Những bài viết của Bất Khuất

Chuyện t́nh khó quên
May mắn & Hên xui trong đời lính chiến
Ba, bốn phát
Tập Truyện Thuyền Đời  
13 người cuối cùng về từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân  
Tết  
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời - Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long  
Ngày oan trái! - Audio
Đất nước tôi - Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh - Audio
Chuyện cuối năm - Audio
Màu áo cũ - Audio
Mang theo quê hương  - Audio
Trong âm thầm c̣n nhớ ai! - Audio  
Sài G̣n là đây sao em! - Audio
Chuyện trăm năm - Trên quê hương - Audio
Chuyện trăm năm - Một ngày - Audio  
Trăm đắng ngh́n cay - Audio
Chiếc áo Bà Ba - Audio
Giữa đồng xưa - Audio
Áo trắng - Audio
Gửi nơi cuối trời - Audio
C̣n nhớ mùa xuân - Audio
Từ một chuyến đ̣ - Audio
Dêm thánh vô cùng - Audio
Khi mùa đông về  - Audio
Noel năm nào - Audio
Khúc quân hành - Audio
Cho ngàn sau - Audio
Ngh́n trùng xa cách  -  Audio
Rồi lá thay màu - Audio
Con chim biển 3 - T́m về tổ ấm - Audio
Con chim biển 2 - Trên biển khơi - Audio  
Con chim biển 1 - Tung cánh chim - Audio
Đốt sách ! - Audio
Đi học  
Sài G̣n - Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về - Audio  
Làng tôi - Audio 
Sao em không đến - Audio  
Anh đi!  - Audio  
Vỉa hè đồng khởi - Audio
Ngày đại tang  
Chuyện mất chuyện c̣n  
Con chim Hoàng Yến - Audio 
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú - Audio
Remember!
Cánh chim non - Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa   
Trăm đắng ngh́n cay  
Con đường tôi về
Hăy c̣n đó niềm tin
Chiều ra biển  
Những đứa con đẽ muộn  
Một thời kỷ niệm  
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn  
Ngày anh đi  
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride  
We remember
Vui - Buồn … Ngày hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72  
Mùa hè đỏ lửa  
Dư âm ngày hội ngộ 44 năm tại California  
Có chuyến bay  
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ  
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết


 

 


 

 

 

 

 

 

 

QUẢNG TRỊ, KHE SANH, NHỮNG NGƯỜI CHIẾN SĨ VÔ DANH


Những ngày cuối tháng 4 năm 2005, tôi đến cổ thành Quảng Trị.

Từ hướng nam, tôi đi trên con đường tráng nhựa mà ba mươi ba năm trước, các nhà báo gọi nó là Đại lộ Kinh hoàng. Nơi đây cách thị xă Quảng Trị 10 cây số. Bên trái con đường là băi cát trắng lẫn với màu đất đen. Những cụm nhà mái tôn rải rác bên đường dưới ánh nắng gần trưa. Không một bóng người. Bên phải con đường là băi cát vàng khô khốc, thỉnh thoảng gió thổi thốc từng cơn, những cụm cát tung lên x̣a ra trong nắng. Một căn nhà xập xệ chắp lại bằng những miếng tôn cũ trên đó có ḍng chữ bằng sơn trắng “Sửa xe, vá ép”, nơi cửa, một ông già ở trần ngồi trên bậc thềm, tay cầm quạt lá, tay kia chống cằm nh́n bâng quơ ra con đường nhựa vắng người.

Ngày 1 tháng 5 năm 1972, hàng vạn đồng bào từ Quảng Trị tản cư vào Huế. Cuộc tản cư và rút lui hỗn loạn đă biến đoạn Quốc lộ 1 ở quận Hải Lăng thành con đường xương máu khi quân Bắc Việt phục kích và nă pháo vào đoàn người di tản.

Bao nhiêu xác người đă nằm xuống và con đường hôm nay đ́u hiu thưa thớt. Ai đă khiêng cất xác họ, ai đă rửa chùi những đống máu, lau đi những óc năo tung bày, ai sắp lại những gan ruột phơi ra trầy trụa, ai đă đạp trên xác họ trên đường chạy lọan rồi gục xuống ở bước chân kế tiếp, chồng lên người đă chết, người chết sau ngă trên người chết trước. Nhất tướng công thành. Những thường dân vô tội. Những chiến sĩ vô danh. Tôi chưa đến tuổi lính vào những ngày máu lửa đó, vào những ngày máu xương đến phải gọi nó là Đại lộ Kinh hoàng. Bây giờ, Đại lộ Kinh hoàng mang tên Lê Duẩn. Tôi đang đi trên nó một buổi sáng vắng lặng yên b́nh, nhưng chợt ớn lạnh từng cơn như vô hạn oan hồn chồm lên quấn lấy hỏi han. Cơn gió đồng lướt thướt thổi qua.

Tôi trèo lên xe, nói chạy nhanh đi vào thị xă. Tới một ngă ba, người tài xế rẽ phải vào đường Trần Hưng Đạo. Đó là một con đường nhỏ hơn, có một chứng tích duy nhất c̣n sót lại của thị xă Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa, trường Bồ Đề. Người ta nói số bom đạn đổ xuống thị xă trong 81 ngày đêm, kể từ ngày 30 tháng Ba năm 1972, có sức công phá mạnh gấp bảy lần trái bom nguyên tử thả xuống Nhật trong thế chiến hai. “Một viên gạch cũng bể làm tư,” người Quảng Trị nói rứa, chỉ riêng ngôi trường Bồ Đề c̣n đứng vững với bốn bức tường lổ chổ vết đạn bom. Đến một ngă tư, lại rẽ phải. Cổ thành Quảng Trị nằm phía tay trái, cách quốc lộ chừng hai cây số. Ở góc tường đầu tiên, rêu và cây dại mọc dày nhưng các vết đạn xoáy sâu vào lớp gạch tường đo đỏ vẫn c̣n hằn dấu rơ.

Tôi nhớ như in bức ảnh chụp mấy người lính cắm cờ vàng ba sọc đỏ trên cổ thành đổ nát năm nào. Bây giờ người ta cho xây lại phần trên cổng thành, màu xám xi măng c̣n rất mới, có vẻ lạc lơng và chênh vênh trên dăy tường thành cũ kỹ. Bên trong thành, một con đường bê tông chạy thẳng từ cổng đến một cái đài cao xây theo h́nh một nấm mộ lớn, có bốn lối đi dẫn lên đài. Giữa trung tâm đài có một lư hương lớn, và một cái cột cao vút lên dựng bên cạnh một mái nhà mô phỏng một cổng tam quan.

Tôi đứng trên đài cao nh́n xung quanh. Trừ các con đường nội bộ trong thành, c̣n lại là băi cỏ xanh, các ghế đá công viên, ở một khoảng sân người ta trưng bày một hỏa tiễn chống máy bay, một chiếc xe nhà binh của Trung Quốc, một cái nhà bảo tàng di tích chiến tranh. Lúc đó có một đám người tụ họp trên đài đang đốt hương. Một anh thợ quay phim đang chĩa ống kính vào một người đang khấn vái, xung quanh ông ta một đám người vây quanh có vẻ kính cẩn. Đó là một quân nhân đầu bạc trắng, ngực mang đầy huy chương, vai mang lon trung tướng. Viên trung tướng cắm nhang xong, đứng huyên thuyên ǵ đó, có một người đàn ông trọng tuần kính cẩn đứng bên cạnh ông ta ghi ghi chép chép cái ǵ đó. Viên tướng về hưu bước xuống đài, đầu ngẩng cao kiêu hănh, mọi người lục tục đi sau.

Tôi đứng lại một ḿnh. Những tường thành như có một luồng khí lạnh tuôn ra làm sởn da. Có tài liệu nói rằng trong trận ác chiến dành lại cổ thành, quân đội Việt Nam Cộng Hoà chết gần mười ngàn người, bộ đội cộng sản cũng chết khoảng con số đó. Trong cổ thành này, xác người có thể sắp bên nhau dày đặc mặt đất trong thành. “Một viên gạch cũng bể làm tư”. Đó là một nhận xét có vẻ đơn giản nhưng thật kinh hoàng. Nhưng giờ đây người ta không coi đó là một trận địa đau khổ và mất mát, những người ở đây coi đó là một chiến thắng. Nếu có mất mát th́ đó là cuộc hy sinh của riêng những người thắng trận sau cùng. Mấy năm trước tôi có coi một đoạn phim tài liệu 45 phút do Sở Văn hóa Thông tin Quảng Trị thực hiện với lời b́nh của Vơ Nguyên Thủy, con của đại tướng Vơ Nguyên Giáp. Họ chiếu các mũi tiến công của bộ đội cộng sản vào cổ thành khởi từ ngày cuối của tháng Ba năm 1972, những trận giao tranh ác liệt, các cảnh máy bay B52 rải bom. Khi bộ đội phải bỏ chạy qua bờ bắc của sông Thạch Hăn, họ b́nh luận “quân ta tổn thất khá nặng nề”. Mười ngàn người chết nhưng chỉ “khá nặng nề”, và cơ bản th́ trận chiến mùa hè 1972 vẫn là “một thắng lợi lớn góp phần vào công cuộc giải phóng miền Nam”. Các nhà quân sự cộng sản chỉ cần gây tiếng vang, họ khát danh vọng bất kể mười ngàn lính nằm xuống để đổi lấy 81 ngày đêm giành dựt từng tấc đất một cách tuyệt vọng, bất kể hàng vạn dân thường gục xuống do những màn pháo kích bừa băi từ trong núi nă xuống Đại lộ Kinh hoàng. Những điều đó không được nhắc đến trong cả cuốn phim tài liệu… Chỉ thấy chiến thắng, chiến thắng và chiến thắng!

Một người bạn chụp h́nh chuyên nghiệp kể rằng vào đây mà không khấn vái th́ khi rửa phim chỉ thấy một màu trắng xóa. Tôi tin điều đó. Trên đài tưởng niệm có một lư hương rất lớn, nhưng lư hương đó chỉ dành cho những người thắng trận cuối. Không có một lư hương chung cho tất cả những linh hồn vô danh lẩn khuất nơi đây, để những người sống có thể thắp hương cầu nguyện cho tất cả, không một ai.

Tôi không thể đốt hương để cắm vào cái lư hương riêng biệt này. V́ thế tôi chọn cắm một nén hương vào hư không.

Nhà bảo tàng có hai tầng. Từ ngoài cửa chính đi vào có một sảnh chính bề ngang độ sáu, bảy thước, dài chừng mười mấy thước. Cách bức tường cuối sảnh độ một thước người ta dựng một tấm kiếng trong suốt h́nh vuông. Đằng sau tấm kiếng, sát tường là một ngọn đèn điện được gói bên ngoài một lớp giấy nửa xanh nửa vàng, dưới ngọn đèn chắc có dấu một cái quạt nhỏ thổi ngược lên để lớp giấy màu vàng luôn bay phần phật như ngọn lửa. Đó là ngọn lửa giả tượng trưng ngọn lửa thiêng. Trên tấm kiếng trong suốt có viết tên các đơn vị bộ đội đă tham gia chiến dịch “giải phóng thành cổ” năm 1972. Viên tướng về hưu đang đứng trước tấm kiếng giảng giải ǵ đó, khuôn mặt ông ta đỏ gấc, tay chỉ chỉ vào tên các đơn vị bộ đội được ghi theo một thứ tự nào đó từ trên xuống dưới, ông to tiếng nên gân cổ nổi lên từng lằn. Th́ ra ông tướng về hưu đang kể lại các trận đánh trong cổ thành, trung đoàn nào đánh trước, sư đoàn nào đánh sau. Rồi ông cố tỏ ra bất măn trước đám người vây quanh, nói rằng cách ghi tên các đơn vị bộ đội tham gia trận đánh là không đúng. Ông nói rằng đúng ra phải ghi theo thứ tự đơn vị nào vào (chiếm) trước chứ không thể ghi “đại trà” như thế này được. Ông đ̣i phải tổ chức một “hội thảo khoa học” về vấn đề này.

Tôi đi lên tầng trên. Tầng này trưng bày các hiện vật và h́nh ảnh các bộ đội đang đánh nhau, sơ đồ cổ thành, mô h́nh trận đánh. Trong ngổn ngang chiến tích, đạn, bom, và súng cối đă rỉ sét có một cái bàn vuông nhỏ bên trên lộng kính, phía trong mặt kiếng có hai lá cờ vàng ba sọc đỏ xếp ngay ngắn, một vài món quân trang quân dụng và năm tấm h́nh căn cước của năm người lính Việt Nam Cộng Ḥa. Có một mẫu giấy ghi chú đây là chiến lợi phẩm mà bộ đội tịch thu được trong cổ thành hồi 1972. Các hiện vật ở tầng này sơ sài, cách trưng bày lộn xộn và thiếu chuyên môn. Không gian trưng bày một trận chiến ác liệt với bao mất mát bị lấn lướt bởi chủ đề chủ đạo “chiến thắng”, biểu tượng qua tấm h́nh một anh bộ đội ngồi ôm súng cười rất tươi giữa cảnh hoang tàn đổ nát của cổ thành.

Tôi đi xuống tầng dưới. Ông tướng về hưu vẫn c̣n thao giảng trước ngọn lửa giả làm ngọn lửa thiêng bất diệt. Ở gần cửa lớn ra vào có một nhà vệ sinh thông với sảnh chính, cách chỗ ông tướng khoảng năm thước. Nhà vệ sinh thông không có cửa nên vào trong vẫn nghe tiếng người nói bên ngoài. Mùi hôi xông lên nghẹt thở khi khi bước vào căn pḥng này, sàn gạch bầy nhầy nước bẩn và trơn trợt. Ngay phía trên tường ở ba cái bồn bằng sứ trắng dành cho đàn ông, có một ḍng chữ bằng sơn xanh nằm ngang tầm mắt: “Giữ vệ sinh chung xin tiểu ngay vào bồn”. Mấy người đang vào nhà vệ sinh đồng loạt áp dụng chiến thuật “đánh nhanh rút lẹ”, tất cả im lặng, nghe rơ giọng nói hào sảng của ông tướng về hưu thao thiết vọng vào. Có lẽ các đoàn tham quan trước không quen sống tập thể nên nhà bảo tàng mới phải ghi khẩu hiệu thiết tha như vậy.

Rời cổ thành chúng tôi băng qua sông Thạch Hăn, đến ngă ba rẽ vào đường số 9. Đường 9 Nam Lào.

Mùa xuân năm 1971 Việt Nam Cộng Ḥa mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 tấn công qua biên giới Lào để phá hủy các căn cứ của Bắc Việt. Trục lộ hành quân chính là đường số 9 bắt đầu từ hướng cực đông là thị trấn Đông Hà.

Tôi đă đọc nhiều tài liệu về con đường này, và giờ đây tôi đang đi trên đường 9, bắt đầu từ thị trấn Đông Hà. Mới hơn 10 giờ sáng nhưng cả thị trấn vắng vẻ như không có nhiều người. Đường 9 Nam Lào bây giờ đă tráng nhựa và khá rộng để hai chiếc xe tải tránh nhau dễ dàng. Con đường này sẽ qua Cam Lộ, Cà Lu, Khe Sanh, Làng Vei, Lao Bảo cho đến biên giới Lào. Đường 9 Nam Lào chỉ có trong mường tượng từ kư ức qua các tài liệu thời chiến, h́nh dung các cuộc chuyển quân, những người lính gian khó, các trận đánh dữ dội, những con gió lào oi bức, có những khúc đường hẹp phải dùng xe ủi đất mở đường, cây cối hai bên um tùm. Bây giờ đây trước mắt là một con đuờng buồn, một thị trấn lặng lẽ, những căn nhà hai bên đường không đóng cửa, nh́n suốt vào trong cũng không thấy người. Lời của một bài hát vào năm 1972 vang lên “… anh đă về Gio Linh, Cam Lộ, Đông Hà…”. Dưới ánh nắng trải đều dù không thấy dấu vết sót lại của những ngày chiến tranh khốc liệt, ít nhất cũng như vậy trong con mắt dân sự, nhưng từng vùng đất đi qua đều gợi lên kư ức chiến tranh v́ nó nổi danh v́ chiến tranh, những cái tên ngọt ngào nhưng đau khổ như Cam Lộ, như Khe Sanh. Bây giờ bên phải là núi, bên trái là ḍng sông Đakrông lấp lánh nắng mai ở cây số 46 của đường 9 (tính từ đoạn bắt đầu ở thị trấn Đông Hà). Có một cái cầu treo bắt ngang sông giữa hai đầu núi, cầu Đakrông, đoạn đầu của Đông Trường Sơn. Bên kia cầu là đường 14A đưa vào A Lưới và A Shầu (người Mỹ đọc là A Shau), đèo Mạ Ơi, những quả đồi đầy tan tác thời chiến như Hamburger, Bastone

Năm 1969 quân đội Hoa Kỳ quyết định mở chiến dịch giải tỏa Thung Lũng A Shau với sự tham dự của nhiều đơn vị Thủy Quân Lục Chiến, Thiết giáp, Không quân và bộ binh… Tờ mờ sáng ngày 10 tháng Năm/1969, Chiến dịch Apache Snow bắt đầu. Giờ H là 7 giờ 30.

Đă gần giữa trưa, hai bên cầu trẻ con người thiểu số tan học tung tăng đi về hướng A Shau. Tất cả bọn chúng mặc áo quần màu đen, chân đất, nước da đen xoắn khoẻ mạnh nhưng khuôn mặt hốc hác, trông chúng thật ngô nghê và lạc lơng trên con đường tráng nhựa và cây cầu treo đẹp đẽ mới khánh thành. Dưới kia là sông chảy, bên này là núi, bên kia là những ngọn đồi xanh nối nhau dưới bầu trời xanh trong, một con đường láng nhựa, một cột mốc đánh dấu đường Trường Sơn.

Ngày 9 tháng 2 năm 1968, một tiểu đoàn quân Bắc Việt tấn công Đồi 64 do Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trấn giữ, tràn ngập nhiều vị trí pḥng thủ.

Ngang Khe Sanh, chúng tôi băng ngang ngă ba dẫn vào căn cứ (quân sự) Khe Sanh để đi thẳng lên Lao Bảo. Khúc đường này đang xây dựng lở dở, bụi đỏ mờ mịt, nhà cửa hai bên đường tràn ngập bụi đỏ. Nắng khô khốc tưởng chừng cả vùng này rất khó t́m ra một giọt nước. Thỉnh thoảng các xe đ̣ mang bảng số Lào chạy ngược chiều chở các đoàn khách du lịch hướng về Quảng Trị. Đến trung tâm chợ biên giới Lao Bảo th́ trời đă đứng bóng. Đây là một chợ biên giới gồm một khách sạn khá lớn xây sát sườn chợ gồm hai khu nhà tṛn và một khu ăn uống b́nh dân. Một đứa bè chạy ra mời ăn cơm: “Mi có chi ăn?”. Thằng bé nhanh nhẩu: “Chi cũng có đủ”. Khu ăn uống b́nh dân chỉ có hai quán bán cơm và toàn thức ăn khô, “có đủ” ba món là cá nục kho, cá ngừ kho và cà pháo dầm nước mắm. Như vậy cũng đủ ăn một buổi trưa biên giới, mua sắm một ít hàng lậu tuôn từ Lào qua. Mấy tháng trước, tôi mướn một chiếc xuồng ba lá trốn công an biên pḥng để vượt biên từ Châu Đốc qua chợ G̣ nằm bên kia đất Cam Bốt. Chợ G̣ nhộn nhịp, người bán xởi lởi tỏ rơ phong độ ngang tàng của sông nước miền Nam. Ở Lao Bảo, người bán khô khan ít nói như cái nóng của miền Trung. Cả khu chợ hàng hóa nhiều và trật tự hơn chợ G̣ nhưng có cái không khí trầm trầm lặng lẽ. Chúng tôi lên xe chạy ngược về con đường bụi đỏ. Bên trái, những quả đồi nằm chịu trận dưới mặt trời bốc lửa. Đến Làng Vei, nằm nửa đường từ đoạn Lao Bảo – Khe Sanh, chúng tôi ngừng xe để ngắm ḍng sông chảy dịu dàng bên dưới.

Rạng sáng ngày 7 tháng 2 năm 1968, bộ đội Bắc Việt có chiến xa yễm trợ tấn công và tràn ngập trại Lực Lượng Đặc Biệt ở Làng Vei.

Đoạn từ Làng Vei về lại Khe Sanh bằng phẳng, bên trái có vài nương rẫy của đồng bào thiểu số. Chúng tôi băng qua trung tâm Khe Sanh đă qua trưa, ngôi chợ lồng vắng vẻ như cả thị trấn đều ngưng hoạt động, đến ngă ba th́ rẽ trái vào căn cứ (quân sự) Khe Sanh.

Ngày 23 tháng 2 năm 1968, quân Bắc Việt pháo 1.300 quả đại bác vào Khe Sanh trong 8 tiếng đồng hồ. Mười lính Mỹ chết.

Đường đi phi trường Tà Cơn, một phi trường quân sự của Mỹ thời chiến, hẹp hơn đường 9 nhưng cũng đă tráng nhựa bằng phẳng. Phi trường nằm cách đường cái chừng cây số, có cổng rào và trạm gác thu phí tham quan. Trên băi sân ngổn ngang cỏ mọc người ta trưng bày một trực thăng UH và hai trực thăng chuồn chuồn.

Ngày 11 tháng 2 năm 1968, hai vận tải cơ C-130 đáp xuống Khe Sanh. Một chiếc nổ tung v́ trúng đạn pháo kích.

Mấy ngày rồi, ngày 25 tháng 4 năm 2005, Bộ Quốc pḥng Mỹ nói họ đă xác định được danh tánh bốn quân nhân Mỹ chết trên đồi 665 vào đầu tháng 5/1967, và hài cốt của bốn người lính này đă được đưa về Mỹ. Sau 37 năm nằm yên trong vùng đất Khe Sanh, bốn quân nhân chết trong độ tuổi 20 đă trở về quê hương, được vinh danh ở Nghĩa trang Quốc gia Arlington. C̣n những ngọn đồi 471, 552, 665, 689 … th́ vẫn xanh cỏ mọc. C̣n bao nhiêu xương cốt của Mỹ, của Nam, của Bắc Việt Nam vùi sâu nơi ấy.

Con đường rời Khe Sanh từ hướng Tây, băng qua đèo Ai Lao để về lại Cam Lộ trông hùng vĩ hơn. Nhiều đoạn đèo đang được thi công nâng cấp, đất cát lổn chổn trộn với bụi đỏ bay mịt trời. Mấy cái cần cẩu đang nâng lên hạ xuống ở một cây cầu đang xây mới cạnh chiếc cầu cũ bắc ngang một vực sâu ngay một khúc quành gắt như cùi chỏ. Đoạn đường này hẹp, nếu có một chiếc xe đi ngược chiều th́ không biết tài xế sẽ xoay xở ra sao. Lấp lánh dưới sâu là ḍng nước đă gần cạn trong mùa khô. Trời trong và xanh. Ngang một đoạn đèo gặp một đoàn người đang im lặng đi giữa đường, dẫn đầu là một người đàn ông mặc áo dài màu xanh đậm. Ông này xách một cái phèng la cũ, vừa đi chậm răi vừa thỉnh thoảng gơ một tiếng “pheeng…”.

Kế đến là bốn người đàn ông gánh một cái quan tài. Một đám tang giữa trưa. Trên quan tài người ta dựng bốn cái cây đứng để chống một tấm nhựa che nắng cho tấm h́nh của người chết, ảnh một cô gái trẻ để trước quan tài. Những người đưa đám đều để đầu trần, có người đi chân trần trên mặt đường nóng chảy nhựa. Đám tang lặng lẽ nhưng tươm tất dưới mặt trời gay gắt, bóng chiếc quan tài in xuống nền đường che nắng được một vài người đi khép nép ven hông quan tài. Đoàn người đi chầm chậm trên đèo Khe Sanh – Cam Lộ, tiếng phèng la điểm nhịp vang lên rồi tan dần vào vách núi. Một người trẻ hôm nay sắp được chôn. Trong một vùng đất c̣n nhiều người mất xác.

Lê Lô

 

 

 


VĂN CHƯƠNG

2024
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013 
2012

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả


Tháng ngày tao loạn
Sài G̣n ơi!
Đoạn kết câu chuyện t́nh buồn
Đôi giầy trậ
Thư kư của thiên thần
Với tàu định mệnh Lam Giang HQ 402
Bà Mẹ thượng đẳng
Do Thái và Bài học sinh tồn
Một bà mẹ vất vả
Áo bà ba tím
Anh hùng Richard Norden
Văn hoá không tên
Họ đến và chết v́ tự do
Thiên đường đă xa
Yếm thắm hương xưa
Ông Sư nhà quê
C̣ng lưng vẫn gánh
Cuộc đời và sự nghiệp của danh ca Hà Thanh
How the 1972 North VN Easter offensive...
Xác chết trên băi biển  
Những món nợ khó trả  
Nếu có thể đi về quá khứ...  
Người đưa tin... độc địa  
Chị Agnès 
Một thời chinh chiến điêu linh
Người Saig̣n ….xưa!!!
Trí thức sến
Đuổi gà cho vợ
Hậu Duệ VNCH rạng danh Tiểu Bang Texas
Máu đào
Bản tình ca của người Tỵ Nạn
Miếng ăn
Cờ Việt Nam Cộng Ḥa ngay giữa thủ đô Melbourne
Đại uư Andrew Dang (gốc Việt), Phi công B-2
Chiến tranh Israel-Iran
H́nh ảnh Lễ Kỹ Niệm Ngày Quân Lực 19/6 tại Úc
Kỷ niệm ngày 19 tháng Sáu tại Cali
Mắt lệ cho người
BS trong tù
Những ánh mắt trẻ thơ
Gặp lại cố nhân!
Lệnh gọi “học tập cải tạo”, một vết chém cay nghiệt!
Những năm nào chiến tranh đă quên
Sau 30 tháng 4. những nhớ và quên
Từ một tấm h́nh
Những người chiến sĩ vô danh
Phố núi
Nhiều khi
Viết trong ngày Memorial Day 2025
Đệ Thất Hạm Đội - Cứu giúp thuyền nhân
Sự đời
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong nhớ bạn
Chuyện t́nh thời chiến
50 năm – c̣n đó nỗi buồn
30 tháng 4. Một vài hồi tưởng...
Tiếng khóc của một dân tộc
Bài thơ của một người học tṛ cũ
Vào viện dưỡng lăo
Thu - Hát cho người
Mảnh vụn  
Ơn em  
Người vợ lính  
Melbourne - Tưởng niệm 50 năm Ngày Quốc Hận 
Ngày người tù binh trở về!  
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam  
Vào ngày này năm 1975, Chiến dịch Gió lốc  
Ngày cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu  
Cong lưng vẫn gánh  
Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975
Tháng Tư - Nh́n lại tháng Ba găy súng
Băng đạn cuối cùng
Cuộc di tản tệ hại ở toà Đại Sứ Mỹ
Tưởng nhớ anh Năm Nguyễn Đ́nh Bảo
Cờ Vàng: Biểu tượng của Việt Nam Cộng Ḥa
Vĩnh biệt anh chị Trần Hoài Thư
T́m được hài cốt Th/T Trương Phùng...
Các anh hùng LCĐB tử thủ An Lộc
Đêm đ́nh chiến  
Ai xứng đáng được phủ Quốc Kỳ VNCH  
Những tên vc nằm vùng

Giải oan cho Tổng Thống Thiệu
Trại tị nạn Camp Pendleton năm 1975
33 năm t́m được xác chồng

Kẻ bại trận nợ người tử trận!
Sao Mai 09
Tuấn Ngọc - Gửi gió cho mây ngàn bay
Chữ "Tín"

Nghĩa trang tử sĩ Biên Ḥa  
Tonle Tchombe (Tống Lê Chân)  
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến  
Không bỏ Anh Em, không bỏ Bạn Bè  
T́nh người trong cuộc chiến
Trận chiến Đại Phú  
Tâm thức người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc giới  
Tâm tưu của một thằng lính ngụy  
Tao là Ngụy!  
Những kẻ mở miệng là phát ra tiếng "Ba Que"

Ba mươi tháng tư năm xưa, bác ở đâu?
LHQ chất vấn Việt Nam về TPB VNCH
Chết để làm ǵ
Đưa anh về nhà
Chiều
Thằng "Cầu" đỏ

Kỷ niệm 50 năm người Việt định cư tại Úc
Chương tŕnh kỷ niệm 50 Năm, người Việt Tỵ Nạn CS
Chuyện về một lá thư
Đất nước lạ lùng
Chuyến đi Hawaii & giây phút thần tiên khó quên
Người Lính Già Oregon Đă “Giă Từ Vũ Khí”
Bên bờ sinh tử
Đời ơi tôi khóc !
May mà ta c̣n có em...
Nhà báo lăo thành Mạc Kinh
Tô Lâm thừa nhận Sài G̣n trước 75 phồn vinh  
Khi rừng chưa thay lá  
Bạn xưa 50 năm cũ  
Cuộc hành tŕnh  
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn…
 
Trận tổng tấn công của VC và phản công của TQLC trong Tết Mậu Thân  
Kỷ niệm Cổ Thành Đinh Công Tráng  
Tái chiếm Quảng Trị, trận chiến dài nhất  
QLVNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị  
Sài G̣n, quán cafe & tuổi lang thang
Khoác áo chiến y
Một nét văn hoá Sài G̣n xưa
Sài G̣n ơi, Em c̣n đó hay không?
Ḍng sông đứng lại
Con người thực Anthony Fauci

Trong lửa đỏ, giữa sự chết, trên Quê Hương!
Tết năm này nhớ tết năm xưa
Phi vụ cuối cùng
55 năm Tết Mậu thân 1968
Huế 1968 - thảm khốc và hy vọng

Người Việt Nam đầu tiên nhảy dù là ai?
H́nh ảnh Lễ Thượng Kỳ mồng một Tết Ất Tỵ tại Úc
Đêm giao thừa buồn
3 mẫu chuyện ngắn
Đi t́m hơi ấm Đồng Hương
Ngựa đá qua sông
50 năm nh́n lại người Việt tại Hoa Kỳ
Con dao con chó
Người Nam Kỳ
Tâm sự của một cựu sinh viên Luật Khoa Sài G̣n
Sự chiến đấu kiêu hùng của QLVNCH
Người ở lại Định Quán
Xứ cao bồi những ngày trước lễ Giáng Sinh
Phiên phiến tuổi già
Một chuyện rất Việt Nam
Đỉnh ngu trí tuệ
Tạp ghi CẢM ƠN NGƯỜI VIẾT SỬ “Phía Bên Kia”
Bạn thân từ thiếu thời
Chân dung ngày xưa Hoàng Thị
Xóm cũ nội thành
Tôi tay đôi với tụi nó đây!
Tấm thẻ bài
Rạn rụa lệ mềm
Các con phải sống
Hồi Kư của người về Từ Hoa Lục Đỏ 1974