Chuyện t́nh khó
quên
May mắn &
Hên xui trong đời lính chiến
Ba, bốn phát
Tập Truyện Thuyền Đời
13 người cuối cùng về
từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Vĩnh Quyền
Đang đọc lại “Mảnh vỡ của mảnh vỡ”,
cho lần tái bản tới. Tiểu thuyết này viết từ điểm nh́n “thế hệ mất
mát” (chữ nhà văn Hemingway). Họ, thanh niên trí thức đô thị miền
Nam, sống sót qua cuộc chiến, rồi nhặt nhạnh “mảnh vỡ” thanh xuân,
chập chững trên những nẻo đường gập ghềnh, phác thảo chân dung bản
thân trong vận nước thời b́nh. Khi đọc, tôi thấy ḿnh đă dừng lâu
bất thường ở những “nhân vật thoáng qua” của tiểu thuyết, những con
người âm thầm luân lạc bên lề lịch sử. Và, tôi muốn chia sẻ những
“mảnh vụn” ấy.
*
Đường phố một sớm mai
“Chiếc jeep quân đội Mỹ với h́nh sao trắng trên mui chạy chầm chậm
qua những đường phố chính trong nắng mai nhạt chưa đủ sưởi ấm khí
lạnh đêm qua c̣n vướng vất trên mặt đất. Kính xe c̣n nguyên vết đạn
lỗ chỗ như bản vẽ cḥm sao mới phát hiện nhưng người ngược xuôi trên
đường không bận tâm câu hỏi ngày thường là liệu có ai bị thương bị
chết v́ loạt đạn đó không. Chết không c̣n là chuyện ghê gớm. Trên
gương mặt người đầy chật cảm xúc. Với người này là giấc mơ hào hùng
bừng hiện, với người kia là thảm họa đổ ập xuống đầu, đè lên ngực
chỉ sau một đêm. Hai nhóm này phân lập hai cực của số phận, trong
khi hàng chục triệu người khác lừng khừng đâu đó ở giữa, không chắc
chắn chi ngày mai. (tr. 9)
*
Đêm trước ḥa b́nh
“Cuối tháng ba năm bảy lăm, bệnh viện quân y của tôi phục vụ quá tải.
Suốt ngày đêm chúng tôi tiếp nhận thương binh chuyển về từ các mặt
trận vùng ven. Gần một phần ba đă chết trên đường di chuyển. Nhà xác
bệnh viện không đủ cho tất cả, “ai” đến sau phải xếp trên hành lang.
Chẳng mấy chốc mọi người không c̣n thấy buồn nôn hay khó thở bởi máu
rỉ từ xác chết, đọng thành vũng tanh tưởi.
Ngày trước ngày thành phố thất thủ, giám đốc bệnh viện ra thông báo
kêu gọi thân nhân tử sĩ đến nhận xác đưa về chôn cất, việc chưa từng
có. Ông biết xe tăng Bắc Việt có thể xuất hiện bất cứ lúc nào ở cửa
ngơ thành phố, không c̣n thời gian cho thủ tục hành chính hay nghi
thức truyền thống.
Những người vợ, những bà mẹ lính nghe được thông báo trên sóng phát
thanh, truyền h́nh hoặc tin đồn liền đổ đến. Người t́m thấy xác
chồng xác con, khóc than kư nhận đưa về. Người không t́m thấy xác,
khóc trong hy vọng mong manh. Lính bị thương nh́n cảnh tượng chung
quanh, khóc theo. Hỗn loạn và tang tóc. Mải đến chín giờ tối, bệnh
viện mới trở lại yên ắng.
Đêm đó tôi trực nhà xác, từ mười giờ đến hai giờ sáng. Rốc-két rít
ngang đầu. Tiếng nổ gịn dễ nhận của tiểu liên AK-47 cũng đă văng
vẳng. Vậy mà tôi không mở mắt nổi, cứ chực ngủ gật. Gần một tuần
liên tục phẫu thuật tôi hoàn toàn kiệt sức, không nhớ ḿnh đă ăn lúc
nào, ngủ lúc nào.
Thế rồi tôi bị kéo khỏi cơn ngủ gật bởi một tiếng thở dài. H́nh như
nó phát ra từ góc xa của nhà xác. Tôi cố mở to hai mắt nặng như ch́
nh́n về hướng đó, nhưng chỉ thấy những xác chết chưa được thân nhân
nhận về nằm dưới khăn liệm ố vàng. Đến lượt tôi thở dài, như vừa
nuốt trôi cục nghẹn trong cổ.
Sau đó cơn buồn ngủ mất hẳn, tôi nhặt tờ báo ai bỏ lại trên bàn trực,
đọc vu vơ tin này tin khác chỉ để giết thời gian. Tin chiến sự vừa
lên báo đă lạc hậu so với diễn biến thực tế. Nhưng tôi vẫn đọc, kiên
nhẫn chờ ngày mới đang đến gần. Đêm thật dài nếu phải ngồi canh
những xác chết c̣n rỉ máu. Tôi tự hỏi tại sao ḿnh chờ ngày mai khi
mọi chuyện đă quá rơ. Có lẽ tôi tin điều tệ hại nhất chưa xảy ra.
Tiếng thở dài lại vẳng vào tai tôi, lần này rơ hơn, và không thể là
nghe nhầm. Tôi rời mắt khỏi tờ báo, nh́n về góc xa của nhà xác, nơi
phát ra âm thanh.
Một xác chết đội khăn liệm đang từ từ ngồi dậy.
Tôi dụi mắt, hy vọng thứ quỷ quái đó chỉ là ảo ảnh, là hậu quả của những đêm thức trắng bên bàn mổ. Nhưng không có ǵ phủ nhận được sự thực là trước mắt tôi xác chết đă đứng lên. Vẫn trùm khăn liệm, hắn cất những bước chậm, nặng nhọc và liêu xiêu đi về phía tôi.
Tôi đứng lên, bước lùi ra phía cửa,
tay đặt lên súng ngắn đeo bên hông. Lúc ấy tôi nhận ra ḿnh không
c̣n đủ khí lực để rút súng khỏi bao. Hai chân tôi bắt đầu run, hầu
như không đỡ nổi sức nặng của tôi nữa. Nỗi khiếp sợ đă hoàn toàn
đánh sập ư chí của tôi.
“Quỷ nhập tràng! Quỷ nhập tràng!”
Tôi bất ngờ bật lên được tiếng kêu báo động. Sự kết nối thành công
với thế giới người sống giúp tôi hồi phục phần nào sinh lực. Tôi
quay người lao ra cửa, chạy vào sân lớn của bệnh viện. Hắn lập tức
đuổi theo, cho đến khi tôi trượt té nằm chỏng gọng trên sân th́ hắn
dừng lại.
“Cứu! Cứu tôi với!”
Tiếng kêu đánh thức cả bệnh viện. Đèn ngoài sân, trong pḥng liên tiếp bật sáng và có vài người chạy về phía tôi.
“Ôi trời đất! Quỷ nhập tràng!”
Ai đó kêu lên khi trông thấy hắn khiến những người khác dừng lại. Thay v́ đến cứu tôi, cả bọn vội tháo lui.
“Quỷ nhập tràng!”
“Quỷ nhập tràng tấn công!”
Tất tật, từ bác sĩ đến thương binh, người trông thấy quỷ cũng như người chẳng thấy ǵ chạy tán loạn, thậm chí người bị cưa chân cũng lết t́m chỗ trốn.
Tiếng người la hét cuống cuồng, tiếng
sập cửa pḥng rầm rầm bỗng như một đ̣n giáng mạnh vào đầu tôi, kéo
tôi khỏi trạng thái khiếp nhược. Cuối cùng tôi cũng rút được súng
khỏi bao, lần đầu tiên trong đời, giương thẳng vào đầu con quỷ cách
tôi vài bước chân. Trước khoảnh khắc tôi quyết định bóp c̣, một cơn
gió mồ côi cuốn tấm khăn liệm bốc lên, phơi lộ một thiếu phụ trẻ
đứng ngơ ngác trên mặt đất với mái tóc rối bù. Tôi nhận ra đó là vợ
của một người lính tử trận.
Về sau, tôi có thêm thông tin về người đàn bà bất hạnh. Trước khi có
thông báo của bệnh viện, nhà chị đă thành tro trong một trận pháo
kích. Điều duy nhất chị có thể làm là trốn dưới khăn liệm để được ôm
ấp chồng đêm cuối trên dương thế…” (tr. 216-219)
Cam và Quưt, của mẹ cả
“Làng quê tôi nằm trong vùng chuyên canh cam và quưt. Dân làng có
cái ăn cái mặc, con cái được học hành đều trông vào hai loại cây này.
Từ chỗ dân làng biết ơn cây, bọn trẻ chúng tôi nhiều đứa trùng tên,
Cam-Cam, Quưt-Quưt. Nhà tôi hai con trai, tôi là Cam, em tôi là Quưt.
Từ năm sáu lăm máy bay Mỹ bắt đầu rải chất độc khai quang vùng quê
tôi, những vườn cây mất mùa liên tiếp, cả làng lâm cảnh nghèo đói.
Hơn nửa trẻ con phải nghỉ học. Phần tôi gặp may. Chú ruột tôi, một
trung sĩ quân đội Sài G̣n, đưa tôi vào Huế nuôi ăn học.
Hai năm sau, chú chết trận Mậu Thân. Lúc đó làng tôi đă thuộc quyền
kiểm soát của "Mặt trận", c̣n tôi học năm cuối trung học. Tôi không
muốn quay về nhà trước khi thi tú tài, nhưng ở lại Huế th́ biết
nương tựa vào ai.
Trong rủi có may, một sĩ quan chỉ huy của chú tôi trước đó giúp tôi
bằng cách thuê làm gia sư. Nhờ vậy, tôi có thể tiếp tục việc học và
thi đỗ. Gần như ngay sau đó tôi bị động viên, đeo lon chuẩn úy, rồi
được điều đến một tiểu đoàn đóng ở nam Quảng Trị.
Thời gian đó quân đội Sài G̣n đă chiếm lại khu vực có làng tôi,
nhưng chỉ kiểm soát được vào ban ngày. Dầu sao, tôi đă có thể về nhà
vào ngày giỗ cha. Những lần như thế, tôi thường đưa vài chiến hữu
cùng về, trên một chiếc jeep súng ống sẵn sàng.
Lần nào cũng vậy, mẹ tôi chia con gà cúng làm đôi, một nửa dọn riêng
cho bàn bọn tôi. Gà cúng là con được chọn kỹ, thơm ngon nhất trong
số gà phục vụ đám giỗ. V́ vậy, có lần mấy người bạn sau khi nếm thử
gà "loại hai" nói muốn ăn nốt nửa con gà cúng mẹ tôi để dành trên
bàn thờ. Tôi nh́n đồng hồ nói muộn rồi, bọn ḿnh phải về đơn vị
trước khi Việt Cộng xuất hiện, tới chợ Đông Hà muốn nhậu gà ngon mấy
con tôi cũng ô-kê.
Thật ra tôi không thể nói toạc rằng nửa con gà cúng kia là phần của
em tôi, thằng Quưt, chỉ huy du kích xă, và tôi luôn tôn trọng luật
không thành văn của mẹ. Đó là một bí mật, nó có thể hủy hoại tương
lai tôi. Trong hồ sơ cá nhân, tôi khai Quưt chết hồi mười ba tuổi
bởi bệnh đậu mùa.
Mẹ tôi ngày nào cũng thắp hương bàn thờ cha tôi, lâm râm khấn cầu
ông phù hộ cho thằng Cam được b́nh an vô sự, xong, cầu ông phù hộ
cho thằng Quưt cũng b́nh an vô sự. Một lần tôi đùa "mẹ ơi, đừng đặt
cha tụi con vô thế khó xử".
Rồi một năm tôi về làng giỗ cha, vẫn với chiến hữu tháp tùng yểm trợ.
Mẹ tôi dọn cho bọn tôi nguyên con gà cúng. Tôi bật khóc, biết em
ḿnh bị giết. Nhưng tôi phải lu loa trước mọi người là tự nhiên nhớ
ông già. Sau đó tôi gặp riêng mẹ.
“Lúc nào?”
“Đêm qua.”
“Xác đâu?”
Mẹ tôi đưa mắt nh́n ra cửa sổ. Tôi nh́n theo. Vườn nhà tôi vẫn c̣n
là băi tha ma của loài cây cam-quưt chết trắng, nhưng lúc đó tôi bất
ngờ bắt gặp một cây quưt non chưa kịp bén đất mới, cành lá rũ mềm.
Mẹ tôi th́ thầm: “Mẹ lén chôn em con
trong vườn, không dám đắp mộ. Nó là thằng Quưt, th́ trồng cây quưt
lên chỗ nó nằm làm dấu.”
Sau cái chép miệng, mẹ tôi tiếp: “Đang lo không biết sau chừng đó
năm thuốc khai quang có c̣n làm chết cây không nữa…”
Rồi mẹ tôi im lặng, mắt không rời cây quưt.
Tôi đau đớn nh́n vai mẹ rung nhẹ. Đó là lần đầu tiên tôi hiểu thế nào là khóc trong ḷng.
Mẹ tôi không bao giờ biết Quưt rồi sẽ
được truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang và hài cốt của
nó được quy tập vào nghĩa trang liệt sĩ của xă sau năm bảy lăm, bà
đă mất trước đó.
Khi bốc hài cốt em tôi ở vườn nhà, dân quân xă đào bật gốc quưt. Sau
năm năm ở trại học tập dành cho sĩ quan chế độ cũ, tôi về thấy gốc
quưt dẫu nằm nghiêng sát mặt đất vẫn sống như một phép mầu. Nghĩ đó
là một phần máu thịt của đứa em, tôi đưa về đây, tạo dáng bon-sai để
được gần gũi, chăm sóc. Hai mươi năm rồi đó…” (tr. 210-215)
*
Giọng Bắc giọng Nam
“Ḿnh trở về Quảng Trị giữa mùa khô. Nó làm ḿnh nhớ mùa khô năm bảy
hai, thời điểm quân đội Sài G̣n bị đánh bật khỏi thành cổ Quảng Trị.
Hôm ngồi trên xe đoàn MIA chạy qua cầu Mỹ Chánh đi Khe Sanh, ḿnh
bồi hồi nghĩ về ba, một thượng sĩ già liều mạng dưới hai làn đạn
chạy về nhà gần cầu, đưa vợ con tản cư vào Huế, nơi ḿnh đang theo
học đại học, rồi quày quả trở lại cùng đơn vị. Thật khó tả tâm trạng
khi đi trên cây cầu tuổi thơ mà nhiều năm rồi ḿnh không dám tin sẽ
có ngày trở lại.
Khi c̣n sống ba ḿnh thường bảo đă làm người th́ phải cố quên đi một
vài góc tối trong kư ức để tiếp tục sống. Ḿnh đă làm như vậy, nhưng
rồi nghiệm ra con người không thể kiểm soát được kư ức, c̣n quá khứ
th́ không hoàn toàn mất đi mà có thể hồi sinh vào lúc bất ngờ nhất.
Kư ức chiến tranh cũng vậy. Những người sống sót qua cuộc chiến
thường trào nước mắt mỗi khi nhớ nghĩ về quá khứ. Lần đầu nh́n thấy
cầu Mỹ Chánh sau chừng ấy năm và sau bao vần xoay con tạo nước mắt
ḿnh đă chảy.
Đó là nước mắt thật sự. Nói vậy v́ ḿnh đă hỏng mắt trái trong một
tai nạn giao thông bên Mỹ, từ đó, mỗi sáng tối nước mắt ḿnh lại
chảy khi mang vào tháo ra con mắt giả. Nhưng ḿnh không gọi đó là
nước mắt, bởi nó không chảy ra từ hạnh phúc hay khổ đau. C̣n lúc gặp
lại cây cầu gần mái nhà xưa, dù nay không c̣n dấu vết, th́ nước mắt
ḿnh là một hỗn hợp cảm xúc của niềm vui lẫn cay đắng. Như mạch mồi
mùa khô hạn, nước mắt ḿnh ráo nhanh đến mức khó tin là nó đă chảy
ra.
Hôm sau, khi kết thúc phiên trực, ḿnh đi bộ từ điểm khai quật t́m
hài cốt ra Đường Chín, nơi có thể đón xe xuống Đông Hà uống bia lạnh
và vui vẻ với mấy em. Trước chuyến đi ḿnh không thể h́nh dung có
gái mại dâm hoạt động gần như công khai trong một thị xă bé nhỏ tại
một đất nước xă hội chủ nghĩa như nước ḿnh.
Đứng chờ đến lúc mặt trời sắp lặn vẫn không đón được xe, ḿnh đành
bước vào cái quán lụp xụp bên kia đường.
Khi vào, ḿnh thấy ba người đàn bà
đang ngồi dưới mái hiên. Ḿnh đoán người lớn tuổi nhất, khoảng năm
mươi, là chủ quán v́ chị này đặc sệt giọng Quảng Trị ḿnh. Hai người
c̣n lại, chừng ngoài ba mươi, trông c̣n duyên lắm, và ra vẻ thị dân.
Ḿnh đoán hẳn họ là khách qua đường. Rồi nghe họ nói, ḿnh biết một
người từ ngoài Bắc vào, c̣n người kia trong Nam ra. Nhưng ḿnh không
thể nghĩ được điều ǵ đă đưa họ đến nơi heo hút này, ngồi nói cười
bên nhau.
Trong khi đó ba người đàn bà không giấu được ngạc nhiên khi ḿnh
xuất hiện, như thể cái quán không dành cho loại khách như ḿnh. Tuy
nhiên, ḿnh đă được phục vụ theo một cách không nhà hàng nào trên
thế giới có được: cả ba chị đàn bà xúm lại, người quạt ḷ, người
nướng khô mực, người lấy bia bỏ đá lạnh cho khách.
Xong việc, họ lại ngồi bên nhau trên chỏng tre phía trong, nhường
cái bàn duy nhất dưới mái hiên cho ḿnh. Quay lưng về họ, ḿnh ngắm
phong cảnh bên ngoài và thưởng thức bia. Dẫu không cố t́nh dơi theo,
chuyện của họ cứ lọt vào tai, nhập vào ḿnh, và ḿnh dần dần biết
được đôi phần về họ.
Mười năm trước, hai người đàn bà mà ḿnh đoán là khách văng lai, một
từ thị xă Thái B́nh một từ thành phố Cần Thơ, t́nh cờ gặp nhau ở Ga
Quảng Trị. Cả hai đều trên đường t́m kiếm hài cốt thất lạc của chồng,
hai người lính tử trận tại chiến trường Quảng Trị năm bảy hai. Một
người là bộ đội miền Bắc và một người là lính miền Nam, cả hai nằm
lại đâu đó trên Đường Chín. Sau những lần t́nh cờ gặp nhau, hai góa
phụ thành hai người bạn, họ có chung nỗi đau quá khứ cũng như chung
mục đích khi đến chiến trường xưa Quảng Trị. Họ rủ nhau trọ ở quán
này vào mỗi mùa khô, mùa họ dành cho việc t́m hài cốt chồng.
Ḿnh bỗng giật ḿnh bởi t́nh huống mới trong câu chuyện.
Người đàn bà giọng Bắc buồn bă nói từ năm sau cô không thể tiếp tục
vào Quảng Trị. Kinh tế gia đ́nh mỗi năm mỗi sa sút, cô phải chắt
chiu từng đồng cho con vào đại học. Hơn nữa, sau chừng ấy năm t́m
kiếm cô gần như mất hết hy vọng. Chính quyền địa phương đă giúp đỡ
nhưng không kết quả.
T́nh cảnh người đàn bà giọng Nam phức tạp hơn. Trên đất nước này
chẳng có tổ chức nào lưu giữ thông tin tử sĩ của quân đội Sài G̣n,
như trường hợp chồng cô. Và người chồng sắp cưới đang sống bên Mỹ
vừa hoàn tất thủ tục định cư cho cô, nên không biết khi nào cô mới
có thể quay về đây tiếp tục t́m kiếm hài cốt người xưa.
Người đàn bà giọng Nam đột ngột cắt đứt câu chuyện vào hồi bế tắc,
nói với người đàn bà giọng Bắc:
“Chị ơi, lấy chồng đi.”
“Ôi dào, quá lứa làm chuyện đó rồi.”
“Để xem... Ôi, săng dầy vầy thiếu ǵ đàn ông mê!”
“Nhột, bỏ tay ra nào!”
Người đàn bà giọng Bắc cười nắc nẻ.
Bà chủ quán cười theo nhưng nhắc:
“Hai đứa bây, có đàn ông đàn ang trước mặt tề, dị ̣m!”
Ba người đàn bà ôm nhau cười rúc rích sau lưng ḿnh. Tiếng cười phá vỡ tĩnh lặng hoàng hôn Đường Chín, nhưng nghe ra không hẳn là vui.
“Tao đi nấu cơm.”
Chủ quán bảo. Ḿnh nghe tiếng bước chân bà đi xuống bếp, chỉ lát sau đă tất tả quay lên.
“Coi nè, hai đứa bây!”
Ḿnh bất giác quay lại. Trên tay chủ quán là mẩu báo cũ dùng gói hàng, nhưng giọng bà phấn khích lạ:
“Đọc đi, có tin cho hai đứa bây đó!”
Người đàn bà giọng Bắc đón mẩu báo và đọc lên, những người c̣n lại lắng nghe, cả người ngoài cuộc là ḿnh.
Bản tin viết về một nhà ngoại cảm ở
Quảng Nam có khả năng t́m được hài cốt thất lạc dưới mặt đất, và đă
thành công với một số trường hợp liệt sĩ cũng như nạn nhân chiến
tranh.
Mọi người lặng đi chốc lát.
Ḿnh xúc động kỳ lạ bởi bản tin đang nhen lại hy vọng cho hai góa phụ. Trong khoảnh khắc ấy ḿnh hoàn toàn quên mất ḿnh là một kỹ thuật viên đoàn MIA đang t́m hài cốt lính Mỹ bằng thiết bị điện tử hiện đại. Chủ quán gợi ư:
“Hay hai đứa bây thử một phen cuối?”
Im lặng kéo dài trong quán nhỏ.
Ḿnh cũng nín thở chờ câu trả lời.
Rồi người đàn bà giọng Bắc lên tiếng trước, câu trả lời kèm nấc nghẹn gần như không nghe được, nhưng ai cũng hiểu.
“Dạ có…”
Người đàn bà giọng Nam tiếp lời:
“Em cũng vậy.”
Hai góa phụ ôm lấy nhau, nương vào nhau mà khóc.
Ḿnh không phân biệt được đâu là giọng Bắc, đâu là giọng Nam trong tiếng khóc của họ.
Bà chủ an ủi và giục:
“Hai đứa đừng khóc nữa, đi thắp hương rồi về ăn cơm.”
Hai người ngoan ngoăn nghe lời. Khi đi lướt qua chỗ ḿnh ngồi, họ để vương mùi thơm của hương trầm và của đàn bà.
Chủ quán chia sẻ với ḿnh:
“Chưa biết hài cốt chồng nằm đâu, hai đứa cứ thắp hương dọc Đường Chín, là nơi nghe tin chồng lần cuối. Tội nghiệp…”
Điều hiếm hoi xảy ra với ḿnh lúc đó.
Nước mắt ḿnh ứa lần thứ hai trong ngày. Và ḿnh có thể nói chắc,
rằng ḿnh chảy nước mắt không v́ khói hương…” (tr.226-232)
VĨNH QUYỀN
2024
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Tháng ngày tao loạn
Sài G̣n ơi!
Đoạn kết câu
chuyện t́nh buồn
Đôi giầy trậ
Thư kư của thiên
thần
Với tàu định
mệnh Lam Giang HQ 402
Bà Mẹ thượng đẳng
Do Thái và Bài học sinh tồn
Một bà mẹ vất vả
Áo bà ba tím
Anh hùng Richard Norden
Văn hoá không tên
Họ đến và chết v́ tự do
Thiên đường đă xa
Yếm thắm hương xưa
Ông Sư nhà quê
C̣ng lưng vẫn gánh
Cuộc đời và sự nghiệp của danh ca Hà Thanh
How the 1972 North VN Easter offensive...
Xác
chết trên băi biển
Những
món nợ khó trả
Nếu
có thể đi về quá khứ...
Người
đưa tin... độc địa
Chị Agnès
Một thời chinh chiến điêu linh
Người Saig̣n ….xưa!!!
Trí thức sến
Đuổi gà cho vợ
Hậu Duệ VNCH rạng danh Tiểu Bang Texas
Máu đào
Bản tình ca của
người Tỵ Nạn
Miếng ăn
Cờ Việt Nam Cộng Ḥa ngay giữa thủ đô
Melbourne
Đại uư Andrew Dang (gốc Việt), Phi công B-2
Chiến tranh Israel-Iran
H́nh ảnh Lễ Kỹ Niệm Ngày Quân Lực 19/6
tại Úc
Kỷ niệm ngày 19 tháng Sáu tại Cali
Mắt lệ cho
người
BS trong tù
Những ánh mắt trẻ thơ
Gặp lại cố nhân!
Lệnh gọi “học tập cải tạo”, một vết chém cay nghiệt!
Những năm nào chiến tranh đă quên
Sau 30 tháng 4. những nhớ và quên
Từ một tấm h́nh
Những người
chiến sĩ vô danh
Phố núi
Nhiều khi
Viết trong ngày Memorial Day 2025
Đệ Thất Hạm Đội - Cứu giúp thuyền nhân
Sự đời
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong nhớ bạn
Chuyện t́nh thời
chiến
50 năm – c̣n đó nỗi buồn
30 tháng 4. Một vài hồi tưởng...
Tiếng khóc của
một dân tộc
Bài thơ của
một người học tṛ cũ
Vào viện dưỡng lăo
Thu - Hát cho người
Mảnh vụn
Ơn em
Người vợ
lính
Melbourne - Tưởng niệm 50 năm Ngày Quốc Hận
Ngày người tù binh trở về!
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam
Vào ngày này năm 1975, Chiến dịch Gió lốc
Ngày cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Cong lưng vẫn gánh
Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975
Tháng
Tư - Nh́n lại tháng Ba găy súng
Băng đạn cuối cùng
Cuộc di tản tệ hại ở toà Đại Sứ Mỹ
Tưởng nhớ anh Năm
Nguyễn Đ́nh Bảo
Cờ Vàng: Biểu tượng của Việt Nam Cộng Ḥa
Vĩnh biệt anh chị Trần Hoài Thư
T́m được hài cốt Th/T Trương Phùng...
Các anh hùng LCĐB tử thủ An Lộc
Đêm đ́nh
chiến
Ai xứng đáng được phủ Quốc Kỳ VNCH
Những
tên vc nằm vùng
Giải oan cho Tổng Thống Thiệu
Trại tị nạn Camp Pendleton năm 1975
33 năm t́m được xác chồng
Kẻ bại trận
nợ người tử trận!
Sao Mai 09
Tuấn Ngọc -
Gửi gió cho mây ngàn bay
Chữ "Tín"
Nghĩa trang tử sĩ Biên Ḥa
Tonle Tchombe
(Tống Lê Chân)
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Không
bỏ Anh Em, không
bỏ Bạn Bè
T́nh
người
trong cuộc
chiến
Trận
chiến Đại Phú
Tâm thức người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc giới
Tâm tưu của một thằng lính ngụy
Tao là Ngụy!
Những kẻ mở
miệng là phát ra tiếng "Ba Que"
Ba mươi tháng tư năm
xưa, bác ở đâu?
LHQ chất vấn Việt Nam về TPB VNCH
Chết để làm ǵ
Đưa anh về nhà
Chiều
Thằng "Cầu" đỏ
Kỷ niệm 50 năm người Việt định cư tại Úc
Chương tŕnh kỷ niệm 50 Năm, người Việt Tỵ Nạn CS
Chuyện về một lá thư
Đất nước lạ lùng
Chuyến đi Hawaii & giây phút thần tiên khó quên
Người Lính Già Oregon Đă “Giă Từ Vũ Khí”
Bên bờ sinh tử
Đời ơi tôi khóc !
May mà ta c̣n có em...
Nhà báo lăo thành Mạc Kinh
Tô Lâm thừa nhận Sài G̣n trước 75 phồn vinh
Khi rừng chưa thay
lá
Bạn xưa 50 năm cũ
Cuộc hành tŕnh
Hăy thắp
cho anh một ngọn đèn…
Trận tổng tấn công của VC và phản công của TQLC trong Tết
Mậu Thân
Kỷ niệm Cổ Thành Đinh Công Tráng
Tái chiếm Quảng Trị, trận chiến dài nhất
QLVNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị
Sài G̣n, quán cafe & tuổi lang thang
Khoác áo chiến y
Một nét văn hoá Sài G̣n xưa
Sài G̣n ơi, Em c̣n đó hay không?
Ḍng sông đứng lại
Con người thực Anthony Fauci
Trong lửa đỏ, giữa sự chết, trên Quê Hương!
Tết năm này nhớ
tết năm xưa
Phi vụ cuối cùng
55 năm Tết Mậu thân 1968
Huế 1968 - thảm khốc và hy vọng
Người Việt Nam
đầu tiên nhảy dù là ai?
H́nh ảnh Lễ Thượng Kỳ mồng một Tết Ất Tỵ tại Úc
Đêm giao thừa buồn
3 mẫu chuyện ngắn
Đi t́m hơi ấm
Đồng Hương
Ngựa đá qua sông
50 năm nh́n lại người Việt tại Hoa Kỳ
Con dao con chó
Người Nam Kỳ
Tâm sự của một cựu sinh viên Luật Khoa Sài G̣n
Sự chiến đấu kiêu hùng của QLVNCH
Người ở lại Định Quán
Xứ cao bồi những ngày trước lễ Giáng Sinh
Phiên phiến tuổi già
Một chuyện rất Việt Nam
Đỉnh ngu trí tuệ
Tạp ghi CẢM ƠN NGƯỜI VIẾT SỬ “Phía Bên Kia”
Bạn thân từ thiếu
thời
Chân dung
ngày xưa Hoàng Thị
Xóm cũ nội thành
Tôi tay đôi với tụi nó đây!
Tấm thẻ bài
Rạn rụa lệ mềm
Các con phải sống
Hồi Kư của người về Từ Hoa Lục Đỏ 1974