Những bài viết của Bất Khuất

Chuyện t́nh khó quên
May mắn & Hên xui trong đời lính chiến
Ba, bốn phát
Tập Truyện Thuyền Đời  
13 người cuối cùng về từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân  
Tết  
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời - Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long  
Ngày oan trái! - Audio
Đất nước tôi - Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh - Audio
Chuyện cuối năm - Audio
Màu áo cũ - Audio
Mang theo quê hương  - Audio
Trong âm thầm c̣n nhớ ai! - Audio  
Sài G̣n là đây sao em! - Audio
Chuyện trăm năm - Trên quê hương - Audio
Chuyện trăm năm - Một ngày - Audio  
Trăm đắng ngh́n cay - Audio
Chiếc áo Bà Ba - Audio
Giữa đồng xưa - Audio
Áo trắng - Audio
Gửi nơi cuối trời - Audio
C̣n nhớ mùa xuân - Audio
Từ một chuyến đ̣ - Audio
Dêm thánh vô cùng - Audio
Khi mùa đông về  - Audio
Noel năm nào - Audio
Khúc quân hành - Audio
Cho ngàn sau - Audio
Ngh́n trùng xa cách  -  Audio
Rồi lá thay màu - Audio
Con chim biển 3 - T́m về tổ ấm - Audio
Con chim biển 2 - Trên biển khơi - Audio  
Con chim biển 1 - Tung cánh chim - Audio
Đốt sách ! - Audio
Đi học  
Sài G̣n - Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về - Audio  
Làng tôi - Audio 
Sao em không đến - Audio  
Anh đi!  - Audio  
Vỉa hè đồng khởi - Audio
Ngày đại tang  
Chuyện mất chuyện c̣n  
Con chim Hoàng Yến - Audio 
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú - Audio
Remember!
Cánh chim non - Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa   
Trăm đắng ngh́n cay  
Con đường tôi về
Hăy c̣n đó niềm tin
Chiều ra biển  
Những đứa con đẽ muộn  
Một thời kỷ niệm  
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn  
Ngày anh đi  
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride  
We remember
Vui - Buồn … Ngày hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72  
Mùa hè đỏ lửa  
Dư âm ngày hội ngộ 44 năm tại California  
Có chuyến bay  
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ  
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết


 

 


 

 

 

 

 

 

 

Đi T́m Hơi Ấm Đồng Hương



Con sông Illinois bốc khói mịt mù như có đám cháy lớn trong mấy ngày liên tiếp, rồi đá cục nổi lều bều, lổn nhổn trông rất hỗn độn. Sau đó th́ mặt sông băng thành đá cứng phẳng ĺ, yên lặng, và phủ đầy tuyết màu trắng.

Mùa đông năm 1981 đó, sở khí tượng tiểu bang Illinois ghi nhận mức độ lạnh kỷ lục trong ṿng năm mươi năm. Hàn thử biểu tụt xuống đến trừ tám mươi độ F khi có tác dụng của gió. Tuyết bay mịt mù trời đất. Tuyết được dồn thành những đống cao ngút bên hai lề đường. Sở Công Chánh của thành phố vất vả đêm ngày, gởi xe cào tuyết xúc dọn những con đường chính của thành phố, để xe cộ có thể lưu thông. Những con đường phụ, th́ tuyết ngập cao, không biết đâu là ḷng đường, lề đường, bằng phẳng như một góc của thảo nguyên miền địa cực.

Thở ra mịt mù như đang thổi khói thuốc lá, tôi thử khạc một băi nước bọt, nhổ lên tường nhà xem có tạo thành tiếng kêu “cong” như người ta thường nói dóc hay không. Ông bạn tôi nói: “Lạnh như thế nầy, th́ có lẽ khi tiểu tiện ngoài trời, nước đóng thành một cái cây đá cong cứng, nối từ đưới đất lên bụng”. Tôi nói đùa : “Thôi thôi, áo quần bảy tám lớp, làm sao mà tiểu tiện ngoài trời được. Có kéo ra được, th́ e gió lạnh thổi, nó đóng thành băng và găy mất thôi.””

Tay tôi, mang vớ len dày, bên ngoài trùm thêm vớ da. Thế mà hai bàn tay cũng tê buốt, mấy ngón tay cóng lại, khó cử động. Chân tôi mang hai lớp vớ bông, đi giày tuyết, thế mà cũng nhức nhối cả bàn chân khi đi ra đường. Bên trong nhà, hơi thở ẩm làm tuyết đóng dày, trắng xóa, làm thành cái gờ to bao quanh thành cửa sổ. Chúng tôi tưởng cái lạnh nầy là b́nh thường ở các xứ tuyết, nên khi nghe các ông bà Mỹ than lạnh quá, th́ tôi cũng ngạc nhiên.

Vợ tôi nói, c̣n một tuần nữa là Tết Nguyên Đán. Tôi không trả lời nhưng trong ḷng cũng thấy xao xuyến. Chỉ có trơ trọi hai gia đ́nh Việt Nam trong cái thành phố Morris nhỏ bé với dân số bảy ngàn người nầy. Thành phố nằm về phía Tây Nam của thành phố Chicago, khoảng cách gần hai giờ lái xe. Chỉ hai gia đ́nh thôi, th́ ăn Tết với ai đây. Vui ǵ mà Tết nhất. Tôi nói với vợ :

“Hay là em thử kêu điện thoại cho anh chị Hy xem, họ có tính chuyện Tết nhất ǵ không. Họp nhau lại ăn Tết cho đỡ buồn.”

Vợ tôi kêu điện thoại, chị Hy bên kia giây nói :

“Sắp Tết rồi mà chúng tôi đâu biết, nếu anh chị không nhắc, th́ có lẽ nó qua đi lúc nào chẳng hay. Tết rồi sao? Đây là cái Tết đầu tiên của tôi trên đất Mỹ. Anh chị có tính ǵ không, cho chúng tôi theo với.”

Với chúng tôi, tuy không là Tết đầu tiên, nhưng trong ḷng cũng không yên, nghe đâu đó có chút ǵ xôn xao, chờ đợi. Cái Tết đầu, khi chúng tôi c̣n ở miền Tây nước Mỹ, vợ tôi chờ cho đến giao thừa, bốc điện thoại kêu chúc mừng năm mới bà con, bạn bè. Kêu điện thoại đường dài. Đánh thức bà con bạn bè dậy lúc nửa đêm. Nhiều người đang ngái ngủ, bực ḿnh, nói chuyện lạt lẽo qua loa rồi gác máy. Cái hớn hở của vợ chồng tôi bị cụt hứng nhiều lần. Ông anh vợ tôi, đi du học và ở lại Mỹ làm việc đă nhiều năm, ở tận miền đông, cách chúng tôi ba múi giờ, ông hỏi rằng:

“Có việc ǵ khẩn cấp không? Sao mà dựng cổ anh dậy lúc ba giờ sáng để chúc Tết. Có khùng chưa? Sao không đợi đến sáng mai rồi kêu?”

Vợ tôi ngần ngừ đáp:

“Bây giờ là giao thừa!”

“Giao thừa. Hừ, giao thừa. Ở Mỹ cũng có giao thừa sao? Ha ha ha. Thôi, cô đừng kêu điện thoại cho ai khác nữa mà làm phiền họ.”

Nhờ anh, mà vợ chồng tôi dè dặt hơn, và sau nầy biết ḿnh làm cái việc chúc mừng năm mới hơi lố.

Thế nhưng trong ḷng chúng tôi chưa nguội lạnh được với cái tục lệ Tết đă ăn sâu vào trong tiềm thức từ thuở nào. Chúng tôi nhất định năm nay phải ăn Tết cùng gia đ́nh anh Hy. Tôi nói:

“Tết mà không có bánh chưng, mứt, hạt dưa th́ chẳng có mùi vị Tết. Có khác chi họp mặt ăn b́nh thường. Nhưng thôi, có họp nhau ăn Tết, c̣n hơn là quanh năm không có ngày nào Tết cả. Ḿnh không có đạo, nên ngày Chúa giáng sinh cũng không đèn đóm, không cây thông, không bánh trái. Giáng sinh Mỹ th́ nhà nhà đóng cửa, như lén lút ăn với nhau, không cho thiên hạ biết. Đường sá vắng hoe, không rần rần đi dạo phố nửa khuya quanh nhà thờ như bên ḿnh. Không ai mời bạn bè, tiệc tùng đông đảo lúc nửa đêm. Ḿnh không là Mỹ, th́ Tết Tây cũng lạt phèo, không có chi vui, vợ chồng nằm nhà xem truyền h́nh.”

Chúng tôi bàn chuyện Tết với gia đ́nh anh Hy. Vợ chồng anh mừng lắm, và hẹn sẽ cúng ông bà theo lối tập thể. Bày bàn thờ cúng chung. Anh Hy sẽ xin nghỉ việc một ngày, đưa chị Hy và vợ tôi về Chicago, xuống phố Tàu, mua nếp, hạt dưa và các thứ cần thiết để mừng xuân.

Sau khi đi Chicago về, anh Hy rối rít báo cho tôi biết là có gặp anh Sáu Nạc, anh nầy đang ở trong một tu viện tại thành phố La Salle, cách thành phố tôi chừng bốn mươi lăm phút lái xe. Sáu Nạc đề nghị tổ chức ăn Tết chung cho dân Việt Nam tị nạn trong vùng. Anh sẽ mượn hội trường của tu viện để tổ chức Tết. Anh liên lạc với những gia đ́nh Việt Nam tị nạn rải rác trong các thành phố hẻo lánh của tiểu bang. Kêu điện thoại cho họ, và hẹn ngày giờ tụ họp làm một cái Tết nhớ quê hương. Qua niên giám điện thoại, anh đă liên lạc được mười mấy gia đ́nh trong tám thành phố khác nhau. Chưa quen biết nhau, nhưng thấy có cái tên Việt Nam là kêu liền, và khi liên lạc được, họ rối rít đón mừng, cảm động. Anh bảo những người nầy t́m kiếm thêm đồng hương, và nhắn nhau về La Salle ăn Tết. Có gia đ́nh ở dưới miền nam, tận tỉnh xa cũng hẹn về họp mặt.

Tôi nhớ rơ, nhờ cuốn niên giám điện thoại mà quen biết anh chị Hy. Khi công ty chuyển tôi từ California lên đây để gia nhập đoàn chuyên viên đang lo xây cất một nhà máy năng lượng hạt nhân trong vùng. Loại nhà máy nầy thường xây tại các nơi dân cư thưa thớt, để tránh sự chống đối của các nhóm bảo vệ môi sinh, và nếu lỡ có tai nạn, th́ cũng bớt ảnh hưởng đến đông đảo dân chúng. Nằm trong khách sạn Holiday Inn, tôi dở cuốn điện thoại, tra t́m từ họ Nguyễn, họ Trần, họ Lê, họ Phan và qua các họ lớn khác, không thấy một ai tên Việt Nam. Lật lui lật tới măi nhiều lần, tôi t́m được cái tên Dong Hy. Tôi thầm nghĩ, không chừng ông nầy người Tàu, là hậu duệ của ông Đổng Trác. Thử gọi điện thoại xem sao, nếu không phải Việt Nam th́ xin lỗi, có mất ǵ đâu. Qua phút đầu tiên bỡ ngỡ, khi anh Hy biết tôi đang ở trong thành phố nầy, anh vui mừng rối rít, dù là đă chín giờ đêm, anh đ̣i đến khách sạn gặp tôi ngay. Anh đem cả bà mẹ già, vợ và hai con c̣n ẵm trên tay đến thăm xă giao. Hai vợ chồng cười vui rối rít, mừng như anh em trong nhà lâu ngày mới gặp lại nhau. Bà mẹ anh nắm tay vợ tôi mà nước mắt rưng rưng v́ mừng. Chị Hy cho biết, trong thành phố nầy chỉ có gia đ́nh anh chị là người Việt Nam nên rất thèm gặp đồng hương. Mỗi khi đi Chicago qua phố Tàu, thấy những cái đầu đen, th́ ḷng chợt ấm lại và nghe hân hoan. Gia đ́nh anh chị Hy được nhà thờ bảo lănh đến đây. Nhà thờ rất tử tế. Buổi đầu họ cung cấp nhà ở, trả luôn tiền điện nước. Mỗi tuần đưa đi chợ hai lần, và trả luôn tiền chợ. Sau mấy tuần, họ kiếm việc cho anh Hy làm trong một cơ xưởng tu bổ tàu thuyền. Phần việc của anh là cạo sét vỏ tàu. Treo ḿnh ṭn ten bên ngoài thành tàu mà gơ sét. Mùa hạ th́ nắng nóng đốt cháy da thịt, khát nước liên tục, mùa đông th́ gió tuyết quật, rét cắt da, gió hú ào ào. Nhưng anh Hy rất sung sướng và thỏa măn với công việc đang làm. Lương đủ nuôi vợ, hai con nhỏ và một bà mẹ già. Chị Hy th́ thỉnh thoảng đi lau chùi nhà cửa cho các ông bà già trong thành phố kiếm thêm tiền. Bà mẹ anh Hy là người Tàu chính gốc. Bà lưu lạc đến Việt Nam lúc mới mười lăm tuổi, và xem Việt Nam như quê hương. Mỗi lần nói chuyện, bà thường nói “bên ḿnh” để chỉ cái quê hương Việt Nam của bà. Anh chị Hy khẩn khoản yêu cầu chúng tôi ở lại thành phố nầy, dù cái nhà máy chúng tôi đang xây nằm bên thành phố La Salle. Chúng tôi cũng mừng v́ có đồng hương, chị Hy cùng vợ tôi chạy quanh t́m nhà thuê mà không có, phải nhờ bà bảo trợ của gia đ́nh chị hỏi giúp. Bà vào nhà thờ, rao báo lên. Cuối cùng t́m được cho chúng tôi thuê nhà ông John. Ông ở từng dưới, và từng trên có cầu thang riêng, đầy đủ bếp núc, pḥng khách, pḥng ngủ, pḥng tắm để cho thuê. Mỗi chủ nhật, chúng tôi ra nhà anh Hy chơi, có khi cùng ăn cháo trắng buổi sáng với cà na. Bà cụ thường lén rưng rưng nước mắt với vợ tôi, bảo là chị Hy không tốt, v́ có lúc chị đánh thằng cháu nội của bà, và chị biết bà đau nhức xương cốt mà bắt ăn cà na, nhức xương thêm. Vợ tôi làm cho bà một hộp thịt chà bông lớn. Bà cảm động lắm. Thấy bà cô đơn, chúng tôi thường chở bà đi chơi, đưa bà vào quán Mỹ, mời bà ăn vài món lạ, cho bà uống sữa quậy nước dâu. Bà vui mừng và nói líu lo như đứa bé. Vợ chồng tôi cũng vui lây.

Anh Sáu Nạc dặn mỗi người đem một món đến ăn Tết. Tôi lănh phần nấu bánh chưng theo lối cấp tốc. Cứ nấu riêng nhân đậu, thịt heo, và ba nồi xôi lớn có trộn phẩm ăn màu xanh lá chuối. Xôi phải nấu thật khô. Tôi dùng cái hộp sắt h́nh vuông làm khuôn. Cắt đáy hộp, lát giấy nhôm, bỏ xôi vào chừng nửa hộp, sau đó đổ nhân đậu xanh và thịt heo vào, phủ thêm một lớp xôi nữa. Gói lại, dùng tấm gỗ mà nén thật chặt. Dùng cái búa nện cho chắc hơn. Vợ tôi bảo đừng nện chặt quá, cơm nếp nát ra thành bánh dầy, khi mở ra thấy kỳ lắm. Cột thêm dây bên ngoài. Tôi đặt tên là bánh chưng mạo hóa. Trong một buổi tối, tôi làm được tám cái bánh chưng lớn. Vợ tôi lo ngại sẽ không tiêu thụ hết mấy cái bánh nầy, rồi đem bỏ đi th́ tội của trời. Những năm nầy, chúng tôi không bao giờ dám phí phạm thức ăn. V́ chúng tôi đă từng đói ăn trong thời đất nước đang tiến vững chắc lên xă hội chủ nghĩ. Chúng tôi đă gần chết đói khi thuyền chết máy trôi dạt trên biển khơi. Mấy cái bánh chưng tôi làm vuông vắn, cứng và đẹp hơn cả bánh chưng thật. Đồ giả thường đẹp hơn đồ thật. Vợ chồng anh Hy xuưt xoa khen mấy cái bánh chưng của chúng tôi. Tôi dấu không cho họ biết cách nấu bánh chưng giả nầy.

Ngày họp mặt ăn Tết được chọn vào thứ bảy, v́ chủ nhật nhà thờ làm lễ. Tuyết bay ngập trời, đan dày kín, thu ngắn tầm nh́n trước mặt. Quạt nước quay liên tục gạt tuyết. Tôi lái xe chạy trước, xe anh Hy bám theo sau. Phải chạy cách nhau một quăng dài, để kịp thắng khi cần. Gió hú ào ào như ma quỷ kêu gào dọa dẫm . Hai bên đường tuyết đóng thành những cánh đồng trắng xóa ngút ngàn. Có khi tuyết ngưng rơi, nh́n xuống cuối chân trời, trước mặt và hai bên, không thấy bóng cây, nhà cửa, nông trại. Tuyết mênh mông, trời đất trắng mênh mông, không có đường chân trời, hai chiếc xe lầm lũi đi t́m hơi ấm đồng hương, chở những con người c̣n nặng ḷng thương nhớ nước non. Con đường liên tỉnh, mỗi chiều có một ḍng xe, vắng hoe, như một con rạch chạy dài uốn khúc, hai bên tuyết đóng ụ cao. Những bầy chim nhỏ màu đen đói khát, đậu trên mặt đường t́m chút hơi ấm của khói xe c̣n vương đọng lại, chúng bay vù lên khi tránh xe đi qua, rồi đáp xuống lại trên đường. Vợ tôi thắc mắc không biết tuyết mênh mông trời đất như thế, th́ lũ chim nầy ăn cái ǵ mà có thể sống qua suốt mấy tháng mùa đông. Trời lạnh cần nhiệt lượng, bụng mau đói, mà chỉ có tuyết trắng bao phủ dày đặc, đâu có ăn tuyết mà sống được. Từ tỉnh lộ, chúng tôi bắt qua xa lộ, xe cộ đông đảo hơn. Hai ven đường, năm bảy chiếc xe vận tải hàng, lớn như những căn nhà, bị trượt bánh, lật nằm ngă nghiêng. Những ông tài xế đường dài kia, chạy xe bất kể ngày đêm, đi băng qua lục địa Mỹ, đi từ bờ Thái B́nh Dương qua đến bờ Đại Tây Dương và ngược lại. Chuyên chở hàng hóa, thực phẩm, và phải giao hàng đúng hạn kỳ v́ sợ bị hư thối, hoặc chậm trễ công việc thương măi. Các ông sống với sương gió nắng mưa dọc theo xa lộ nhiều hơn sống trong nhà, họ thiếu ngủ thường trực. Xe th́ lớn cồng kềnh, dài ḷng tḥng, chỉ cần một sơ suất nhỏ là gây tai nạn dính chùm. Tôi nh́n những chiếc xe ngổn ngang chổng gọng nằm giữa tuyết ở hai ven đường mà cảm thương cho người, và sung sướng cho ḿnh, không phải cực nhọc vất vả như cuộc đời của những người tài xế kia.

Đi qua khỏi cánh đồng tuyết mênh mông, th́ thấy cái tháp chuông nhà thờ nhọn, nhú lên lờ mờ ở chân trời. Cứ nhắm hướng đó mà đi tới. Tuyết lại đổ mịt mù, che mất không gian trước mặt. Từng vờ tuyết lớn úp chụp vào kiếng xe. Con đường trơn trợt, tôi chạy chậm lại chờ xe anh Hy. Thấy xe anh Hy dừng, tôi lái xe thụt lùi lại hỏi. Anh Hy quay kiếng xuống nói vọng qua:

“Tuyết đổ dày quá, không thấy đường mà lái. Dừng lại chờ cho bớt cơn băo tuyết rồi đi.”

Tôi nói lớn trong gió gào:

“Không được. Dừng lại th́ tuyết nó phủ dày, ngập bánh xe, không lái ra khỏi ụ tuyết đâu. Vả lại, dừng xe mà nổ máy, khói xe độc lắm, có thể chết người.”

Chúng tôi chạy xe thật chậm, cẩn thận trên con đường vắng hoe. Cuối cùng, cũng đến nơi. Tu viện lớn như ṭa lâu đài cổ, nhiều căn nhà ngang dọc. Sân tu viện trắng xóa mênh mông. Trong băi đậu xe đă có gần chục chiếc, đa số là xe cũ, kềnh càng, móp méo. Đúng là xe của những người tị nạn, thừa hưởng được từ ḷng nhân ái của các hội nhà thờ đem tặng. Tôi và anh Hy xốc nách d́u bà cụ của anh, đi qua cái sân đầy tuyết. Bà cụ không đi, mà x́a chân ra trượt trên tuyết và cười hăng hắc vui vẻ.

Trong hội trường đă xôn xao tiếng người. Đa số đến trước giờ hẹn. Họ nôn nao quá, phải đi cho sớm để gặp đồng hương. Hai dăy bàn dài có trải khăn trắng, đă bày sẵn nhiều loại thức ăn khác nhau. Phía cuối tường có kê một cái bàn, làm bàn thờ tổ quốc, bên sau treo lá cờ lớn. Anh Sáu Nạc chạy lui chạy tới, tíu tít bận bịu. Mọi người đều góp tay vào việc sửa soạn. Không có ai là chủ, ai là khách.

Thế mà có gần đủ các món Tết của Việt Nam. Hạt dưa, mứt, dưa món, củ kiệu, bánh dầy, bánh chưng, bánh da lợn, bánh đúc, bánh ḅ, thịt kho nước dừa, có cả một nồi bún ḅ, và một thùng phở. Mọi người hớn hở vui cười nói chuyện hàn huyên. Tất cả có mười lăm gia đ́nh, được bốn mươi sáu người. Gia đ́nh anh Hy đông nhất, có bà cụ, hai vợ chồng và hai đứa con nhỏ. Có nhiều gia đ́nh chỉ độc nhất một người như anh Sáu Nạc, Chị Nha, bà Trang, ông Phú và mấy người thanh niên khác nữa. Họ đến từ nhiều thành phố khác nhau trong các vùng phụ cận: Rochelle, Morris, Peru, Kewanee, Streator, Chillicothe, Pontiac, Peoria. Mười lăm gia đ́nh ở chín thành phố khác nhau. Tất cả đều độn áo quần năm bảy lớp, làm cho thân thể sưng phồng lên tṛn vo, trong lúc mặt mày c̣n xương xẩu, gầy c̣m, khắc khổ. Chứng tích của những ngày thiếu thốn trong trại tị nạn, và đậm nét hơn của những năm ḥa b́nh, bữa khoai sắn, bữa bo bo, bữa cháo, bữa cơm.

Họ cười cười, nói nói hân hoan, nhưng trong ánh mắt họ chan chứa sâu thẳm nỗi buồn, không ai dấu được ai. Một anh lớn tuổi nhận xét :

“Trong một đám đông Á Châu, th́ người ta có thể nhận ra ai là Việt Nam ngay, v́ trên mặt họ không che dấu được nỗi buồn sâu kín.”

Có người hỏi lại:

“Tại sao mà buồn? Đă t́m được tự do, đă sống trên miền đất mơ ước c̣n buồn cái ǵ?”

“Anh nói lạ chưa. Nước mất, nhà tan, gia đ́nh li tán khắp năm châu, kẻ tội tù, người bị đày đọa. Bạn bè, anh em, kẻ chết ch́m đáy biển, người chết khô trên rừng, và người ở lại th́ không thấy bóng tương lai. Họa là sắt đá mới không biết buồn. Ngay cả những nụ cười khi ḷng hân hoan, cũng có cái buồn phảng phất đâu đó trên môi, trong ánh mắt.”

Tôi nh́n sâu vào ánh mắt từng người đồng hương và thở dài. Có lẽ cũng phải mười năm, mười lăm năm nữa, may ra họ mới quên lăng và hết buồn. Gặp gỡ, họ xoắn lấy nhau chuyện tṛ, như những người bạn thân thiết lâu ngày. Đủ thứ chuyện trời đất mưa nắng. Nhưng nhắc nhở nhiều nhất là chuyện quê nhà ngày xưa, những êm đềm hạnh phúc trong quá khứ, và những gian nan cay cực đă qua trong xă hội mới, những hiểm nguy khi đi t́m tự do.

Sáu Nạc nói với tôi rằng quê anh ở Rạch Giá. Trước năm 1975, anh mơ ước ḥa b́nh bằng mọi giá. Quốc gia hay cọng sản anh không cần, chỉ cần được sống yên b́nh, không c̣n chiến tranh, chết chóc. Anh đă né tránh tham gia vào cuộc tương tàn bằng cách trốn đi lính. Trốn chui nhủi như một con thú. Khi nào cũng sợ bị bắt. Ḥa b́nh đến, mừng như cất được gánh nặng ngàn cân. Nhưng nỗi vui mừng tắt ngay và nhận ra, thà có chiến tranh măi măi, để c̣n chút không khí tự do, c̣n hơn là thứ ḥa b́nh khủng khiếp lạ kỳ nầy. Anh vượt biển với hai đứa em, một trai một gái. Hai đứa đă bỏ mạng trên biển, chỉ c̣n ḿnh anh đến được bến bờ tự do. Anh được tu viện bảo trợ đến đây. Cho một căn pḥng để ở, cơm nước có các Bà Chị nữ tu nấu nướng cho toàn viện. Áo quần cũng được các chị giặt giúp. Công việc hàng ngày của anh là ngồi trên xe cắt cỏ, cắt từ đầu nầy đến đầu kia khu vườn của tu viện rộng mênh mông nầy . Khi cắt đến cuối vườn, th́ đầu kia cỏ cũng đă mọc vừa cao, quay trở lại cắt nữa. Cứ thế mà ngồi trên xe suốt cả mùa xuân mùa hạ. Đến mùa thu th́ vừa cắt cỏ vừa thổi và hốt lá vàng, liên tục từ sáng cho đến chiều. Mùa tuyết đổ, th́ suốt ngày ngồi trên xe xúc tuyết, ủi sạch tuyết cho xe lưu thông trong khuôn viên tu viện. Trong tu viện, ai cũng làm việc, không việc nầy th́ việc kia, chẳng ai ngồi không. Nhà thờ rất công bằng và tử tế, trả lương cho anh theo số giờ làm việc. Bởi vậy nên anh hăng hái hơn và thấy vui hơn trong khi làm. Ở đây rất tự do, muốn đi đâu th́ đi, muốn làm ǵ th́ làm, không ai bó buộc. Miễn sao công việc hoàn tất thôi. Mỗi thứ bảy, chủ nhật anh chạy xe về Chicago chơi, thăm viếng bạn bè, vào khu phố Tàu ăn uống, mua các thức cần dùng, rồi lang thang trong các phố Tàu để có cảm giác như gần gũi với quê nhà hơn. Anh thấy được yên ổn sống trong tu viện nầy là quá hạnh phúc, quá sung sướng. Anh nghĩ rằng, ngày xưa, ông Ngô Đ́nh Diệm khi qua Mỹ lánh nạn, sách viết rằng, ông cũng được sống trong một tu viện, có lẽ cái tu viện đó tương tự như tu viện nầy. Và có lẽ, ông cũng được nhà thờ cho công việc làm để có chút tiền tiêu và quên ngày tháng buồn bă nơi đất khách quê người. Trong thành phố La Salle nầy, chỉ có anh Sáu Nạc là người Việt Nam thôi. Gia đ́nh Việt Nam ở gần anh nhất, là anh chị Trương, ở một thành phố phía Bắc, cách nhau chừng bốn mươi dặm. Anh Trương trước là quan ṭa, ngồi xử án thiên hạ. Sau năm 1975 th́ đi tù. Nhờ có thân nhân làm lớn trong ngành công an, móc nối với chỉ huy trưởng trại cải tạo, đút lót tiền bạc, được về sớm hơn bạn bè. Anh đóng tiền đi vượt biên bán chính thức theo người Tàu. Anh Trương trắng trẻo như một thư sinh. Anh cho biết đang làm nghề hái nấm cho một nông trại trong tỉnh. Nấm trồng trong nhà lồng lớn, có giàn kệ cao, nhiều lớp chồng lên nhau. Suốt ngày anh đứng chàng hảng, đạp chân lên hai cái giàn kế cận, lùa tay vào bên trong nhặt nấm. Theo anh, th́ công việc cũng nhẹ nhàng. Ai chăm có thể làm một ngày mười hai tiếng, và nếu muốn, th́ làm luôn cả thứ bảy, chủ nhật. Vợ chồng anh đều làm cho nông trại trồng nấm nầy. Đứa con được xe trường đưa rước tận nhà mỗi ngày. Anh cho rằng, đây là thiên đường t́m thấy, không cần đi t́m đâu xa xôi. Tiền lương tiêu không hết, đời sống an b́nh hạnh phúc. Căn nhà ba pḥng, có vườn rộng mênh mông, thuê rất rẻ. Chị Trương thả gà, trồng hoa quả, rau ráng trong mùa nắng ấm. Mùa đông th́ họ rút vào pḥng, đốt ḷ sưởi, xem truyền h́nh, nghe nhạc. Mỗi tháng, họ lái xe về Chicago một lần mua các thức ăn khô Á Đông. Tôi gợi ư cho anh Trương t́m cách ghi danh vào các đại học, kiếm một nghề chuyên môn, để đời sống khá hơn. Anh Trương cười và nói với giọng vui vẻ:

“Ḿnh đi t́m tự do. Có được tự do là quư rồi. Lại được thêm ấm no hạnh phúc nữa. Đ̣i hỏi thêm làm ǵ. Tôi đang có sự an b́nh, thanh thản, sung sướng. Bỏ cái đang có, đi t́m cái chưa có, e thêm khổ thân mà thôi. Trong trại nấm nầy, tôi thấy công việc dễ dàng, tốt đẹp, thế mà rất nhiều người đến đây, làm vài tuần, vài tháng, rồi bỏ đi, uổng quá. Họ không thấy được cái hạnh phúc của đời sống an b́nh, th́ đi đâu họ cũng không t́m được cả.”

Tôi ngần ngại nói thêm:

“Ở đây cô quạnh. Anh chị không thấy buồn? Vả lại, anh chị lại có tŕnh độ sẵn, đi học cũng mau””

Anh Trương cười ha hả:

“Học! Chính v́ cái học mà bị đi tù ba năm. Khi tôi đi tù, th́ bố tôi thường than rằng, nếu tôi chịu ở nhà làm ruộng như mấy ông anh, đừng đi học, th́ đâu đến nỗi tù tội cho khổ cái thân. C̣n cô quạnh, th́ cũng có chút chút. Nhưng tôi nhớ khi c̣n ở trong nước, tôi và bạn bè thường mơ ước được ra sống ngoài hoang đảo, để khỏi bị phiền nhiễu, lo âu trong chế độ mới. Bây giờ, ở đây, một xứ văn minh, có thành phố, có con người, th́ cái cô quạnh nầy có đáng ǵ.””

Nói xong, anh Trương quay qua hỏi một ông đứng bên cạnh:

“Tôi nghĩ như thế có đúng không anh Dương?”

“Đúng hoàn toàn. Ở đâu t́m được an b́nh hạnh phúc, th́ nơi đó là thiên đàng hạ giới.”

Anh Dương trả lời, y hệt giọng điệu anh Trương. Anh Dương chừng trên dưới bốn mươi tuổi. Khi ở Việt Nam, anh hành nghề bác sĩ, vợ anh là dược sĩ. Hai vợ chồng đang làm công nhân cho một chợ tạp hóa Mỹ. Ngày ngày sắp xếp rau cải, trái cây lên quầy, phun tưới nước, dọn dẹp bên trong, bên ngoài. Anh chị có hai đứa con đang học trung học. Nhiều bạn bè rủ anh chị về California để học thi, trở lại nghề cũ, nhưng anh cảm thấy tạm bằng ḷng với đời sống hiện tại, và t́m được an b́nh trong đời sống đơn giản nơi đây, không muốn đi đâu cả. Vả lại, anh chị không muốn làm xáo trộn việc học hành của con cái. Anh cũng từng đi tù. Cũng từng trở lại nghề cũ, nhưng chán ngấy với những g̣ bó, ép buộc. Anh đă bỏ nghề, theo vợ chạy ngược xuôi chợ trời buôn bán thuốc tây, áo quần cũ, đồng hồ, máy móc. Vắt gị lén lút chạy quanh chợ trời, mà anh thấy vui và thoải mái hơn là đến nhà thương nghe chỉ thị, học tập, đường lối, chính sách. Anh đi vượt biển không tốn tiền, v́ được mời làm bác sĩ cho chuyến tàu hơn hai trăm người, trên tàu có những gia đ́nh giàu có, họ cần bác sĩ để pḥng khi bất trắc. Nhưng ra biển, anh say sóng nằm dài. Cả thuyền cũng không ai chăm sóc được ai. Gia đ́nh anh được một họ đạo bảo trợ về thành phố nhỏ hiu quạnh nầy. Anh có ư định, viết một tập hồi kư, gọi là lịch sử dân gian. Anh sẽ không viết về những trận đánh, những hiệp ước, những chính quyền. Mà chỉ viết lại trung thực về đời sống trong dân gian của một giai đoạn khổ đau trong lịch sử. Viết với sự b́nh tĩnh, khách quan, không để t́nh cảm thương ghét, căm giận xen vào sự kiện. Anh sợ người đời sau quên, con cháu quên, rồi lại dẫm lên vết xe đổ cũ. Anh sợ những bóp méo lịch sử làm sai lạc sự thực, đời sau không ai c̣n biết đến những điều kỳ lạ đă xẩy ra trong xă hội của thời đại qua. Và nếu không ai viết, th́ đời sau làm sao c̣n có những tài liệu để truy t́m sự thực.

Trong đám đồng hương, người rầu rĩ ít nói nhất là ông Nguyên. Vợ và bảy đứa con nhỏ của ông đă chết trên biển. Ông cười mà cái miệng méo xệch như đang khóc, và tiếng cười nghẹn trong cổ họng càng giống tiếng khóc hơn. Ông may mắn sống trong thành phố có đến ba gia đ́nh Việt Nam. Thỉnh thoảng họ ghé thăm nhau cũng đỡ buồn. Có người nói, ông đang dự tính dời nhà về vùng Hoa Thịnh Đốn, nhưng nghe nói măi mà chưa thấy ông ra đi. Thỉnh thoảng, ông được chị Ḥa cho mượn mấy tờ báo Việt Nam đọc, ông quư và trân trọng giữ ǵn cẩn thận. Chị Ḥa tốt nghiệp kỹ sư hóa học, qua Mỹ từ hồi 1975, được hăng Du Pont thuê, và đang làm việc cho một nhà máy biến chế hóa học trong vùng. Chị là một trong ba gia đ́nh Việt Nam của thành phố mà ông Dương đang ở. Bố mẹ chị thỉnh thoảng gởi sách báo Việt nam cho chị đọc, như một món ăn tinh thần. Chị thường than, là nếu làm việc măi nơi đây, th́ làm sao mà có chồng được. Tuổi tác chị cũng đă trên dưới ba mươi rồi.

Đúng mười một giờ, cụ Trần, người lớn tuổi và chững chạc nhất, dâng hương lên bàn thờ tổ quốc. Cụ thắp hương và vái ba lạy về hướng Tây Nam, nơi mà cụ nghĩ là quê hương Việt Nam nằm về phía đó. Anh Sáu Nạc bắt nhịp, cùng tất cả đồng hương hát quốc ca Việt Nam. Lần đầu tiên nghe lại bản quốc ca sau nhiều năm dài, trái tim tôi nhói lại, ḷng xúc cảm dạt dào. Nhiều người không cầm được ḷng, để nước mắt chảy xuống hai ḍng tràn trề trên má. Nhiều bà thút thít khóc, vừa khóc vừa hát. Khi hát xong, bà cụ anh Hy hỏi nho nhỏ:

“Sao không ca cải lương cho vui, mà ca cái bài ǵ lạ hoắc, làm nhiều người buồn khóc?”

“Đây là bài quốc ca” Vợ anh Hy nói nhỏ.

Bà cụ nói lại với giọng miền Nam run run:

“Uất ca! Uất chết được đi chớ. Đang sống yên lành, họ từ ngoài Bắc vô, cấm đủ điều, cấm buôn bán, cấm làm ăn, ngăn sông cấm chợ, xô người ta ra biển, bỏ cả mồ mă cha ông mà chạy. Phải rồi, hát 'uất ca' là đúng”

Sau bản quốc ca, là một phút mặc niệm cho những đồng bào đă bỏ ḿnh trên biển khơi khi đi t́m tự do. Vừa nghe xong, th́ ông Nguyên, người có vợ con chết biển, úp hai tay vào mặt và chạy mau ra khỏi hội trường. Anh Sáu Nạc vội vă đuổi theo ông Nguyên.

Sau nghi thức, mọi người nhập tiệc. Tôi hơi ngượng khi nghe có bà nào đó nói:

“Bánh chưng ngon tuyệt. Ai nấu bánh chưng đây? Ngồi canh lửa nấu bánh ngày tết thiệt là vui. Ở đây ḿnh mất cái thú đó rồi””

“Bánh nầy hơi cứng. Hay là v́ trời lạnh làm bánh khô, ăn như ăn cơm nếp.”

Vợ tôi nói:

“Bánh nầy do ông xă em nấu đó. Ông nấu một..”

Tôi vội vă đá vào chân vợ tôi dưới gầm bàn, và nói mau, nho nhỏ:

“Thôi, em đừng nói thật làm bà con mất vui. Cứ để họ thưởng thức cái hương vị bánh chưng của họ trong quá khứ. Bật mí ra làm chi.”

Mấy người mang tô nhựa đến nồi phở đứng chờ thành hàng dài. Chị chủ nhân nồi phở hớn hở trụng lại bánh phở, múc nước lèo, gắp thịt thái sẵn, bỏ hành ng̣, mùi phở thơm tho bốc lên trong cái hội trường đóng kín.

“Ngon không thua ǵ phở Pasteur. Cho em thêm cái hành trần đi. Trời lạnh, ăn phở nóng là lên thấu thiên đàng.”

Mấy người khác, đưa tô cho chị người Huế múc bún ḅ. Trên mặt nồi bún ḅ, nước ớt màu đỏ ḷm đọng váng. Một anh nói:

“Bún ḅ có cả gị heo nữa, thiệt là đúng điệu. Chị cho thật nhiều nước cay vào. Không cay, th́ bún ḅ mất đi một phần ngon. Bún ḅ mà không cay, th́ cũng như đàn bà con gái không trang điểm nhan sắc. Vừa ăn vừa khóc cũng không sao.”

Dù cho bánh phở và bún được biến chế từ các loại ḿ dẹp và ḿ sợi của Ư, thứ mà người Mỹ gọi là pasta và spaghetti, nhưng mọi người đều tận t́nh thưởng thức, hết lời khen các chị nấu ngon, có tài xoay xở trong hoàn cảnh khó khăn.

Lúc quá trưa, th́ có hai xe của các gia đ́nh Mỹ bảo trợ đến chung vui. Trời băo tuyết, mà họ cũng lặn lội đến ủng hộ tinh thần, mới thấy tấm ḷng tử tế của họ. Hai ông bà Mỹ già trên dưới sáu mươi, và hai vợ chồng trẻ khác.

Tôi hỏi chị Hoa:

“Bà bảo trợ của chị phải không? Thật là quư hóa. Bà tên ǵ để tôi ra chào?”

Chị Hoa đỏ mặt nói lí nhí:

“Tên kỳ lắm, khó nghe, nói ra mắc cở cái miệng. Bà A-Địch đó (Adith). Lần đầu tiên nghe tên bà, em cười đến đau cả ruột.”

Tôi cười và nhớ đến câu “Ăn thịch dịch, ngứa đích, địch thơm mùi mích” của mấy ông bạn ngày xưa hay trêu ghẹo nhau.

Hai cặp vợ chồng người Mỹ bảo trợ, được bà con tiếp đăi ân cần. Họ là đại diện cho những ân nhân, cho nhà thờ, đă mở rộng ṿng tay nhân ái, ṿng tay t́nh thương, tiếp đón những con người trôi sông lạc chợ, gạt nước mắt ĺa bỏ quê hương ra đi đến phương trời vô định, tương lai vô định. Các ông bà bảo trợ ăn thử từng món, món nào cũng khen ngon, cũng hít hà rối rít. Không biết họ có khen thiệt t́nh, hay chỉ khen v́ tội nghiệp cho cái đám người tị nạn nhếch nhác lôi thôi ngơ ngáo đó. Khi ăn một miếng bánh da lợn, bà Mỹ già hỏi :

“Bánh ǵ đây?”

V́ vốn liếng Anh ngữ c̣n loạng quạng, một anh trả lời bằng cách dịch từng chữ của bánh da lợn ra tiếng Anh:

“Pig skin cake” (Bánh da heo)

Bà Mỹ già quát lên:

“Cái ǵ ? Da heo ?”

“Đúng!”

Bà Mỹ già như nghẹn trong họng với miếng bánh đang ăn. Bà ngậm miệng lại, với vẻ mặt bối rối, như muốn nhổ ra, mà v́ lịch sự không dám nhổ ngay. Bà Mỹ trẻ th́ rùn hai vai lại, há miệng thè lưỡi ra sợ hăi. Hai ông chồng th́ cười hóm hỉnh. Sau đó mấy ông bà Mỹ được mời ăn món phở, mỗi người một tô nhỏ. Các ông bà khen ngon, và hỏi cách nấu phở ra làm sao. Tội nghiệp chị Hương, mệt phờ, đổ mồ hôi hột, dùng tay chân, và cái vốn Anh ngữ đơn sơ của chị để dạy mấy bà Mỹ nấu phở. Có lẽ hai bà Mỹ không hiểu chị muốn nói ǵ, nhưng cũng gật đầu vui vẻ như sẽ nấu được phở ngay. Chị người Huế ngồi bên nồi bún ḅ thấy phở được khen rối rít, chị kêu tôi mời mấy ông bà Mỹ ăn bún ḅ. Tôi chào và kéo mấy ông bà qua nồi bún ḅ, nói:

“Món nầy cũng ngon đặc biệt, phát xuất từ cố đô Huế của chúng tôi, nơi vua chúa ngự trị mấy trăm năm.”

Chị nấu bún ḅ vui cười, sung sướng, tôi dặn chị cho ít ít nước cay mà thôi. Chị nói rằng, trời lạnh mà ăn bún ḅ gị heo nầy, th́ phải nhớ một đời. Chị lựa mấy cái gị heo vừa dài, vừa lớn bỏ vào từng tô. Tôi đưa ra mời, mấy ông bà Mỹ vui cười, mỗi người cầm một tô. Chưa ăn th́ bà Mỹ trẻ chỉ vào cái chân gị, có lông lún phún hỏi:

“Cái ǵ đây?”

Tôi chưa kịp đáp, th́ anh Sáu Nạc đă nói lớn, dịch chữ móng gị heo ra là pig leg nail. Hai bà Mỹ trợn tṛn mắt cùng thét lên:

“ Móng chân heo ?”

“Vâng, ngon lắm, ăn đi.”

“Không không, chúng tôi no lắm rồi, không ăn thêm được đâu.” Ông Mỹ già lịch sự đáp.

Cả bốn người Mỹ đều đặt những tô bún ḅ xuống bàn. Mặt mày họ lộ vẻ khiếp đảm. Sau đó, họ không dám ăn thêm một món nào nữa. Chị nấu bún ḅ người Huế ngơ ngác mở to mắt hỏi tôi. Tôi giải thích cho chị rằng, có lẽ họ chưa quen ăn móng gị heo nên sợ. Chị chíp miệng, tiếc mấy người khách kia chưa kịp nếm thử bún ḅ mà đă từ chối không ăn.

Mấy chị tụ họp kể chuyện xưa bên nhà, những kỷ niệm vui, những ngày Tết, những loại cây trái, bánh mứt. Rồi kể đến một thời khó khăn trong xă hội mới, những cay cực phải chịu, những gian nan khi liều thân ra biển. Một chị rưng rưng nước mắt khóc, nói rằng không biết giờ nầy cha mẹ bên Việt Nam đang làm ǵ. Nước mắt của chị như làm mồi cho những chị khác. Mấy chị cũng méo miệng khóc thút thít, rồi khóc to thành tiếng, nhiều chị khác không cầm được ḷng, khóc theo. Tiếng khóc vang như có đám ma. Mấy người đàn ông cũng đỏ hoe con mắt. Anh Sáu Nạc run run nói: “Lạ chưa? Việc chi mà khóc! Có tự do, có cơm áo hạnh phúc rồi, sao c̣n khóc?”. Nói mạnh thế, nhưng tṛng mắt anh cũng nhạt nḥa ướt. Anh lấy khăn giấy lau mắt, và cắn môi lại cho khỏi khóc thành tiếng.

Mấy ông bà Mỹ bảo trợ, ngạc nhiên băn khoăn hỏi tôi có chuyện ǵ xẩy ra? Tôi đáp gọn: “Họ khóc v́ thương nhớ quê hương”.

Bà A-Địch nói nhỏ: “H́nh như các người trăm cay ngàn đắng mới trốn thoát ra khỏi quê hương. Sao c̣n thương nhớ mà khóc lóc đến thế?” Tôi muốn trả lời với bà rằng, bà không là người mất quê hương, làm sao hiểu được tấm ḷng chúng tôi, nhưng tôi sợ mất ḷng không dám nói ra. /.

Tràm Cà Mau

 

 

 


VĂN CHƯƠNG

2024
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013 
2012

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả


Tháng ngày tao loạn
Sài G̣n ơi!
Đoạn kết câu chuyện t́nh buồn
Đôi giầy trậ
Thư kư của thiên thần
Với tàu định mệnh Lam Giang HQ 402
Bà Mẹ thượng đẳng
Do Thái và Bài học sinh tồn
Một bà mẹ vất vả
Áo bà ba tím
Anh hùng Richard Norden
Văn hoá không tên
Họ đến và chết v́ tự do
Thiên đường đă xa
Yếm thắm hương xưa
Ông Sư nhà quê
C̣ng lưng vẫn gánh
Cuộc đời và sự nghiệp của danh ca Hà Thanh
How the 1972 North VN Easter offensive...
Xác chết trên băi biển  
Những món nợ khó trả  
Nếu có thể đi về quá khứ...  
Người đưa tin... độc địa  
Chị Agnès 
Một thời chinh chiến điêu linh
Người Saig̣n ….xưa!!!
Trí thức sến
Đuổi gà cho vợ
Hậu Duệ VNCH rạng danh Tiểu Bang Texas
Máu đào
Bản tình ca của người Tỵ Nạn
Miếng ăn
Cờ Việt Nam Cộng Ḥa ngay giữa thủ đô Melbourne
Đại uư Andrew Dang (gốc Việt), Phi công B-2
Chiến tranh Israel-Iran
H́nh ảnh Lễ Kỹ Niệm Ngày Quân Lực 19/6 tại Úc
Kỷ niệm ngày 19 tháng Sáu tại Cali
Mắt lệ cho người
BS trong tù
Những ánh mắt trẻ thơ
Gặp lại cố nhân!
Lệnh gọi “học tập cải tạo”, một vết chém cay nghiệt!
Những năm nào chiến tranh đă quên
Sau 30 tháng 4. những nhớ và quên
Từ một tấm h́nh
Những người chiến sĩ vô danh
Phố núi
Nhiều khi
Viết trong ngày Memorial Day 2025
Đệ Thất Hạm Đội - Cứu giúp thuyền nhân
Sự đời
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong nhớ bạn
Chuyện t́nh thời chiến
50 năm – c̣n đó nỗi buồn
30 tháng 4. Một vài hồi tưởng...
Tiếng khóc của một dân tộc
Bài thơ của một người học tṛ cũ
Vào viện dưỡng lăo
Thu - Hát cho người
Mảnh vụn  
Ơn em  
Người vợ lính  
Melbourne - Tưởng niệm 50 năm Ngày Quốc Hận 
Ngày người tù binh trở về!  
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam  
Vào ngày này năm 1975, Chiến dịch Gió lốc  
Ngày cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu  
Cong lưng vẫn gánh  
Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975
Tháng Tư - Nh́n lại tháng Ba găy súng
Băng đạn cuối cùng
Cuộc di tản tệ hại ở toà Đại Sứ Mỹ
Tưởng nhớ anh Năm Nguyễn Đ́nh Bảo
Cờ Vàng: Biểu tượng của Việt Nam Cộng Ḥa
Vĩnh biệt anh chị Trần Hoài Thư
T́m được hài cốt Th/T Trương Phùng...
Các anh hùng LCĐB tử thủ An Lộc
Đêm đ́nh chiến  
Ai xứng đáng được phủ Quốc Kỳ VNCH  
Những tên vc nằm vùng

Giải oan cho Tổng Thống Thiệu
Trại tị nạn Camp Pendleton năm 1975
33 năm t́m được xác chồng

Kẻ bại trận nợ người tử trận!
Sao Mai 09
Tuấn Ngọc - Gửi gió cho mây ngàn bay
Chữ "Tín"

Nghĩa trang tử sĩ Biên Ḥa  
Tonle Tchombe (Tống Lê Chân)  
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến  
Không bỏ Anh Em, không bỏ Bạn Bè  
T́nh người trong cuộc chiến
Trận chiến Đại Phú  
Tâm thức người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc giới  
Tâm tưu của một thằng lính ngụy  
Tao là Ngụy!  
Những kẻ mở miệng là phát ra tiếng "Ba Que"

Ba mươi tháng tư năm xưa, bác ở đâu?
LHQ chất vấn Việt Nam về TPB VNCH
Chết để làm ǵ
Đưa anh về nhà
Chiều
Thằng "Cầu" đỏ

Kỷ niệm 50 năm người Việt định cư tại Úc
Chương tŕnh kỷ niệm 50 Năm, người Việt Tỵ Nạn CS
Chuyện về một lá thư
Đất nước lạ lùng
Chuyến đi Hawaii & giây phút thần tiên khó quên
Người Lính Già Oregon Đă “Giă Từ Vũ Khí”
Bên bờ sinh tử
Đời ơi tôi khóc !
May mà ta c̣n có em...
Nhà báo lăo thành Mạc Kinh
Tô Lâm thừa nhận Sài G̣n trước 75 phồn vinh  
Khi rừng chưa thay lá  
Bạn xưa 50 năm cũ  
Cuộc hành tŕnh  
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn…
 
Trận tổng tấn công của VC và phản công của TQLC trong Tết Mậu Thân  
Kỷ niệm Cổ Thành Đinh Công Tráng  
Tái chiếm Quảng Trị, trận chiến dài nhất  
QLVNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị  
Sài G̣n, quán cafe & tuổi lang thang
Khoác áo chiến y
Một nét văn hoá Sài G̣n xưa
Sài G̣n ơi, Em c̣n đó hay không?
Ḍng sông đứng lại
Con người thực Anthony Fauci

Trong lửa đỏ, giữa sự chết, trên Quê Hương!
Tết năm này nhớ tết năm xưa
Phi vụ cuối cùng
55 năm Tết Mậu thân 1968
Huế 1968 - thảm khốc và hy vọng

Người Việt Nam đầu tiên nhảy dù là ai?
H́nh ảnh Lễ Thượng Kỳ mồng một Tết Ất Tỵ tại Úc
Đêm giao thừa buồn
3 mẫu chuyện ngắn
Đi t́m hơi ấm Đồng Hương
Ngựa đá qua sông
50 năm nh́n lại người Việt tại Hoa Kỳ
Con dao con chó
Người Nam Kỳ
Tâm sự của một cựu sinh viên Luật Khoa Sài G̣n
Sự chiến đấu kiêu hùng của QLVNCH
Người ở lại Định Quán
Xứ cao bồi những ngày trước lễ Giáng Sinh
Phiên phiến tuổi già
Một chuyện rất Việt Nam
Đỉnh ngu trí tuệ
Tạp ghi CẢM ƠN NGƯỜI VIẾT SỬ “Phía Bên Kia”
Bạn thân từ thiếu thời
Chân dung ngày xưa Hoàng Thị
Xóm cũ nội thành
Tôi tay đôi với tụi nó đây!
Tấm thẻ bài
Rạn rụa lệ mềm
Các con phải sống
Hồi Kư của người về Từ Hoa Lục Đỏ 1974