản hơn. Em đến giường, nằm xuống mắt lim dim
muốn ngủ.
*
Một ngày tháng giêng, Ban Mê Thuột gió nổi từng cơn, bụi đỏ mù trời.
Các cửa kính bệnh viện cũ kỹ tù mù, bụi phủ hết lớp này đến lớp khác
mặc dù các chị y công sáng nào cũng lau chùi. Từ trong pḥng làm
việc thỉnh thoảng tôi ngước nh́n qua cửa sổ: cây lá lay động tả tơi,
vật vờ trong gió cát. Tôi linh cảm một điều ǵ đó chẳng lành sẽ đến.
Hoàng Ngọc Châu, bệnh nhân bé nhỏ tội nghiệp của tôi, thiên thần của
tôi ra đi chăng?
Nhớ lời em gởi gắm. Tôi liên tưởng đến tiếng chim hót trong bụi mận gai. Tiếng hót thật hay thoát ra từ trái tim đang rỉ máu.
Hoàng Ngọc Châu ra đi. Không có vị linh mục nào làm thánh lễ cho em. Chỉ có chị Sửu, mẹ em, và tôi – kẻ ngoại đạo đồng thời là người thầy thuốc bất lực – ở bên em những giây phút cuối cùng. Tôi vuốt mắt, chị Sửu cài lại cúc áo, làm dấu thánh cho em và vỡ ̣a một cơn khóc mà chị cố ḱm nén bấy lâu. Chị gào lên:
– Con ơi, mẹ biết ăn nói với ba con sao đây?
– Anh ơi! Sao giờ này lại không có anh. Thằng Châu đă bỏ chúng ta rồi..
Tôi lại bàn làm việc, định thần một
lúc, viết giấy khai tử cho em. Nhớ lời em nhờ, tôi lật mặt sau tờ
giấy khai tử viết mấy ḍng sau đây:
“Tôi: Bác sĩ Nguyễn thị Kim Thoa, đă tiếp nhận và điều trị tích cực
bệnh nhi Hoàng Ngọc Châu. Bệnh em Châu nặng, khả năng bệnh viện và
cá nhân tôi không đủ để duy tŕ sự sống cho em. Trước khi qua đời,
em Hoàng Ngọc Châu nhờ tôi viết lại mấy lời gởi cho người cha đang
đi học tập cải tạo: “Ba ơi! con rất nhớ ba. Ở nhà cũng như ở bệnh
viện mẹ và bà ngoại đă thương yêu nuôi nấng và chăm sóc con đầy đủ,
chu đáo. Con thương mẹ, ba, cũng như thương bà. Con của Ba: Hoàng
Ngọc Châu”.
Tôi đưa tờ khai tử cho chị y tá Ri lên khu hành chánh để đóng dấu. Tôi dặn chị Ri nhớ đóng dấu cả mặt sau nơi tôi ghi mấy ḍng di ngôn theo yêu cầu của Hoàng Ngọc Châu. Chị Ri lau vội nước mắt bước ra.
Ngồi lại một ḿnh, nước mắt vẫn ràn rụa, ḷng xúc động nhưng không c̣n quặn thắt đau như trước đó mấy phút. Tôi nghĩ về Hoàng Ngọc Châu với ḷng quí trọng và biết ơn. Tôi đă nhận được từ em, cậu bé tám tuổi trước khi ĺa khỏi cuộc đời tàn ác vô t́nh này, một ư chỉ, một thông điệp về t́nh yêu thương, ḷng vị tha và ư thức trách nhiệm đối với người c̣n ở lại, không chỉ với cha mẹ, bà ngoại mà c̣n với tất cả chúng ta, những kẻ đang nhân danh hay mạo danh đủ mọi thứ giữa cuộc tồn tại hai mặt này.
Những lời đơn sơ mộc mạc mà Hoàng Ngọc Châu đă thều thào thốt ra trước lúc lâm chung và cả những điều em đă nói với tôi qua những cuộc trao đổi trong những ngày sau Tết đă làm thay đổi mối giao tiếp giữa tôi và em. Tôi không c̣n là một bác sĩ với “sứ mệnh” cứu chữa bệnh tật cho em nữa, bởi tôi đă bó tay bất lực để cho cái cậu bé vô cùng thánh thiện ấy ra đi. C̣n em mặc dù rất muốn sống để chờ người cha đi học tập về để yêu thương và được yêu thương trong mái ấm gia đ́nh, trong cộng đồng làng nước, nhưng em đành chấp nhận cuộc ly biệt chẳng đặng đừng. Có điều em chẳng hề oán trách bất cứ ai, bất cứ thế lực nào, trần gian hay thiên giới, đặc biệt em không muốn cái chết của chính ḿnh sẽ để lại bất cứ một ngộ nhận nào có thể nẩy sinh từ một sự thật em t́nh cờ nghe biết được trước khi đi bệnh viện rằng hai phụ nữ đă cúc cung tận tụy nuôi nấng chăm sóc chạy chữa cho em suốt tám năm trời trong t́nh yêu thương vô hạn không phải là mẹ, là bà ngoại ruột.
Những lời trăn trối em gởi gắm cho
người cha mong đợi mà tôi đă ghi lại ở mặt sau tờ khai tử của Hoàng
Ngọc Châu đă chuyển hóa tôi từ một người thầy thuốc thất bại thành
người thư kư khiêm tốn của một thiên thần.
Nguyễn Thị Kim Thoa
Ghi chú:
(1): thông liên thất, tăng áp phổi: communication interventriculaire,
hypertention pulmonaire: syndrome Exeimeiger..
(2) Bác sĩ Thới như tôi đă giới thiệu ở trên, ông có thói quen dùng
tiếng Pháp để diễn đạt các khái niệm chuyên môn. Gần như ông không
biết các danh từ y khoa tiếng Việt. Tôi nói Thông Liên Thất ông
không hiểu. Tôi phải nói communication interventriculaire. Tôi nói
tăng áp phổi ông càng ṭ te. Tôi phải nói hypertention pulmonaire
th́ ông nhanh chóng ừ ừ gật gật. Tôi xin mở một ngoặc đơn để nói rơ
hơn về vấn đề chuyên ngữ tại Đại học Y khoa Huế. Tôi biết thêm một
số từ ngữ y khoa tiếng Việt nhờ môt năm học tập chính trị sau giải
phóng. Thời gian này sinh viên khóa 10 Đại học Y khoa Huế, phải thực
tập thêm một năm với tư cách là sinh viên nội trú tại Bệnh viện
Trung ương Huế. Tại đây chúng tôi nhận sự hướng dẫn bởi các bác sĩ
chuyên nhi từ miền Bắc vào. Các vị này bắt buộc chúng tôi phải sử
dụng tiếng Việt hoàn toàn trong tất cả mọi trường hợp từ làm bệnh án
đến giao tiếp với đồng nghiệp, với bệnh nhân. Tôi biết chủ trương
lấy tiếng Việt làm chuyển ngữ đă được một số nhà chuyên môn, nhà văn
hóa, nhà báo ở miền Nam cổ vũ từ nhiều năm trước. Tại Huế, bác sĩ Lê
Khắc Quyến, nguyên khoa trưởng Đại Học Y khoa Huế đă biên soạn cuốn
tự điển danh từ y khoa Pháp – Việt và hô hào mạnh mẽ cho hành động
có tính cách chính trị và văn hóa này trên tạp chí Lành Mạnh do ông
chủ trương. Nhưng thực tế kết quả chẳng được bao nhiêu. Tại Đại học
Y khoa Huế từ các giáo sư người ngoại quốc, các giáo sư, giảng sư
người Việt, đến bác sĩ trợ giảng, chế nghiệm viên và sinh viên đều
dùng các thuật ngữ y khoa bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và cả tiếng Đức.
Thậm chí có giáo sư người Việt vẫn soạn giáo tŕnh và giảng hoàn
toàn bằng ngoại ngữ. Có nhiều sinh viên phải rời trường Đại Học Y v́
tŕnh độ ngoại ngữ không đủ để đáp ứng yêu cầu của một số môn học.
Có điều cần làm rơ là việc sử dụng ngôn ngữ Việt trong giảng dạy và
học tập tại tất cả các chuyên ngành khác nhau ở bậc đại học hoàn
toàn không đồng nghĩa với việc sinh viên và cả rất nhiều giáo sư
tiến sĩ tại các đại học Việt Nam không biết ngoại ngữ. Ngoại ngữ
theo tôi là cầu nối ốc đảo trí tuệ và học thuật Việt Nam với các đại
lục trí tuệ và học thuật thế giới.
(3) Petitjean tên đầy đủ là Henri Petitjean, linh mục thừa sai thuộc
Giáo hội Pháp quốc hải ngoại. Trước 1954 hành đạo ở Hải Pḥng. Sau
1954 chuyển vào miền Nam, cư trú và hành đạo tại Huế. Bị trục xuất
khỏi Việt Nam ngày 4 tháng 9 năm 1975. Tôi quen ông ở lớp học Pháp
văn do ông phụ trách, đồng thời tôi cũng giúp ông hiểu thêm về ngôn
ngữ và văn hóa Việt Nam. Câu chuyện lá vằng và La Vang là một trong
những vấn đề chúng tôi đă thảo luận.
(4) Tôi ghi chú thêm về câu chuyện trên: Châu mất mẹ khi lọt ḷng.
Chị Sửu về làm mẹ Châu sau đó không lâu. Tôi biết được điều này
trong một dịp đi công tác tuyến ở xă kinh tế mới Phú Xuân. Tôi đă
t́m thăm hai người phụ nữ lương thiện và đáng kính này.
Nguyễn Thị Kim Thoa
2024
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Tháng ngày tao loạn
Sài G̣n ơi!
Đoạn kết câu
chuyện t́nh buồn
Đôi giầy trậ
Thư kư của thiên
thần
Với tàu định
mệnh Lam Giang HQ 402
Bà Mẹ thượng đẳng
Do Thái và Bài học sinh tồn
Một bà mẹ vất vả
Áo bà ba tím
Anh hùng Richard Norden
Văn hoá không tên
Họ đến và chết v́ tự do
Thiên đường đă xa
Yếm thắm hương xưa
Ông Sư nhà quê
C̣ng lưng vẫn gánh
Cuộc đời và sự nghiệp của danh ca Hà Thanh
How the 1972 North VN Easter offensive...
Xác
chết trên băi biển
Những
món nợ khó trả
Nếu
có thể đi về quá khứ...
Người
đưa tin... độc địa
Chị Agnès
Một thời chinh chiến điêu linh
Người Saig̣n ….xưa!!!
Trí thức sến
Đuổi gà cho vợ
Hậu Duệ VNCH rạng danh Tiểu Bang Texas
Máu đào
Bản tình ca của
người Tỵ Nạn
Miếng ăn
Cờ Việt Nam Cộng Ḥa ngay giữa thủ đô
Melbourne
Đại uư Andrew Dang (gốc Việt), Phi công B-2
Chiến tranh Israel-Iran
H́nh ảnh Lễ Kỹ Niệm Ngày Quân Lực 19/6
tại Úc
Kỷ niệm ngày 19 tháng Sáu tại Cali
Mắt lệ cho
người
BS trong tù
Những ánh mắt trẻ thơ
Gặp lại cố nhân!
Lệnh gọi “học tập cải tạo”, một vết chém cay nghiệt!
Những năm nào chiến tranh đă quên
Sau 30 tháng 4. những nhớ và quên
Từ một tấm h́nh
Những người
chiến sĩ vô danh
Phố núi
Nhiều khi
Viết trong ngày Memorial Day 2025
Đệ Thất Hạm Đội - Cứu giúp thuyền nhân
Sự đời
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong nhớ bạn
Chuyện t́nh thời
chiến
50 năm – c̣n đó nỗi buồn
30 tháng 4. Một vài hồi tưởng...
Tiếng khóc của
một dân tộc
Bài thơ của
một người học tṛ cũ
Vào viện dưỡng lăo
Thu - Hát cho người
Mảnh vụn
Ơn em
Người vợ
lính
Melbourne - Tưởng niệm 50 năm Ngày Quốc Hận
Ngày người tù binh trở về!
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam
Vào ngày này năm 1975, Chiến dịch Gió lốc
Ngày cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Cong lưng vẫn gánh
Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975
Tháng
Tư - Nh́n lại tháng Ba găy súng
Băng đạn cuối cùng
Cuộc di tản tệ hại ở toà Đại Sứ Mỹ
Tưởng nhớ anh Năm
Nguyễn Đ́nh Bảo
Cờ Vàng: Biểu tượng của Việt Nam Cộng Ḥa
Vĩnh biệt anh chị Trần Hoài Thư
T́m được hài cốt Th/T Trương Phùng...
Các anh hùng LCĐB tử thủ An Lộc
Đêm đ́nh
chiến
Ai xứng đáng được phủ Quốc Kỳ VNCH
Những
tên vc nằm vùng
Giải oan cho Tổng Thống Thiệu
Trại tị nạn Camp Pendleton năm 1975
33 năm t́m được xác chồng
Kẻ bại trận
nợ người tử trận!
Sao Mai 09
Tuấn Ngọc -
Gửi gió cho mây ngàn bay
Chữ "Tín"
Nghĩa trang tử sĩ Biên Ḥa
Tonle Tchombe
(Tống Lê Chân)
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Không
bỏ Anh Em, không
bỏ Bạn Bè
T́nh
người
trong cuộc
chiến
Trận
chiến Đại Phú
Tâm thức người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc giới
Tâm tưu của một thằng lính ngụy
Tao là Ngụy!
Những kẻ mở
miệng là phát ra tiếng "Ba Que"
Ba mươi tháng tư năm
xưa, bác ở đâu?
LHQ chất vấn Việt Nam về TPB VNCH
Chết để làm ǵ
Đưa anh về nhà
Chiều
Thằng "Cầu" đỏ
Kỷ niệm 50 năm người Việt định cư tại Úc
Chương tŕnh kỷ niệm 50 Năm, người Việt Tỵ Nạn CS
Chuyện về một lá thư
Đất nước lạ lùng
Chuyến đi Hawaii & giây phút thần tiên khó quên
Người Lính Già Oregon Đă “Giă Từ Vũ Khí”
Bên bờ sinh tử
Đời ơi tôi khóc !
May mà ta c̣n có em...
Nhà báo lăo thành Mạc Kinh
Tô Lâm thừa nhận Sài G̣n trước 75 phồn vinh
Khi rừng chưa thay
lá
Bạn xưa 50 năm cũ
Cuộc hành tŕnh
Hăy thắp
cho anh một ngọn đèn…
Trận tổng tấn công của VC và phản công của TQLC trong Tết
Mậu Thân
Kỷ niệm Cổ Thành Đinh Công Tráng
Tái chiếm Quảng Trị, trận chiến dài nhất
QLVNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị
Sài G̣n, quán cafe & tuổi lang thang
Khoác áo chiến y
Một nét văn hoá Sài G̣n xưa
Sài G̣n ơi, Em c̣n đó hay không?
Ḍng sông đứng lại
Con người thực Anthony Fauci
Trong lửa đỏ, giữa sự chết, trên Quê Hương!
Tết năm này nhớ
tết năm xưa
Phi vụ cuối cùng
55 năm Tết Mậu thân 1968
Huế 1968 - thảm khốc và hy vọng
Người Việt Nam
đầu tiên nhảy dù là ai?
H́nh ảnh Lễ Thượng Kỳ mồng một Tết Ất Tỵ tại Úc
Đêm giao thừa buồn
3 mẫu chuyện ngắn
Đi t́m hơi ấm
Đồng Hương
Ngựa đá qua sông
50 năm nh́n lại người Việt tại Hoa Kỳ
Con dao con chó
Người Nam Kỳ
Tâm sự của một cựu sinh viên Luật Khoa Sài G̣n
Sự chiến đấu kiêu hùng của QLVNCH
Người ở lại Định Quán
Xứ cao bồi những ngày trước lễ Giáng Sinh
Phiên phiến tuổi già
Một chuyện rất Việt Nam
Đỉnh ngu trí tuệ
Tạp ghi CẢM ƠN NGƯỜI VIẾT SỬ “Phía Bên Kia”
Bạn thân từ thiếu
thời
Chân dung
ngày xưa Hoàng Thị
Xóm cũ nội thành
Tôi tay đôi với tụi nó đây!
Tấm thẻ bài
Rạn rụa lệ mềm
Các con phải sống
Hồi Kư của người về Từ Hoa Lục Đỏ 1974