Những bài viết của Bất Khuất

Chuyện t́nh khó quên
May mắn & Hên xui trong đời lính chiến
Ba, bốn phát
Tập Truyện Thuyền Đời  
13 người cuối cùng về từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân  
Tết  
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời - Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long  
Ngày oan trái! - Audio
Đất nước tôi - Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh - Audio
Chuyện cuối năm - Audio
Màu áo cũ - Audio
Mang theo quê hương  - Audio
Trong âm thầm c̣n nhớ ai! - Audio  
Sài G̣n là đây sao em! - Audio
Chuyện trăm năm - Trên quê hương - Audio
Chuyện trăm năm - Một ngày - Audio  
Trăm đắng ngh́n cay - Audio
Chiếc áo Bà Ba - Audio
Giữa đồng xưa - Audio
Áo trắng - Audio
Gửi nơi cuối trời - Audio
C̣n nhớ mùa xuân - Audio
Từ một chuyến đ̣ - Audio
Dêm thánh vô cùng - Audio
Khi mùa đông về  - Audio
Noel năm nào - Audio
Khúc quân hành - Audio
Cho ngàn sau - Audio
Ngh́n trùng xa cách  -  Audio
Rồi lá thay màu - Audio
Con chim biển 3 - T́m về tổ ấm - Audio
Con chim biển 2 - Trên biển khơi - Audio  
Con chim biển 1 - Tung cánh chim - Audio
Đốt sách ! - Audio
Đi học  
Sài G̣n - Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về - Audio  
Làng tôi - Audio 
Sao em không đến - Audio  
Anh đi!  - Audio  
Vỉa hè đồng khởi - Audio
Ngày đại tang  
Chuyện mất chuyện c̣n  
Con chim Hoàng Yến - Audio 
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú - Audio
Remember!
Cánh chim non - Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa   
Trăm đắng ngh́n cay  
Con đường tôi về
Hăy c̣n đó niềm tin
Chiều ra biển  
Những đứa con đẽ muộn  
Một thời kỷ niệm  
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn  
Ngày anh đi  
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride  
We remember
Vui - Buồn … Ngày hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72  
Mùa hè đỏ lửa  
Dư âm ngày hội ngộ 44 năm tại California  
Có chuyến bay  
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ  
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết


 

 


 

 

 

 

 

 

 

NGƯỜI ĐƯA TIN...ĐỘC ĐỊA


HOÀNG LONG HẢI
(Tặng “xếp” cũ của tôi,trung tá Huỳnh Kiêm Mậu.)

Đưa ống nghe điện thoại xa ra khỏi tai, hướng mặt về phía trung tá Mậu, Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị, tôi nói, không lớn tiếng, đủ cho mọi người trong pḥng nghe:
- “Có khách rồi, không biết có kịp tết không?”
Trung tá Mậu hỏi ngay:
- “Ma chay hả? Từ đâu về?”
- “Thiết Đoàn 16, tử trận ở Kompong Trạch, mẹ ở Gia Định.”
Trung tá Mậu ngữa lưng, dựa vào ghế. Tôi nghe tiếng ông thở ra. Chỉ c̣n bốn ngày nữa là tết. Ông “mệt” cho ông hay ông “cám cảnh” cho tôi, “năm hết tết đến” c̣n lo việc an táng cho đồng ngũ.
Tôi lại đặt ống nghe vào tai, tiếp tục với người ở bên kia:
- “Huế c̣n đó không?
- “Có”. Tiếng thiếu úy Huế trả lời. Tôi hỏi tiếp:
- “Lên đường về đây rồi phải không?”
- “Vâng!” Huế trả lời. “Tui cho một trung sĩ đi theo với tài xế. Làm sao anh?”
Tôi vẫn giữ cái thói hay nói đùa:“Làm sao cũng chẳng làm sao!” Ở đây có người lo tiếp cho tử sĩ. Ông trung sĩ đi theo có điện thoại của tui không? Gần tới nơi th́ gọi cho tui. Tui chờ ở Nghĩa Trang Quân Đội G̣ Vấp.” (Hồi ấy “Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa đang chuẩn bị h́nh thành – tg)
- “Tui dặn rồi. Có phải điện thoại của anh là 30.240?”
- “Đúng! Yên tâm đi nghe. Có chi trở ngại, tui sẽ gọi ông.”
Huế -Trần Huế – bạn cùng khóa Bộ Binh, Thiết Giáp với tôi. Anh ta cũng như Phạm Văn Nga lại là học tṛ cũ của tôi, khoảng chừng hơn năm năm trước ở Huế. Cả hai thua tôi khoảng 10 tuổi.
Sau tết Mậu Thân ở Huế, buồn t́nh, tôi tự động bỏ dạy –“bỏ cục phấn bấm c̣ súng” – câu tôi thường nói đùa với bạn bè – Hai “ông bạn đồng khóa” th́ tới tuổi động viên, thành ra, “cùng nhau đi lính Cộng Ḥa”, hết Quang Trung, lên Thủ Đức, vô trường Thiết Giáp. Ra trường, tôi và Nga chọn Thiết Đoàn 17/ Kỵ Binh, đóng ở Phước Tường. Huế về Thiết Đoàn 16 ở Long Xuyên; sau tháng 3/ 1970, Thiết Đoàn thường hành quân vượt biên qua Kamphuchia. Tôi được giữ lại Bộ Chỉ Huy, tiếp nối tờ báo “Kỵ Binh”, “giữ cái nghiệp làm báo tự chọn” do một ông bạn cũ từ thời học tiểu học, đại úy Lương Thúc Tŕnh giao cho v́ Tŕnh được biệt phái về “nhiệm sở cũ”, giáo sư ở trường trung học Trần Quí Cáp, Quảng Tín.
Tôi kiêm luôn công việc mà tôi thường gọi đùa là “Người đưa tin… độc địa”, nghĩa là đưa tin “báo tử các chiến hữu” của binh chủng cho thân nhân của họ ở Saigon và Gia Định.
“Tin… độc địa” v́ gia đ́nh người ta đang yên ổn, bỗng tôi tới gơ cửa báo tin thân nhân họ… tử trận. Thế là cả nhà, có khi c̣n cả cha mẹ già, vợ con, chị em… ̣a nhau lên khóc.
Nghe tiếng họ khóc, tôi đứng như “chết trân” tại chỗ. Nhiều khi muốn trốn khỏi nhà họ nhưng không trốn được; nhiều khi muốn làm “ông Tề độn thổ” cho xong, nhưng lại không có 72 phép thần thông.

Về nhận việc ở đơn vị mới được mấy hôm, Trung Tá Mậu gọi tôi tới bàn ông, biểu ngồi xuống ghế. Đứng bên cạnh ông là trung úy Nguyễn Đăng Đức, tay cầm xấp hồ sơ không dày không mỏng. Trung tá Mậu nh́n tôi một lúc, mặt hơi có vẻ nghiêm, nói:
- “Giao việc nầy cho anh tôi yên tâm hơn. Mấy lâu nay, trung úy Đức đảm nhận nó, chưa có ǵ sai trái nghiêm trọng, nhưng ông Đức có bệnh hay quên; nhiều khi ông ta quên làm tôi đứng tim luôn. Việc ma chay phải hết sức cẩn thận. Gia đ́nh người ta có người “hy sinh v́ Tổ Quốc”, ḿnh lo giúp người ta việc an táng là phải chu toàn. Lôi thôi, thân nhân thưa lên tới Tổng Thống chớ không phải tới ông Đại Tướng đâu. Vậy là họ gơ đầu thuộc cấp, từ trên gơ xuống, gơ tới ḿnh là coi như… khăn gói ra Vùng 1, Vùng 2. Ngại lắm! Ḿnh không sợ tác chiến nhưng khăn gói quả mướp kiểu ấy th́ mất mặt anh hùng.”
Theo lệnh trung tá Mậu, trung úy Đức trao tập hồ sơ cho tôi. Nh́n hàng chữ ngoài b́a, tôi đâm lo, “hơi lạnh gị” v́ tưởng có “âm khí nặng nề” như khi Kiều gặp mộ Đạm Tiên. Đây là một cái tên có lẽ tôi chưa từng nghe bao giờ: “Hồ Sơ Ma Chay”.
Tôi cũng “thấm” lời trung tá Mậu căn dặn: “Gia đ́nh người ta có người hy sinh v́ Tổ Quốc”… Chuyện nầy… dễ “thông cảm”, v́ chính gia đ́nh tôi, cũng không “ngoại lệ”, cũng đă có người tử trận, c̣n như thấy, th́ thấy không ít lần.
Tôi từng ngạc nhiên v́ mấy chữ “Nhà Vĩnh Biệt” treo trước cái nhà nhỏ nằm riêng một góc phía trong Cửa Hậu, ở thành Mang Cá / Huế, cuối quân y viện Nguyễn Tri Phương mà tôi từng thấy khi mới học lớp Nh́. Tôi có bà chị, nhà ở đường Lê Văn Duyệt, con đường song song với sông đào An Ḥa / Bao Vinh; bên cạnh con đường nầy, phía ngoài cửa Hậu là “Nghĩa Trang Quân Đội”. Biết bao nhiêu mồ mả ở đó. Cũng có lần tôi đi thăm chị, ngang nghĩa trang, nhằm lúc người ta sắp hạ huyệt, tiếng kèn Tây nổi lên: “Tọ ti tè, tọ ti tè…” bọn trẻ từng nhại theo “Tôi chưa tề. Tôi chưa tề!” Cái nhại nầy có phần nghiêm trang v́ người ta không dám đùa với người… chết.
Về chỗ, tôi mở tập hồ sơ… nghiên cứu. Ấy là nói cho ra vẻ… chớ “nghiên cứu” ǵ đâu! Trước hết là coi thử… phải làm ǵ: Báo tin là một. Thứ hai là hỏi tang gia có yêu cầu ǵ: phương tiện, xe cộ di chuyển (bao nhiêu xe, bao nhiêu người), nơi an táng (tại nghĩa trang quân đội hay đưa về nhà cũ, những nhà có vườn như ở Lái Thiêu, B́nh Chánh, tang gia yêu cầu đưa về nhà của họ, chôn trong vườn nhà hay nghĩa trang gia đ́nh. Cũng ngại đấy v́ có vài gia đ́nh ở vùng “mất an ninh”, lỡ khi đang làm lễ th́ Việt Cộng tấn công. Đừng nói nhân đạo với “tụi nó”, có lúc nào Việt Cộng không thẳng tay giết người?!)

Có những điều phải về làm tờ tŕnh “xin thượng cấp”, có những cái phải làm “Bưu điệp cầm tay” đem ngay sang cho “Trung Đội Chung Sự” ở G̣ Vấp để xin họ giúp đỡ…
Không có ǵ khó, cái ǵ cũng dễ.
Quân Đội VNCH có bài bản cả rồi: đơn vị nào, người nào, ai lo việc nấy, ngoại trừ khi yêu cầu của tang gia vượt ra những điều thông thường. Cũng may, phía Quân Đội th́ dự trù hoàn hảo, về phía tang gia, không đ̣i hỏi ǵ quá đáng, chỉ cần ḿnh: “Thi hành công vụ” với một tấm ḷng như thế nào đó để tang gia được chút an ủi.
Khó nhất, chính là việc “báo tin”. Khó mở miệng nói câu “Thưa ông (hay thưa bà, thưa chị), anh (ǵ đó)… đă tử trận.”
Và kinh hoàng, và sợ hăi, và cũng lắm khi đau xót, tội nghiệp v́ những tiếng khóc ̣a lên, nghe… năo ḷng.
Nửa giờ sau, tôi báo cáo với trung tá Mậu tôi đi “báo tin tử sĩ”, bắt đầu lo ma chay. Tài xế Chính dừng xe chờ tôi ngay cửa trước. Tôi khoái đi với “ông” tài xế nầy. Tuy không phải là dân Saigon, nhưng anh ta rành rẽ đường sá, thông minh, nhạy bén, “t́m nhà” rất nhanh.
Hồi bấy giờ xă Phú Nhuận, xă B́nh Ḥa, tuy thuộc quận G̣ Vấp, tỉnh Gia Định, nhưng “Saigon hóa” mất rồi. Từ Saigon, qua khỏi Cầu Bông, Cầu Kiệu, nếu không ṭ ṃ, mấy ai để ư bên nầy cầu là Saigon, bên kia cầu là Gia Định: Nhà cửa san sát, cái cao cái thấp, phần nhiều mới xây, nhà cũ mất dấu cũng không ít, hết hẽm nầy, tới hẽm kia, t́m ra địa chỉ gia đ́nh tử sĩ phải chăm chú t́m đường, hỏi thăm, có khi phải tới ngay trụ sở xă ......
Bởi v́ làm công việc “báo tin dữ”, nên tôi biết nhiều con đường, và cả nhiều con hẽm nữa của “Saigon ngày nay”, và tôi có cái tên mới do các bạn cùng đơn vị đặt cho tôi: “Thổ công phía sau Saigon”. “Phía sau Saigon” là những xóm nhà lộn xộn, đằng sau những con đường lớn.

Saigon khác với Huế.
Huế gọi là “kiệt”. Saigon gọi là “hẽm”.
Huế có từ Kiệt 1 tới Kiệt 5, Kiệt 10 đă là nhiều. Saigon th́ hàng trăm “con hẽm”.
Huế gọi là “trên”: Nhà số 5, “trên” 9 chẳng hạn, là đă tới chỗ tận cùng của kiệt.
Saigon khác, bởi v́ Saigon là “thành phố quốc tế”: Tiếng Tầu, tiếng Tây, tiếng Anh trộn bậy với nhau khá buồn cười.
Đi xe Lam th́ dùng tiếng Anh: “Tốp! tốp”. Là “X́ tốp” đấy. Khách đi xe lam, muốn xuống th́ nói tiếng Anh với tài xế: “Tốp” (stop). Muốn ăn th́ gọi “hủ tiếu”; muốn uống cà phê th́ “Xí nại”, “xây chừng” là tiếng Tầu chớ ǵ. T́m nhà trong hẽm th́ gọi là “xiệc”: 5 “xiệc” 20, lại “xiệc” 19, v.v… “Xiệc” gốc là tiếng Tây: “sur”: 5 sur 20, sur 19. Mới tới Saigon thấy lạ, lâu ngày thành quen.
Nhà mấy “ông lớn” nằm ngay ngoài đường lớn, khỏi “xiệc”, t́m dễ lắm. Nhà lính tráng là nhà nghèo, dân lao động, thợ thuyền, “buôn thúng bán mẹt”, phải trố mắt nh́n gần chục cái “xiệc” mới tới nơi. Có khi khóm xă ghi không rơ, người đi t́m phải đi quanh, không phải “năm phút đă về chốn cũ”, mất vài chục phút “lại về chốn cũ” là chuyện thường.
“Trăm hay không bằng tay quen”. Nhờ cái “quen” ấy t́m nhà cũng nhanh, tuy nhiên tôi cũng có lần kiếm hụt hơi.
Một lần tôi với tài xế Đănh t́m một ông già, địa chỉ ghi rất gọn: “Phi trường Tân Sơn Nhất”.
Tử sĩ con ông già chắc không quan tâm lắm về nơi cư trú của thân phụ ḿnh, nên anh ta, trong hồ sơ nhập ngũ, ghi đại khái như vậy. Đến phiên tôi đi t́m nhà, đâu có thể “đại khái” mà phải t́m cho được, để báo tin rằng “Con trai bác đă tử trận”. Rồi chờ…

Ông già góa vợ khi c̣n trẻ, “một cha một con” sống với nhau, cho đến khi người con trai, thấy ḿnh cần đăng lính, sau khi bị thôi thúc v́ câu hát của Lam Phương: “Người thư sinh ấy đă xếp bút nghiên”… Và “anh hăy nói khoác chiến y rồi.”
Tôi đi bộ gần như “đứt hơi” từ đầu tới cuối phi trường Tân Sơn Nhất, để hỏi thăm ông thân sinh tử sĩ; tôi mới biết thêm ông là nhân viên “Sở Quản Lư Phi Trường”. Đến ngay “Sở Quản Lư Phi Trường” cũng chẳng ai biết ông là ai v́ “ở đây đông người lắm”. Phải t́m đến “ban phát lương”, bởi v́ nếu ông ta có đi làm th́ phải có lương.

Bấy giờ “bà Thủ Quỹ” mới cho hay rằng, người cha của anh lính tử trận của binh chủng tôi là một ông Tô Vũ của phi trường, thời kỳ đă có nhiều Boeng 727 lên xuống phi đạo.
Chắc chắc ông không phải là nhạc sĩ Tô Vũ của “Em đến thăm anh một chiều mưa”, “phục vụ đảng và bác ở ngoài Bắc”, đang ở ngay Hà Nội hay “sơ tán” máy bay Mỹ lên miền Trung du Bắc bộ; ông ta lại càng không phải là ông Tô Vũ bị rợ Hung Nô bắt làm con tin đời Hán Vũ Đế bên Tầu, mà chính là một ông già chăn dê cho phi trường. Chắc là mấy ông lớn “quản lư phi trường” khoái ăn thịt dê, đất phi trường th́ rộng, tại sao họ không nuôi một bầy dê để có thịt dê mỗi khi tiệc tùng.
Hỏi “bà Thủ Quỹ” chăn dê ở đâu? Bà lắc đầu: “Thiếu úy t́m quanh phi trường th́ gặp ổng. Ổng không cho dê ra khỏi phi trường đâu!” Vậy là tôi lại phải “một chiều lang thang” trong phi trường” không phải để xem “người đi, người tiễn”, hay “người chia tay nơi cuối đường” (băng) mà để đi t́m ông già chăn dê.
Hơn một giờ sau, “lội bộ ră gị”, mới gặp “ông Tô Vũ thời đại” gần Cổng Số 6 (?), chỗ gần Tổng Y Viện Cộng Ḥa. Ông đang “thả dê” ăn ở đó; “thả dê” là tôi nói theo đúng nghĩa đen của hai tiếng nầy.
Báo tin cho ông già xong, tôi phải ngồi chờ ông khóc tỉ tê.
Ông không khóc ̣a như các mẹ, các chị. Ông khóc không thành tiếng, ông khóc thầm; không “thê thảm” như người đàn bà khóc con bị cọp vồ trong “Cổ Học Tinh Hoa”. Ngày trước, khi khóc vợ qua đời, ông cũng khóc thầm như thế chăng? Rồi bao nhiêu năm “gà trống nuôi con”, nếu có khi nào ông thấy thương cho người vợ chết sớm, “đầu gói tay ấp”, bên cạnh đứa con trai độc nhất, ông cũng khóc thầm như thế chăng?
Ngày trước ông khóc vợ, nay ông lại khóc con, cũng âm thầm như hồi ông khóc vợ. Có ai biết cho ông? Có ai thông cảm cho ông, một người cha vừa mới nghe tin con “mất ngoài chiến trường”. Ông ngồi dựa lưng vào cây bă đậu mà khóc! Ông không thấy đau khi những cái gai nhọn ở thân cây đâm vào lưng ông. Nỗi đau quá lớn trong ḷng ông làm ông quên đi cái đau nơi thân thể ông rồi chăng?
Đứng chờ lâu mỏi chân, vả đi bộ năy giờ, chân tôi cũng đă chồn, tôi cũng ngồi xuống dựa lưng vào một cây bă đậu bên cạnh.
Một lúc thật lâu, ông đứng dậy lùa bầy dê về chuồng, cách đó cũng khá xa.
Tôn trọng nỗi đau của người cha mất con, tôi lặng lẽ đi theo. Cho dê vô chuồng, khóa cửa lại, “việc công” xong rồi ông mới mời tôi về một cái cḥi lợp tôn gần đó, để lo “việc tư”, để hỏi thăm về việc người con trai ông đă hy sinh, và hỏi thăm về việc chôn cất.
Dĩ nhiên, đó là một “kỷ niệm đời lính” khó quên cho tôi!

Công việc của tôi như thế. Bây giờ là lúc t́m nhà người mẹ tử sĩ.
Con hẽm bên cạnh trường Nữ Trung Học Lê Văn Duyệt trên đường Đinh Tiên Hoàng, Gia Định, gần như đối diện với Lăng Ông Bà Chiểu là một con hẽm xa hun hút. Tôi có cảm tưởng như nó rẽ phải, rẽ trái rất nhiều lần, cuối cùng sẽ “đụng” với “đường Hàng Keo”, là một con đường nhỏ, chưa tráng nhựa, đối diện với Ty Canh Sát Gia Định trên đường Vơ Tánh. Có phải xưa là “bót Hàng Keo” như người ta thường gọi?
“Kinh nghiệm” không sai. Theo địa chỉ, tôi phải đi qua bao nhiêu cái “xiệc”. “Tin tức đầu tiên” khi hỏi người trong hẽm, mới hay rằng đó là một “bà già Tầu” trên năm mươi tuổi, “một mẹ một con”, con đăng lính, mẹ ở một ḿnh. Đây không hẳn là một bà “mẹ Việt Nam” như kiểu cục Tâm Lư Chiến tuyên truyền, mà chính là một “bà mẹ Tầu” có con đi lính Việt Nam, chống “tay sai Tầu Cộng”. Nói vậy cho đúng bài bản.
“Tin tức thứ hai”, bà vốn dĩ gốc Tàu Chợ Lớn, “yêu” một người Việt Nam, bị gia đ́nh cấm cản. Đó cũng là “chuyện thường t́nh”, như dân chúng từng nghe. Đến khi có bầu, bà theo người chồng Việt Nam về ở xóm nầy; chưa được bao lâu, người chồng tử nạn xe lửa; “sinh nghề tử nghiệp”, người chồng là công nhân hỏa xa.
Bà cũng đành ở vậy, nuôi con, không t́m về Chợ Lớn, nhà cũ, cha mẹ ruột, v́ cha mẹ đă từ con. Người con trai lớn lên, giống như thanh niên cùng xóm, mười tám tuổi, anh đăng lính mũ đen. Lính mũ đen là lính Thiết Giáp. Hơn nửa năm sau, anh “hy sinh trên chiến trường Kamphuchia”. Anh ta đúng là một con người “quốc tế”: Cha Việt, mẹ Tầu, chết ở Kam-pu-chia. May mà chưa có vợ Tây hay vợ Mỹ.
Tôi giả bộ đi chầm chậm qua căn nhà tôn nhỏ, nơi bà sinh sống một ḿnh, tự hỏi ḷng: “Làm sao mà báo tin cho bà đây?” v́ chắc chắn bà thương con lắm. Nghe tin con tử trận, chết giả hay bất tĩnh là việc dễ xảy ra.
Và bà già Tầu ngất xỉu thật, sau khi bà hỏi lại tôi một lần nữa về tin người con trai bà: “Nó “chiếc” dzồi a?”
Nhưng rồi bà tỉnh lại ngay, chụp ngay con dao để bên cạnh, giáng lên cao và… chém tôi, kèm theo một câu chưởi: “Cha cái “xằng Xiệu” giết con… ngộ.”
Tôi không kịp hay cố nghe cho rơ tiếng cuối “ngô” hay “ngộ” hay ǵ đó. Tôi bước lui vài bước thật nhanh, có tạo một khoảng, tin chắc con dao bà cầm chém không tới… tôi.
Rồi bà già Tầu khóc, khóc to, bà la to lên, chưởi mắng ai đó tôi không nghe rơ; rồi bà té xuống đất, lại ngồi lên, lại tiếp tục chưởi “xằng Xiệu”. Bà chưởi tổng thống đấy…
Nh́n cảnh ấy, tôi nói với tài xế Chính, đứng bên tôi, mặt cũng tái xanh đi, không phải v́ sợ, mà có lẽ v́ ngạc nhiên, v́ thấy lạ, một cảnh anh ta chưa từng gặp. Tôi nói: “Bà điên rồi mầy ơi! Bà điên rồi.”
Nghe tiếng tôi, Chính hơi b́nh tĩnh trở lại, hỏi tôi:
- “Làm sao thiếu úy, bây giờ làm sao?”
Trí tôi cũng chưa ổn định hẳn, tôi trả lời:
- “Cũng không biết làm sao?”
Binh thư của trường Bộ Binh chỉ dạy tôi nhiệm vụ của một trung đội trưởng. Binh thư trường Thiết Giáp dạy tôi về “Thiết Quân Vận” M-113, xe tăng M-41, và đội h́nh hành quân, tấn công; binh thư cục Tâm Lư Chiến không có mục nầy. Tôi phải tự ḿnh xoay xở lấy, không phải để “đối đầu với địch” mà ứng xử tốt đẹp với… đồng bào tôi như lời trung tá Mậu dặn ḍ.

Mấy người hàng xóm chạy lại. Có người vỗ vỗ nhẹ vào má bà già Tầu, có lẽ muốn cho bà tỉnh lạị, có người la to: “Lấy chai dầu…” Có lẽ họ muốn xức dầu cho bà. Rồi họ làm ǵ đó, tôi không thấy rơ. Đúng là “t́nh Cḥm Xóm”. T́nh nầy không có ở… Mỹ.
Có vẽ như việc bà bị ngất đi, bà bị điên, không có ǵ nghiêm trọng. Chưa ai biết bà vừa nhận tin con trai bà tử trận. Hồi năy, trên con đường đi hỏi nhà để vào đây, tôi “giữ kín miệng”. Kinh nghiệm dạy tôi như thế, “không nói với ai về tin người tử trận, trước khi báo cho gia đ́nh.”
Yên tâm như thế, tôi quay lui, đi ra đầu ngơ. Chính đi kế bên tôi, hỏi liên tiếp:
- “Làm sao thiếu úy? Làm sao bây giờ?”
Tôi không trả lời, lầm lũi đi. Đến kề bên cổng trường, tôi ngồi xuống cái ghế nhỏ của một quán “càphê cóc”. Chính cũng ngồi xuống. Tôi và anh ta không ai gọi ǵ. Cô gái bán quán đứng chờ bên cạnh. Tôi đưa tay ra dấu biểu chờ, cô ta bỏ đi vào trong.
Một lúc sau, tôi nói với Chính:
- “Chờ một chút, t́m cách nào gặp bà!”
Chính nói:
- “Hồi năy có mấy bà hàng xóm, thiếu úy không nói luôn đi.”
- “Đâu được! Thấy mặt ḿnh, bà xỉu nữa là mệt chết đó.”
Nói với Chính câu đó là tôi nhớ một chuyện cũ. Hồi tôi c̣n đi học, anh Trương, hàng xóm, thường qua chơi với tôi. Anh kể, nhà quen có nuôi một con khỉ. Anh ấy hay chọc ghẹo và cho khỉ ăn vặt. Một hôm, anh đập chết một con rắn. Tinh nghịch, anh gói con rắn trong tờ giấy báo, đem cho khỉ. Con khỉ tưởng là đồ ăn, kêu cheng chéc, cầm chắc trong tay, rồi mở tờ giấy báo ra. Thấy con rắn, con khỉ nắm tay lại, chết giấc. Đến khi con khỉ tỉnh lại, mở mắt ra, lại thấy con rắn trong tay, lại chết giấc lần nữa. Tôi không biết chuyện anh ấy kể thật hay đùa, nhưng tôi thấy vui và nhớ măi.
Bây giờ cũng vậy. Nghe tin tôi nói, “bà mẹ Tầu” chết giấc. Nếu tỉnh lại, lại thấy tôi, chắc ǵ bà ấy không chết giấc lần nữa. Chuyện thiệt hay giả, tôi tránh mặt “bà mẹ Tầu” là hay nhất, suy nghĩ một chút rồi tính sau.
Một lúc sau, tôi hỏi Chính:
- “Khu vực nầy chắc thuộc xă B́nh Ḥa?”
- “Đúng rồi, hôm trước, em tới trụ sở xă một lần.”
- “Xe để đâu?” Tôi lại hỏi.
- “Em gởi tại Cảnh Sát.” Chính trả lời.
- “Cứ để đó đi. Ḿnh tới trụ sở xă, phải nhờ địa phương.”
Tôi đứng dậy, Chính đi theo, đến trụ sở xă phía chợ Bà Chiểu.
Ông phó xă trưởng nói, sau khi nghe tôi bày tỏ ư kiến nhờ báo tin cho “bà già Tầu”: “Phải xuống khóm. Xă nầy dân đông lắm, chỉ thua Phú Nhuận. Khóm họ gần dân hơn.”
Rồi ông ta hăng hái đi trước, đến trụ sở khóm. Phải chờ hơn nửa tiếng đồng hồ, anh trung sĩ khóm trưởng mới về tới nơi. Tôi đoán chừng trường hợp của anh ta. Anh trung sĩ, có một cái dù ông lớn nào đó, được biệt phái về làm khóm trưởng ở đây, mỗi ngày tà tà lui tới với khóm, xa súng đạn, giữ được chữ “thọ” cho bản thân. Không rơ v́ bản tính hay v́ muốn lập công, anh ta hết ḷng giúp tôi.
Anh đến gặp “bà mẹ Tầu”, lúc cḥm xóm c̣n ngồi đứng quanh bà, báo tin và an ủi; xong anh cho người gọi tôi vào, để tôi “chia buồn”, hỏi bà có yêu cầu ǵ cho đám ma người con trai.
Tôi nghiệp “bà mẹ Tầu”, bà chẳng xin xỏ, đ̣i hỏi ǵ hết, bà chẳng biết ǵ về việc lo chôn cất con trai bà, chỉ sớm mai, đón bà lên nghĩa trang, cho bà “bịt khăn cho con”, và chứng kiến cảnh hạ huyệt. “Năm hết tết đến”, bà mẹ Tầu cũng như các ông bà hàng xóm, theo phong tục của người Việt, “không để đám ra ngoài năm.”
Tôi hẹn với “bà mẹ Tầu”, sáng mai, tôi đến để đón bà lên nghĩa trang. Các bà hàng xóm cũng muốn đi đám, tôi hứa sẽ có một xe Dodge đưa các bà đi và về.
Trước khi ra về, tôi gặp riêng ông trung sĩ khóm trưởng, hỏi:
- “T́nh h́nh an ninh ở đây có yên không?”
- “T́nh h́nh an ninh” là cái ǵ?” Ông trung sĩ hỏi lại.
- “Bây giờ người ta hay biểu t́nh “đả đảo”, “hoan hô”, nhất là đám “phản chiến”, “thành phần thứ ba”, bọn chúng có lợi dụng hoàn cảnh “bà mẹ Tầu” để làm ǵ không?”
- “Không! Ở đây không ai theo họ!” Ông trung sĩ nói chắc.
- “Hồi năy tôi quên hỏi, “bà Tầu” có mời sư săi nào không? Cần th́ ở nghĩa trang có mấy ông tuyên úy. Đạo nào cũng có.”
- “Không đâu!” Nói xong, ông trung sĩ đổi ư. “Hay thiếu úy mời một ông “tuyên úy Phật giáo”. Khóm nầy cũng có nhiều bà hay đi chùa!”
- “Được! Có thôi. Cũng nên có một thầy cho lễ an táng, kinh kệ thêm nghiêm trang, “đủ lệ bộ”. Tôi trả lời.
Một lúc, tôi lại hỏi:
- “Vậy Nguyễn Thị Trừ th́ sao?”
- “Nguyễn thị Trừ nào?” Ông trung sĩ hỏi, vẻ ngạc nhiên.
- “Ni sư Huỳnh Liên đó! Bả “nằm vạ” hoài, mấy lần tôi bị kẹt xe. Chùa bả gần đây nè! Bả tới mấy hồi.”
- “Ở đây không ai hoan hô bả đâu. Láng cháng dân người ta đuổi bà đi, không cần cảnh sát của đại tá Đệ.”
- “Bà nhà quê đó, bị tụi nó lợi dụng. Tôi nghĩ bả không có tŕnh độ hiểu biết ǵ đâu, ngoài mấy cuốn kinh Phật. Tôn giáo mà cũng xông ra làm chính trị. Khỉ thật.”
Chính hỏi tôi:
- “Thiếu úy gọi Nguyễn thị Trừ nên khóm trưởng không hiểu.”
- “Tôi gọi xách mé chơi, “không ưa được”. Người ta đang đánh giặc ngoài mặt trận, chết sống từng giây, đám phản chiến ở nhà quậy cho đă, thiệt không có lương tâm ǵ cả.”

Nói xong, tôi đi qua hướng Cuộc Cảnh Sát B́nh Ḥa để lấy xe. Vừa ngồi lên ghế xong, tôi nói với tài xế Chính:
- “Trễ rồi, xe của Thiết Đoàn 16 chắc về tới nghĩa trang, ḿnh lên đó ngay.
- “Kiếm ổ bánh ḿ thiếu úy. Em đói rồi.” Tài xế Chính nói.
- “Coi chỗ nào có xe bánh ḿ th́ tấp vô.” Tôi trả lời.

Sáng hôm sau, sau khi đến “Trung Đội Chung Sự” làm việc với toán an táng, xem huyệt và kim tỉnh xong, tôi về lại đơn vị tôi, rồi cùng mấy người nữa đi đến nhà “bà mẹ Tầu”.
Sáng sớm, tôi nói với đại úy Trang, trưởng pḥng xă hội: “Cô gọi Pḥng Tư cấp xe cho cô. Xe của pḥng tôi phải xử dụng một ḿnh.” Thường chúng tôi dùng chung một xe mỗi khi đi công tác chung.
Nói như vậy là tôi có chủ ư. Tôi không muốn “bà mẹ Tầu” đi chung xe Dodge với những người khác. Ít ra, cũng phải trân trọng bà một chút. Một đời nuôi con gian khổ, nay con tử trận, đem xe Jeep đến đón bà an táng cho con là một “đăi ngộ” quá ít ỏi đối với công ơn của người mẹ. C̣n như “trợ cấp tổ phụ” có Pḥng Xă Hội lo, không phải việc của tôi.
Khi tôi tới nhà “bà mẹ Tầu” mọi người tụ họp đă đông. Tôi vào nhà, chào bà và mọi người xong th́ mời họ lên xe. Các bà cùng xóm đă lo xong một mâm lễ gồm hoa trái, nhang đèn… Tài xế Chính vội bưng lên để trên xe Dodge, và mời mọi người lên xe Dodge cùng với khóm trưởng.
Thấy “bà mẹ Tầu” loay hoay tính lên xe Dodge, tôi nói với bà ấy: “Tôi đưa bà đi”, rồi chỉ tay về phía chiếc xe Jeep. Bà hơi ngạc nhiên, rồi vội vă đi tới phía xe. Tôi lại nghĩ thầm: “Một lần rồi thôi”. Sau nầy, chẳng c̣n ai đưa đón bà như thế nầy đâu. Cuộc đời nầy bạc bẽo thật, trong cả t́nh người, không chỉ trong việc trai gái yêu nhau bỏ nhau mà thôi.
Hôm ấy, tôi để ư thấy có một cô gái c̣n trẻ, người hôm qua tôi không thấy. Cô đứng sát bên “bà mẹ Tầu”, mặt c̣n dấu đẫm nước mắt. H́nh như cô ta vừa hết khóc khi thấy chúng tôi tới nơi. Không ai giới thiệu với tôi cô ấy là ai. Chắc không phải là vợ v́ “hồ sơ quân bạ” của tử sĩ tôi xin ở “Pḥng Một” ghi anh ấy c̣n độc thân. Vậy th́ ai? Một người bà con, một người bạn học, một “cô láng giềng” hay một “em gái hậu phương”. Rồi loay hoay công việc, tôi bỏ qua cái thắc mắc ấy. Khi lên xe, tôi thấy cô theo sát “bà mẹ Tầu”, tôi bèn mời cô lên ngồi ghế sau cùng tài xế Chính. Bữa đó, tôi đích thân lái xe đưa “bà mẹ Tầu” lên nghĩa trang.
Trong nhà quàn, một dăy dài hơn mười cái quan tài phủ cờ nằm song song với nhau, trong cái không khí ảm đảm của nơi làm đám ma. Có mấy người đang ngồi khóc quanh một cái quan tài ở phía xa. Nhờ buổi sáng tôi đă lên đây trước, tôi biết “chỗ” của người con trai “bà mẹ Tầu”. Tôi dừng lại trước quan tài anh ta. “Bà mẹ Tầu” hiểu là con bà trong nằm trong đó, bà khóc nức nở: “Con ôi! Con bỏ má mà đi…” Cô gái cũng ngồi sụp xuống bên cạnh “bà mẹ Tầu” khóc theo.
Tôi đưa hàm răng trên cắn nhẹ vào môi dưới để nước mắt tôi khỏi chảy xuống theo tiếng khóc của hai người đàn bà. Thấy ông trung sĩ khóm trưởng cùng vài ông già lo đặt lễ và bịt khăn cho “bà mẹ Tầu”, tôi lặng lẽ đi ra sân. Vốn dĩ biết ḿnh dễ xúc động, tôi tránh cái khung cảnh đau đớn nầy.
Sau khi mọi lễ lược xong, đạo t́ đưa quan tài ra huyệt. “Bà mẹ Tầu” vẫn khóc nức nở, nhưng may mắn, bà không bị ngất xỉu như ngày hôm qua. Cô gái ấy đi theo, tay nắm vào cánh tay “bà mẹ Tầu”, đỡ bà đi theo quan tài.
Cô ấy khóc và mọi người cùng khóc.
Tôi đi sau cùng, bâng khuâng nghĩ tới mấy câu thơ của Huy Cận: “Kẻo thân đau chưa quen nệm giường đời. Ai đi đưa xin đưa đến tận nơi. Chớ quay lại nửa đường mà làm tủi. Người đă chết một vài ba đầu cúi.”
Không phải “một vài ba đầu cúi”. Ai cũng cúi đầu và ngậm ngùi, kẻ khóc nho nhỏ, người khóc to.

Ba ngày sau, là ngày “ba mươi tết”, cũng là ngày cúng “mở cửa mả” cho người chết, theo phong tục người Việt Nam.
Hôm qua, tôi báo cáo với trung tá Mậu: “Tôi đem xe đưa bà lên nghĩa trang một lần nữa, kẻo tội nghiệp “bà mẹ Tầu”; con chết rồi, một thân một ḿnh, không ai giúp đỡ.”
Khoảng mười giờ sáng, tôi đưa “bà mẹ Tầu” tới nghĩa trang. Cô gái hôm trước, hôm nay cũng đi theo. Cô gọi “bà mẹ Tầu” bằng “má”, khiến tôi hơi ngạc nhiên.
Sau khi cúng xong, cô gái mời mấy người lính ở nghĩa trang “dùng cơm”, tức là dùng các “đồ cúng” họ mang lên hôm đó. Trong khi mấy anh lính “ăn nhậu” vui vẻ, “bà mẹ Tầu” ngồi nh́n họ có vẻ tŕu mến. V́ thương con nên bà thương những người lính trẻ nầy bằng tuổi con bà, tôi nghĩ vậy. Tôi không ngồi chung với mấy người ấy; vẫn với thói quen, tôi ngồi ngoài sân. Trung úy trung đội trưởng “Trung Đội Chung Sự” ngồi bên cạnh tôi nói chuyện bâng quơ. Thấy cô gái đi ngang, tôi gọi lại, dặn vài điều. Tôi nói:
- “Bữa nay tết rồi, các nơi đều nghỉ hết. Cỡ sau tết ít hôm, đơn vị của anh Nghĩa – tên của tử sĩ – họ sẽ gởi giấy tờ về để lập hồ sơ “trợ cấp tổ phụ” cho bà cụ. Cô có rảnh, giúp bà cụ điền các thứ giấy tờ được không?”
- “Được chớ.” Cô ấy trả lời.
Tôi nói tiếp:
- “Giấy tờ đôi khi có chỗ khó hiểu. Cô có thể vô đơn vị tôi, hỏi cô đại úy Trang, hay cô Thanh Nhàn, các cô giúp đỡ cho.”
- “Được. Tôi biết chỗ thiếu úy làm việc.”
- “Cám ơn”. Rồi tôi nói tiếp. “Đúng ra th́ cô có “trợ cấp quả phụ”, nhưng bởi anh ấy khai c̣n độc thân nên chỉ có “trợ cấp tổ phụ” thôi.
Câu trả lời làm tôi chưng hửng:
- “Tôi có phải là vợ anh ấy đâu!”
Tôi vội nói:
- “Xin lỗi. Thấy cô gọi bà ấy bằng “má” nên tôi hiểu lầm.
- “Không có ǵ đâu. Từ nhỏ, tôi coi bà như má tôi.”
-“ Vậy cô là hàng xóm anh ấy hay, xin lỗi, hơi ṭ ṃ một chút, “hai người có yêu nhau?” Tôi nói.
- “Cḥm xóm th́ có, nhưng người yêu th́ không, bởi v́ anh ấy đâu có yêu tôi hay yêu ai!” Cô gái trả lời.
- “Yêu ai cũng không, yêu cô cũng không. Vậy chắc cô là “em gái hậu phương” của anh ấy.” Tôi lại ṭ ṃ.
- “Cái đó cũng không luôn.” Cô gái trả lời, hơi mĩm cười.
- “Anh ấy không yêu cô nên cô không làm vợ anh ấy?” Tôi lại hỏi.
- “Cũng không thiếu úy à. Lấy chồng nghèo cực lắm. Nhà anh ấy chỉ một mẹ một con, làm sao mà giàu?” Cô gái trả lời, vẻ ngậm ngùi.
- “Lại ṭ ṃ một chút nghe! Chắc cô lấy chồng giàu?” Tôi hỏi.
- “Thiếu úy biết tôi sợ nghèo! Chồng tôi là một “chú ba Tầu giàu” trong Chợ Lớn.” Một lúc sau, cô ta lại nói: “Nói cho đúng, anh Nghĩa mới là người tôi yêu!” Cô ta nói, mắt nh́n ra xa ngoài đường lộ, hơi có vẻ đăm chiêu.
- “Cô có vẻ rắc rối đó. Tôi xin lỗi.” Trung úy trung đội trưởng ngồi bên tôi, góp ư vô.
- “Có ǵ đâu! Chồng tôi là “lính kiểng”. Anh có cái giấy phép 15 ngày đổi một lần. Một hôm, đang đi với tôi, gặp Quân Cảnh hỏi giấy, mặt anh tái mét, sợ líu lưỡi, nói không ra hơi. Anh Nghĩa th́ khác, mặc đồ lính vô, tướng anh ấy ngon lành ghê! Các anh nghĩ, con gái như bọn chúng tôi, “thần tượng” ai chớ. Đời không như ḿnh nghĩ.”
Khi ấy có tiếng gọi của “bà mẹ Tầu”, cô ta “dạ” rồi quay quả đi vô phía trong.
Một lúc sau, cô gái đi ra, nói với tôi:
- “Mẹ anh Nghĩa xin gặp “ông tổng thống.”
Chết cha! Tôi nhớ câu trung tá Mậu dặn ḍ hôm bắt đầu giao việc cho tôi. “Thân nhân người ta thưa lên tới tổng thống.” Tôi có làm ǵ sai để “bà mẹ Tầu” đ̣i thưa lên tới tổng thống đây. Tôi vội hỏi lại:
- “Có chi quan trọng không?”
Cô gái cười:
- “H́nh như bữa hổm bà chưởi tổng thống. Bà hối hận. Chắc bà muốn xin lỗi.”
Tôi hoàn hồn. May! Tôi không có lỗi chi. Tôi nói:
- “Cô nói giúp với bà. Ông tổng thống không chấp nhất ǵ đâu. Ông cũng thương lính, thương các bà mẹ lính vậy mà.”
Bỗng “bà mẹ Tầu” từ phía trong đi ra, tới chỗ tôi, bà ngồi thụp xuống, chấp tay lạy tôi, khóc, nói: “Tui có tội, tui có tội.”
Tôi vội vàng đứng dậy, cùng cô gái nâng bà đứng lên. Tôi nói với cô gái:
- “Cô nói giúp với bà ấy đi. Không có ǵ đâu. Tổng thống là người cao thượng mà, ông có trách chi.”
Cô gái nói lại với bà ta. Có vẻ như bà yên tâm hơn.
Tôi nói với trung úy trung đội trưởng và cô gái: “Bữa đó tui nghe, chớ tổng thống đâu có ở đó mà nghe. Ông không biết đâu!”
Bà di vô phía trong, chắc để chuẩn bị về.
Đang ngồi chờ, ông trung úy trung đội trưởng nh́n tôi, nói, giọng không vui: “Thiếu úy nhớ câu cô ta nói không. “Đời không như ḿnh nghĩ.” Cô ta yêu một người hùng, nhưng lại sợ cho người đi giữa súng đạn, đành phải lấy một “thùng nước lèo”. Tội nghiệp cô ta nhỉ!

hoànglonghải

 

 

 


VĂN CHƯƠNG

2024
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013 
2012

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả


Tháng ngày tao loạn
Sài G̣n ơi!
Đoạn kết câu chuyện t́nh buồn
Đôi giầy trậ
Thư kư của thiên thần
Với tàu định mệnh Lam Giang HQ 402
Bà Mẹ thượng đẳng
Do Thái và Bài học sinh tồn
Một bà mẹ vất vả
Áo bà ba tím
Anh hùng Richard Norden
Văn hoá không tên
Họ đến và chết v́ tự do
Thiên đường đă xa
Yếm thắm hương xưa
Ông Sư nhà quê
C̣ng lưng vẫn gánh
Cuộc đời và sự nghiệp của danh ca Hà Thanh
How the 1972 North VN Easter offensive...
Xác chết trên băi biển  
Những món nợ khó trả  
Nếu có thể đi về quá khứ...  
Người đưa tin... độc địa  
Chị Agnès 
Một thời chinh chiến điêu linh
Người Saig̣n ….xưa!!!
Trí thức sến
Đuổi gà cho vợ
Hậu Duệ VNCH rạng danh Tiểu Bang Texas
Máu đào
Bản tình ca của người Tỵ Nạn
Miếng ăn
Cờ Việt Nam Cộng Ḥa ngay giữa thủ đô Melbourne
Đại uư Andrew Dang (gốc Việt), Phi công B-2
Chiến tranh Israel-Iran
H́nh ảnh Lễ Kỹ Niệm Ngày Quân Lực 19/6 tại Úc
Kỷ niệm ngày 19 tháng Sáu tại Cali
Mắt lệ cho người
BS trong tù
Những ánh mắt trẻ thơ
Gặp lại cố nhân!
Lệnh gọi “học tập cải tạo”, một vết chém cay nghiệt!
Những năm nào chiến tranh đă quên
Sau 30 tháng 4. những nhớ và quên
Từ một tấm h́nh
Những người chiến sĩ vô danh
Phố núi
Nhiều khi
Viết trong ngày Memorial Day 2025
Đệ Thất Hạm Đội - Cứu giúp thuyền nhân
Sự đời
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong nhớ bạn
Chuyện t́nh thời chiến
50 năm – c̣n đó nỗi buồn
30 tháng 4. Một vài hồi tưởng...
Tiếng khóc của một dân tộc
Bài thơ của một người học tṛ cũ
Vào viện dưỡng lăo
Thu - Hát cho người
Mảnh vụn  
Ơn em  
Người vợ lính  
Melbourne - Tưởng niệm 50 năm Ngày Quốc Hận 
Ngày người tù binh trở về!  
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam  
Vào ngày này năm 1975, Chiến dịch Gió lốc  
Ngày cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu  
Cong lưng vẫn gánh  
Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975
Tháng Tư - Nh́n lại tháng Ba găy súng
Băng đạn cuối cùng
Cuộc di tản tệ hại ở toà Đại Sứ Mỹ
Tưởng nhớ anh Năm Nguyễn Đ́nh Bảo
Cờ Vàng: Biểu tượng của Việt Nam Cộng Ḥa
Vĩnh biệt anh chị Trần Hoài Thư
T́m được hài cốt Th/T Trương Phùng...
Các anh hùng LCĐB tử thủ An Lộc
Đêm đ́nh chiến  
Ai xứng đáng được phủ Quốc Kỳ VNCH  
Những tên vc nằm vùng

Giải oan cho Tổng Thống Thiệu
Trại tị nạn Camp Pendleton năm 1975
33 năm t́m được xác chồng

Kẻ bại trận nợ người tử trận!
Sao Mai 09
Tuấn Ngọc - Gửi gió cho mây ngàn bay
Chữ "Tín"

Nghĩa trang tử sĩ Biên Ḥa  
Tonle Tchombe (Tống Lê Chân)  
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến  
Không bỏ Anh Em, không bỏ Bạn Bè  
T́nh người trong cuộc chiến
Trận chiến Đại Phú  
Tâm thức người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc giới  
Tâm tưu của một thằng lính ngụy  
Tao là Ngụy!  
Những kẻ mở miệng là phát ra tiếng "Ba Que"

Ba mươi tháng tư năm xưa, bác ở đâu?
LHQ chất vấn Việt Nam về TPB VNCH
Chết để làm ǵ
Đưa anh về nhà
Chiều
Thằng "Cầu" đỏ

Kỷ niệm 50 năm người Việt định cư tại Úc
Chương tŕnh kỷ niệm 50 Năm, người Việt Tỵ Nạn CS
Chuyện về một lá thư
Đất nước lạ lùng
Chuyến đi Hawaii & giây phút thần tiên khó quên
Người Lính Già Oregon Đă “Giă Từ Vũ Khí”
Bên bờ sinh tử
Đời ơi tôi khóc !
May mà ta c̣n có em...
Nhà báo lăo thành Mạc Kinh
Tô Lâm thừa nhận Sài G̣n trước 75 phồn vinh  
Khi rừng chưa thay lá  
Bạn xưa 50 năm cũ  
Cuộc hành tŕnh  
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn…
 
Trận tổng tấn công của VC và phản công của TQLC trong Tết Mậu Thân  
Kỷ niệm Cổ Thành Đinh Công Tráng  
Tái chiếm Quảng Trị, trận chiến dài nhất  
QLVNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị  
Sài G̣n, quán cafe & tuổi lang thang
Khoác áo chiến y
Một nét văn hoá Sài G̣n xưa
Sài G̣n ơi, Em c̣n đó hay không?
Ḍng sông đứng lại
Con người thực Anthony Fauci

Trong lửa đỏ, giữa sự chết, trên Quê Hương!
Tết năm này nhớ tết năm xưa
Phi vụ cuối cùng
55 năm Tết Mậu thân 1968
Huế 1968 - thảm khốc và hy vọng

Người Việt Nam đầu tiên nhảy dù là ai?
H́nh ảnh Lễ Thượng Kỳ mồng một Tết Ất Tỵ tại Úc
Đêm giao thừa buồn
3 mẫu chuyện ngắn
Đi t́m hơi ấm Đồng Hương
Ngựa đá qua sông
50 năm nh́n lại người Việt tại Hoa Kỳ
Con dao con chó
Người Nam Kỳ
Tâm sự của một cựu sinh viên Luật Khoa Sài G̣n
Sự chiến đấu kiêu hùng của QLVNCH
Người ở lại Định Quán
Xứ cao bồi những ngày trước lễ Giáng Sinh
Phiên phiến tuổi già
Một chuyện rất Việt Nam
Đỉnh ngu trí tuệ
Tạp ghi CẢM ƠN NGƯỜI VIẾT SỬ “Phía Bên Kia”
Bạn thân từ thiếu thời
Chân dung ngày xưa Hoàng Thị
Xóm cũ nội thành
Tôi tay đôi với tụi nó đây!
Tấm thẻ bài
Rạn rụa lệ mềm
Các con phải sống
Hồi Kư của người về Từ Hoa Lục Đỏ 1974