Chuyện t́nh khó
quên
May mắn &
Hên xui trong đời lính chiến
Ba, bốn phát
Tập Truyện Thuyền Đời
13 người cuối cùng về
từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Vĩnh Chánh
Không một ai ở Miền Nam Việt Nam có thể quên được những cay đắng, uất hận nghẹn ngào, nhục lụy, chết chóc tang thương khi quân dân VNCH bị đồng minh bỏ rơi, đẩy vào cảnh sụp đổ.
Sau cuộc di tản chiến thuật Tây Nguyên trong tháng B, 1975, thảm hoạ lan rộng khắp Miền Trung thuộc các quân khu 1, 2 rồi đến quân khu 3. Trong cương vị nhỏ nhoi của một quân y sĩ Nhảy Dù theo sát bên cạnh đơn vị Dù tác chiến, cá nhân tôi đă sống trọn vẹn với đồng đội cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc chiến. Ngày 30 Tháng 4,1975.
Trong một ngày vào tháng Hai 1975 khi Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù (viết tắt TĐ1/ND) với Thiếu Tá Ngô Tùng Châu làm TĐ Trưởng đang dưỡng quân tại đèo Phước Tượng nằm trên Quốc Lộ 1 giữa Huế và Đà Nẳng, sau chiến trận ở Thường Đức/ Đại Lộc, Y Sĩ Thiếu Tá Nhẩy Dù Trinh đích thân đưa BS Bùi Cao Đẳng, người bạn thân đồng môn đồng khóa của tôi, đến Bộ Chỉ Huy tiểu đoàn thay tôi làm Y Sĩ Trưởng TĐ1/ND.
Ngay sau khi bàn giao, tôi được chở thẳng đến phi trường Đà Nẳng để trong cùng ngày, trước Tết 1975, vào Saigon lănh một nhiệm vụ mới, Y Sĩ trưởng Tiểu Đoàn 15 ND. Các Tiểu Đoàn tân lập 12, 14, 15 ND cùng với Đại Đội 4 ND Trinh Sát và Tiểu Đoàn 4 Pháo Binh ND là thành phần chủ lực cho Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Minh Ngọc, vừa được thành lập vào đầu năm 1975.
Trên chuyến bay về Saigon, ḷng tôi có nhiều xúc động mâu thuẫn. Dù tôi chỉ phục vụ TĐ1/ND trong 6 tháng kể từ ngày tŕnh diện làm Y Sĩ trưởng TĐ 1 vào cuối tháng 7, 1974, đúng vào lúc TĐ1/ND nhảy vào trận chiến ở Đại Lộc/ Thường Đức, tôi đă có quá nhiều kỷ niệm với đơn vị tác chiến lừng danh hàng đầu của Sư Đoàn ND.
Trong ngày đầu tiên ở mặt trận, tôi được đích thân người con trai của Cô ruột tôi là Đại Úy Trần Văn Thể, đại đội trưởng xuất sắc của ĐĐ 11, chỉ bày những căn bản thực tế ở trận địa như định hướng của ta và địch, phân biệt pháo ta hay pháo địch, đào hố cá nhân nơi bất cứ dừng quân nào, đi trên dấu giày của người đi trước để tránh đạp phải ḿn, luôn đội nón sắt và mang áo giáp, ngay cả khi sử dụng hố tiêu… Làm sao kể cho xiết những ngày dài lội bộ trong rừng sâu, trên những sườn đồi trơn trợt, lầm lũi quanh co theo chân các binh sĩ, chia nhau từng điếu thuốc, từng ngụm cà phê pha chung với đế, chuyền nhau từng ca cơm dưới những cơn mưa tưởng không bao giờ dứt.
Làm sao quên được những tiếng la hét,
ra lệnh trong điện đài giữa cấp chỉ huy Tiểu Đoàn, Đại Đội và Trung
Đội trong bước tiến xung phong đánh chiếm mục tiêu, giữ vững vị trí
hay buộc rời bỏ vị trí dước áp lực của địch để rồi lại phản công,
cận chiến và tái chiếm lại mục tiêu tại từng ngọn đồi, trước nhỏ
nhưng về sau càng lớn càng cao. Tại từng ven rừng hay trong rừng rậm,
tại từng con suối, bờ dốc. Trong đêm khuya, hay giữa trưa. Vào sáng
sớm hay cuối ngày. Trong mưa, trong nắng hoặc trong sương mù. V́ làm
ǵ có giới hạn thời gian trong trận chiến. V́ làm ǵ có thời tiết
thuận lợi khi xung phong. Và làm ǵ có được sự công bằng khi địch
nằm sẵn trong các công sự trên đồi chờ ta đánh vào. Nhưng ta phải
đánh để dành lại từng tất đất, từng ngọn đồi, để đánh đuổi kẻ xâm
lược và bảo vệ miền đất tự do.
Qua nhiều ngày với TĐ1/ND, tôi có dần kinh nghiệm để phân biệt được
tiếng pháo của ta hay địch, khi nằm dưới hố cá nhân hoặc trong hầm
với bộ chỉ huy, ngày ngày 3 cữ sáng trưa chiều, nh́n lên thấy từng
làn chớp sáng của đạn địch chụp trên các ngọn cây lớn kèm theo tiếng
nổ đinh tai với ngàn mảnh đạn và cành lá văng tứ phía. Đă bao lần
tôi cảm thấy bất lực trước những vết thương quá nặng của thương binh
đang chết dần khi chờ đợi tản thương, bèn đành đốt điếu thuốc lá đưa
vào môi cho từng người để rồi đoán chừng cái chết đến khi khói điếu
thuốc thôi bay. Và cũng bao lần tôi đă cúi đầu khóc thầm khi thấy
những xác chết, cả quan lẫn quân, được gói chặt trong poncho nằm
từng hàng dài hai bên băi đáp chờ được bốc đi.
Nhớ và nhớ h́nh ảnh uy nghiêm đầy khí
phách của các sĩ quan và bao khuôn mặt non trẻ nhưng dạn dày phong
sương của các binh sĩ tuy đầy kinh nghiệm chiến trường, nhưng họ vẫn
giữ một tâm hồn đơn sơ thật hồn nhiên mà tôi biết được qua những lần
tṛ chuyện, những tâm sự trong đêm dài hay qua những dừng quân ngắn
trong khi cùng nhau vui đùa. Với họ, tôi đă yêu những bản nhạc lính
mà trước đây tôi từng chê là sến. Với họ, tôi đă t́m thấy t́nh đồng
đội qua thử thách trong máu lửa. Với họ, bổn phận và trách nhiệm
luôn được gắn liền với 4 chữ “Nhảy Dù Cố Gắng”. Và với họ, tôi quên
hẳn cái chết đằng sau và nguy hiểm chờ đợi phía trước.
Sau chiến thắng ở Đồi 1062 tại Thường Đức, Thiếu tá Nguyễn Văn Phú,
Tiểu Đoàn Phó của TĐ1/ND, được đề cử làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ15/ND
tân lập và trước khi rời vùng, TTá Phú đặc biệt xin cho tôi được đi
theo với Tiểu Đoàn tân lập của ông. TTá Phú và tôi đă có những giao
hữu tốt đẹp trong thời gian ông trực tiếp chỉ huy cánh phó với 2 ĐĐ
đánh thẳng vào trận chiến. Tôi có gởi rượu và thuốc lá đến cho TTá
Phú ở mặt trận, đúng lúc phe ta cần chút chất nóng để đánh đấm cũng
như để ăn mừng chiến thắng. Thêm vào đó, tôi c̣n có cơ duyên giúp
cho TTá Phú về thăm vợ ở Saigon đúng lúc, v́ nhờ lần thăm này mà vợ
ông mới có thai lần đầu kể từ khi lấy chồng vào cuối năm 1968.
Nếu được thuyên chuyển về Saigon, tôi chắc mọi quân nhân của binh chủng ND đều vui mừng v́ không những đây là hậu cứ của Sư Đoàn ND, xa hẳn nguy hiểm của chiến trường, mà c̣n là thủ đô, là nơi phồn hoa đô hội với nhiều chốn ăn chơi. Riêng với tôi, không những tôi được về gần nhà ḿnh ở trong Cư Xá Sĩ Quan Chí Ḥa với Măng của tôi, mà đây c̣n là một cơ hội quư báu để tôi có dịp gặp lại người tôi yêu và theo đuổi qua suốt 9 năm, kể từ thời Dự Bị Y Khoa, sau nhiều năm cách trở. Cuộc thử thách riêng tư này coi vậy cũng không ít gay go, so với cuộc chiến tôi vừa trải qua ở mặt trận.
Tôi đến tŕnh diện TTá Phú tại bộ chỉ huy TĐ15/ND ở Trại Cây Mai trong Chợ Lớn và bắt tay ngay vào nhiệm vụ của ḿnh trong khi TĐ đang chỉnh đốn quân số, quân trang, huấn luyện…Tôi làm quen với các sĩ quan tác chiến của bộ chỉ huy TĐ như vị TĐ Phó, sĩ quan trưởng Ban 3 cùng các sĩ quan ĐĐ Trưởng, cũng như làm quen với các y tá thuộc cấp trong Trung Đội Quân Y của tôi và thiết lập danh sách tiếp liệu y dược.
V́ Lữ Đoàn 4 ND có nhiệm vụ bảo vệ Thủ Đô, nên vấn đề tiếp liệu quân trang, quân nhu cho TĐ tác chiến nói chung và tiếp liệu y dược của tôi nói riêng, có phần nào được ưu tiên. Trong trại quân, tôi đă có những buổi dạy về cấp cứu căn bản ở chiến trường như cầm máu, băng bó…, về y khoa pḥng ngừa cho bệnh sốt rét, bệnh tiêu chảy, bệnh hoa liễu cho riêng các y tá của tôi và cho toàn thể binh sỉ của tiểu đoàn.
Tuy TĐ được lệnh cắm trại và ứng
chiến 100%, TTá Phú thường làm ngơ cho tôi vài ba giờ những khi tôi
ghé về nhà thăm Măng của tôi, cũng như thông cảm cho tôi khi tôi rời
trại vào buổi chiều, nhảy lên xe ôm đến thẳng nhà người con gái tôi
yêu, nhất là sau khi nghe tôi kể về cuộc t́nh 9 năm trời lận đận
dang dở và ước muốn hàn gắn nối lại mối t́nh đầu đời của tôi. Người
tôi yêu đang học năm cuối của khoa Chính Trị Kinh Doanh tại Viện Đại
Học Đà Lạt.
[Với các bạn cùng khóa 16 Trưng Tập Quân Y t́nh nguyện vào Nhảy
Dù. H́nh "We Were Once Soldiers" QYND1974, từ trái qua phải: Các Y
Sĩ Trung Uư Nguyễn Đức Vượng, Nguyễn Văn Thắng, Bùi Cao Đẳng, Vĩnh
Chánh, Nguyễn Thành Liêm, Y Sĩ Thiếu Tá Trần Quư Nhiếp, TĐ Phó TĐ
Quân Y Nhảy Dù, Lê Quang Tiến, Nguyễn Tấn Cương, Dược Sĩ Khánh.]
Vào chiều Mồng Một Tết, hiên ngang trong bộ đồ hoa dù và chững chạc
trong phong cách, hạnh phúc dồn dập đến với tôi khi tôi gặp lại nàng
tại nhà, sau hơn 3 năm xa cách. Sau đó tôi tiếp tục ráo riết chinh
phục nàng qua những lá thư đậm đà t́nh thương nhớ viết từ trại quân
hay trong khi đi hành quân, hoặc qua những dịp thăm viếng nhà nàng,
trổ tài miệng lưỡi chiếm được cảm t́nh của gia đ́nh họ hàng. Mối
t́nh của tôi từ từ chuyển hướng thuận lợi. Trong bối cảnh chao đảo
của chiến sự, càng ngày chúng tôi càng cảm thấy gần gũi sâu đậm hơn.
Đó cũng là thời gian TĐ15/ND bắt đầu trực tiếp tham dự những cuộc hành quân ở ṿng đai Biệt Khu Thủ Đô, truy lùng các toán du kích Việt Cộng nổi lên đây đó hậu thuẫn cho cuộc tiến công của quân CS. Bấy giờ toàn bộ Miền Trung đă mất vào tay Cộng Quân. Cùng chung một số phận với các đại đơn vị khác của những quân khu và của Lực Lượng Tổng Trừ Bị như các Lữ Đoàn của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Lữ Đoàn 3 ND, rồi LĐ 2 ND lần lượt chịu những thiệt hại lớn tại Khánh Dương, rồi Phan Rang. Những chiến thắng thường có của bao năm trước nay dần được thay thế bởi những tin thất trận, những ră ngủ không chờ đợi, những triệt thoái vô nguyên lư, những thành phố bỏ ngỏ, hay những trận đánh bất cân xứng, những vùng vẫy tuyệt vọng kéo theo bao hy sinh đau thương trong giờ thứ 25 bất chấp lệnh trên, những mất mát sinh mạng quá lớn của cả quân và dân.
Ở Saigon, t́nh h́nh chính trị lẫn quân sự càng lúc càng đen tối dần. Saigon với giới nghiêm sau 12 giờ đêm. Saigon với hàng trăm ngàn quân dân cán chính từ bao tỉnh đàng ngoài, trắng tay chạy lấy mạng liên tục đổ về thành phố để lánh nạn, mang theo bao câu chuyện thương tâm trên các con đường di tản. Ḍng đời chao đảo, đầy gian khó. Người đời hoang mang v́ mất ḷng tin ở chính quyền. Có tin nhiều nhân vật tên tuổi bắt đầu rời nước trong khi một số khác bàn đến chuyện phải ra đi dù chưa biết đi đâu. Đâu đâu cũng lo tích trử thức ăn chuẩn bị cho một cuộc tử thủ với viễn ảnh thành phố sẽ tắm trong máu lửa. Ngoài đường người đông hẵn, ai nấy bước đi vội vả, ánh mắt âu buồn trầm tư. Trong nhà các gia đ́nh ngồi triền miên trước đài truyền h́nh hay lắng nghe tin tức từ BBC và VOA, bàn chuyện to nhỏ.
Sau trận đánh vào đơn vị du kích lớn ở giữa Tây Ninh và Saigon, TĐ15/ND được lệnh về đóng quân tạm ở vùng Hóc Môn Bà Điểm. Khi TTá Phú và tôi đi t́m gặp nói chuyện với vị Giám Đốc của hăng dệt Công Thành để ngỏ lời cho TĐ15/ND đóng bộ chỉ huy tại hảng dệt, một ngạc nhiên đầy thú vị xẩy ra khi ông Giám Đốc buột miệng hỏi tôi “có phải đây là anh Chánh, con rể ông Thạch không?” Tôi ngất ngây trả lời “dạ đúng” cùng lúc nhận ra Chú Ngưng, chồng của D́ ruột nàng ở Thủ Đức mà tôi có dịp gặp trước đây.
Ngày hôm sau, trong sự bất ngờ vui sướng của tôi, Chú Ngưng chở nàng với người em gái đến thăm tôi ngay tại bộ chỉ huy TĐ. Khi ngồi ăn trưa với bữa cơm dă chiến, nàng có vẻ “thấm” cái đời sống phong trần lính chiến của tôi, và đă e thẹn cười khi TTá Phú nói chọc “Bác Sĩ nhỏ con, người yêu BS c̣n nhỏ con hơn, chắc hai người sẽ đẻ ra những thằn lằn con nhỏ chút xíu!
Khoảng gần một tuần sau, trong đêm 23 tháng 4, TĐ15 ND được điều động đến bố trí ở cầu B́nh Triệu, trên trục xa lộ Đại Hàn. Đó cũng là thời gian thị xă Xuân Lộc vừa mất. Một trận chiến kinh hồn đă diễn ra suốt 13 ngày đêm tại đây. Quân đoàn 4 của CS Bắc Việt gồm các sư đoàn 5, 6, 7 và 34 với hàng trăm chiến xa đại bác dồn toàn lực tấn công. Sư Đoàn 18 Bộ Binh của Tướng Lê Minh Đảo, với sự hỗ trợ của LĐ1/ND, Liên Đoàn 82 Biệt Kích Dù và Không quân lần đầu sử dụng những quả bom lớn 5 tấn Daisy Cutter, đă chận đứng bước tiến của chúng, gây thiệt hại rất nặng nề cho quân địch (*). Dù trễ, trận đánh đă gây một tiếng vang lớn xa gần và khiến những chiến sĩ quanh tôi và chính tôi lên tinh thần và t́m lại được khí thế hào hùng.
Như những quân nhân bảo vệ Xuân Lộc bị dồn vào chân tường nên đă quyết tâm anh dũng chiến đấu, chúng tôi vẫn đang c̣n đây, cho đến giờ phút này, sẵn sàng chờ đến lượt ḿnh vào trận cuối cùng. Và cứ thế, TĐ15 ND bám chốt với lệnh cố thủ bảo vệ cây cầu cho đến phút cuối, hay người lính cuối cùng.
Trong những ngày kế tiếp, từ sáng sớm cho đến chiều tối, tôi chứng kiến hàng trăm hàng ngàn xe đủ loại, từ xe đạp cho đến các xe Honda, Lambretta… xe quân đội lớn nhỏ, xe chở hàng cồng kềnh đầy người và đồ vật, lính tráng thuộc đủ binh chủng và thường dân, lũ lượt kéo nhau chạy trong hỗn độn từ hướng Biên Ḥa về Saigon, ngang qua cầu B́nh Triệu. Có lúc tôi tự hỏi làm sao biết được trong đám người chạy loạn này, ai là bọn VC cố ư len lỏi theo đám đông vào nội thành để hoạt động nội tuyến!?
TĐ15/ND bung quân làm nhiều nút chặn ở cả phía bên này và bên kia cây cầu. Tôi nhận thấy TĐ có bố trí 2 xe jeeps có mang đại bác 106 ly chống chiến xa và 2 xe jeeps khác với trang bị hỏa tiễn Tow. Đa số binh sĩ đều có mang trên lưng loại rocket M 72 chống tăng, trong vị trí sẵn sàng chống trả cản bước tiến của quân thù. Trong tư thế Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn, tôi cố chuẩn bị trong khả năng của ḿnh để cấp cứu và tản thương theo hàng dọc.
Đêm 28 tháng 4, địch pháo kích dữ dội vào trại Hoàng Hoa Thám và căn cứ không quân Tân Sơn Nhất. Tiếng nổ và những cột lửa bùng cháy trong đêm làm tôi thao thức tới gần sáng. Lệnh trên vẫn muốn TĐ án binh bất động trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Bộ chỉ huy TĐ cấp tốc dời qua phía bên này cầu.
Sáng ngày 29, tôi nh́n thấy nhiều trực thăng của Mỹ bay trên trời, kể luôn cả cặp phi cơ phản lực bay ṿng ṿng như thể hộ tống. Xung quanh tôi ai cũng mường tượng có một chuyện ǵ đang xẩy ra ở Saigon, nhưng chẳng một ai biết đích thực. Không lẽ Thủy Quân Lục Chiến Mỹ nhảy vào lại cuộc chiến? Nếu được như vậy, ít ra ta cũng c̣n cơ hội củng cố lại, t́nh h́nh rồi sẽ tốt đẹp hơn…Tôi ngây thơ mơ tưởng hay tự dối ḷng?!
Gần trưa, tôi bước đến nhà thờ Đức Mẹ Fatima ở bên kia cầu B́nh Triệu. Nhà thờ mở cửa nhưng không một bóng người. Một ḿnh, tôi quỳ đọc kinh và kính cẩn cầu nguyện, xin Chúa ban ơn phước cho đơn vị Nhảy Dù của tôi, cho gia đ́nh Măng tôi và gia đ́nh nàng được b́nh an và nàng đừng rời nước để chúng tôi c̣n gặp lại nhau. Khi định rời nhà thờ, tôi bỗng nh́n thấychiếc máy điện thoại nằm trong góc và nẩy ra ư liên lạc với nàng dù biết nhà nàng không có điện thoại. May mắn thay, từ cuốn niên giám cũ bên cạnh điện thoại, tôi t́m ra số điện thoại của Cụ Mai Văn An, một Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện ở cùng cao ốc với nhà nàng. Sau khi Cụ An cho biết là gia đ́nh nàng c̣n nguyên vẹn đây, tôi cám ơn Cụ và nhờ Cụ nhắn lại với ba của nàng là tôi, tự nhận là con rể, b́nh yên và đang đóng quân ở cầu B́nh Triệu. Rời khuôn viên nhà thờ, ḷng tôi cảm thấy thanh thản, phó mặc mọi sự trong tay Chúa an bài.
Đêm 29 Cộng Quân lại pháo kích dữ dội
vào Tân Sơn Nhất và trại Hoàng Hoa Thám của Sư Đoàn Nhẩy Dù. Tín
hiệu vô tuyến của Trung Tá Lê Minh Ngọc, Lữ Đoàn Trưởng LĐ 4 ND hoàn
toàn im lặng. Sau đó liên lạc vô tuyến giữa TĐ15/ND với bộ Tư Lệnh
SĐ/ND cũng bị gián đoạn. Tuy nhiên 3 Tiểu Đoàn 12, 14 và 15/ND và Lữ
Đoàn Phó vẫn c̣n giữ liên lạc với nhau.
(Nàng đến thăm tôi ngay tại bộ chỉ huy Tiểu Đoàn.)
Trong cùng đêm, TĐ15/ND có đụng nhẹ với các toán đặc công VC ở phía
bên cầu. Lại một đêm chập chờn, không ngủ, bên cạnh những ly cà phê
đậm đặc và thuốc lá đốt không ngừng! Mọi người ngồi bất động, tư lự
xung quanh các máy vô tuyến kêu rè rè, thỉnh thoảng mới có một vài
báo cáo từ các đại đội. Không một ai muốn lên tiếng. Người nào trong
đầu cũng đầy những câu hỏi mà chẳng ai có thể trả lời.
Qua sáng ngày Thứ Tư, 30 tháng Tư, 1975, tại bộ chỉ huy TĐ15/ND, tôi đón nhận 4 người thương binh của TĐ. Trong số đó có một thương binh nặng cần phải tản thương gấp v́ trúng đạn vào bụng. Sau khi tôi chuyền nước biển và viết tờ tản thương, Ban 3 TĐ cho biết không thể tản thương v́ không liên lạc được với bất cứ đơn vị quân y nào như BV Đỗ Vinh, Tổng Y Viện Cọng Ḥa. Tôi suy nghĩ đôi chút và tŕnh bày với TTá Phú ư định tôi sẽ chuyễn thương binh này đến BV dân sự Nguyễn Văn Học.
Trong khi chúng tôi đứng cách xa người thương binh để bàn tính chuyện tản thương, anh ta bỗng kêu lên “Xin đừng chuyển tôi đi đâu cả. Để cho tôi chết ở đây…” và trong tích tắc, anh lấy ngay khẩu súng M16 nằm dọc cạnh anh trên chiếc băng ca, lên c̣ cái rẹt, quay mũi súng vào ngay dưới cằm. Nhiều tiếng la cản lên nhưng không kịp. Một tiếng nổ chát tai khiến mọi người bất động, rồi tất cả đổ xô chạy chạy lại vây quanh băng ca, nhưng chỉ c̣n kịp để thấy anh đang ngáp cá, người run nhẹ, vết thương mở rộng ở mặt và đầu, máu văng tung tóe. Tôi cầm chặt bàn tay anh, người y tá lấy tay vuốt mắt anh. Cơ thể anh từ từ dăn ra, đi vào cơi chết.
Những người có mặt giữ im lặng trong bầu không khí đau thương. Chỉ trong một khoảnh khắc, chúng tôi chứng kiến người lính trẻ đă làm một quyết định nhanh chóng và dứt khoát, cho thấy khí thế anh hùng bất khuất của một chiến sĩ. Một cái chết hiên ngang khi cuộc chiến đang dần tàn. Anh đạt ước nguyện chết trong danh dự với sự hiện diện của đồng đội chung quanh. Toàn thể bộ chỉ huy cùng đứng nghiêm, cố ngăn ḍng lệ rơi, đồng đưa tay chào vĩnh biệt người lính.
Trong khi sự tự vận bất ngờ của người thương binh đang gây xốn xang đau ḷng cho bộ chỉ huy tiểu đoàn, từ radio chúng tôi nghe bản tuyên bố đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh được lập lại nhiều lần. Sau một thời gian dài trên vô tuyến, TTá Phú quay về phía tôi và không một lời giải thích, bảo tôi đi theo với ông. Tôi ngồi sau lưng TTá Phú trên cùng một chiếc xe jeep, bên cạnh người lính truyền tin và 2 cận vệ. Người sĩ quan Ban 3 đi xe thứ hai với một toán lính khác. TĐ Phó ở lại bộ chỉ huy TĐ.
Tôi chẳng biết đoàn xe đang chạy về đâu, cho đến khi xe ngừng trong sân toà Tỉnh Trưởng Gia Định. Nh́n xung quanh, tôi thấy cả trăm người dân chạy hỗn độn trong sân, tranh dành vác những bao gạo từ trong toà tỉnh đi ra. TTá Phú đến bên tôi nói nhẹ “Bác sĩ đi đi!”, rồi ông quay lưng lại tiến vào phía bên trong ṭa tỉnh với toán binh sĩ của ông. Đó là lần cuối cùng tôi nh́n thấy TTá Phú tại Việt Nam. Và đó cũng là lần cuối tôi rời vĩnh viễn Tiểu đoàn 15 Nhẩy Dù. Tôi cúi đầu, trong nghẹn ngào. Sững sờ, trong đê hèn. Bàng hoàng, trong đau đớn. Muốn gào thét nhưng miệng khô đắng. Muốn khóc nhưng mắt khô v́ tủi nhục. C̣n cái chết?! Tôi chưa một lần nghỉ đến.
Đang đứng ngơ ngác không biết phải làm ǵ th́ một người đàn ông bước ngang bên cạnh tôi nói liền “ông cổi bỏ súng xuống và thay đồ nhanh lên”. Như cái máy, tôi vội chạy đến gần gốc cây lớn, định cổi bỏ tất cả. Nhưng sực nhớ lại, tôi chẳng có bộ áo quần dân sự nào trong ba lô. Vừa lúc ấy, có một thanh niên chạy ngang tôi với bao gạo trên vai. Tôi chận anh ta lại và xin bộ áo quân đang mặc trên người, cùng lúc tôi lục ví đưa tờ 500 đồng cho anh. Không một chút do dự anh ta thả bao gạo xuống đất, rồi vừa nh́n tôi như thông cảm anh ta cởi áo quần đưa cho tôi, cho luôn cả đôi dép nhật nữa…
Tôi cổi áo giáp, dây ba chạc có súng, bi đông nước, nón sắt, rồi nhanh chóng cổi đôi giày lính và bộ quân phục, gom lại để vào dưới gốc cây. Rồi tôi mặc cái áo màu xanh da trời nhớp nhúa và xỏ cái quần đậm màu, đi nhanh ra phía đường lớn đón chiếc xe ôm, bảo chở về đường Cao Thắng ở Saigon. Nhà nàng.
Xe ôm chở tôi đi qua nhiều đoạn đường vắng, mọi nhà đóng cửa. Đây đó là những đống áo quần trận, nón sắt, áo giáp và súng đạn rải rác bên vệ đường. Có những đoạn đường người đi lại khá đông hay tụ tập hai bên đường, và có những chiếc xe chở đầy người với mặt mày sắt máu, hô to khẩu hiệu và phất cờ MTGPMN… Cũng những con đường ấy tôi thường chạy qua lại, mà sao bây giờ bỗng trở thành xa lạ, mờ ảo như trong một cơi âm. Những âm thanh la hét, c̣i xe, lùng bùng trong tai tôi. Mắt tôi thấy mọi h́nh ảnh bên ngoài, nhưng chẳng thấu hiểu; ḷng tôi như tê dại, chẳng thể suy nghĩ ǵ. Nhớ đến người thương binh tự vận chết sáng hôm nay, tôi ngước nh́n lên trời. Một màu tang tóc đang chụp xuống thành phố thân yêu.
Xe vào đường Cao Thắng. Nàng là người
đầu tiên từ trên balcon nh́n thấy tôi bước xuống xe ôm. Nàng và các
em chạy nhanh xuống mở cổng đón tôi vào. Khi đến thang lầu, tôi phải
vịn vào vai nàng để bước lên từng bước. Thể xác tôi ră rời và tinh
thần khủng hoảng, tôi thật chẳng hiểu v́ sao ḿnh lại về được đến
nhà an toàn.
Hầu như mọi người đều thông cảm và tôn trọng sự yên lặng của ba nàng
và của tôi. Chiều đến, tôi đạp xe về nhà Măng tôi ở cư xá Sĩ Quan
Chí Ḥa cho bà cụ yên tâm, rồi tôi chở Măng tôi đến nhà nàng xin ba
mẹ nàng cho phép tôi ở tạm nơi đây, v́ cư xá Sỹ Quan Chí Hoà quá
nguy hiểm.
Tối ngày 30 tháng 4, chúng tôi ngồi ở balcon nói chuyện với nhau thật khuya. Trước đây, trong một lá thư gởi cho nàng, tôi có viết “anh xin làm bóng mát trên con đường em đi”. Giờ đây, với sự đổi đời, tương lai tôi mù mịt, viễn ảnh những năm tháng sắp tới là chuổi ngày đen tối, đọa đày và tôi e ngại tôi chẳng c̣n khả năng làm bóng mát cho em. Nàng ngồi nghe tôi nói nhiều hơn trả lời. V́ có lẽ câu trả lời đă được quyết định tự lúc nào.
Em yêu dấu, tôi viết bài này mến tặng
Em, người đă can cường cứu vớt đời tôi khi quyết định thành vợ thành
chồng với tôi trong một đám cưới quá đơn giản tại nhà thờ Ḍng Chúa
Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng. Chỉ 3 ngày sau khi mất nước, lễ cưới được
Cha Laroche của Dồng Chúa Cứu Thế chủ hôn. Với chúng tôi, đây là
“đám cươi chạy tang khi mất nước”, diễn ra trong đạm bạc, cô dâu
không áo cưới. H́nh ảnh kỷ niệm chỉ có hai tấm h́nh đen trắng. Sau
đó với tôi là mấy năm đi tù cải tạo, rồi đi tù vượt biên, em đă cùng
tôi vượt qua bao thử thách, cho đến khi chúng ta đến bến bờ tự do.
Ba ngày sau 30 Tháng Tư 75: lễ cưới
được Cha Laroche của Dồng Chúa Cứu Thế chủ hôn. Với chúng tôi, đây
là “đám cươi chạy tang khi mất nước”, diễn ra trong đạm bạc, cô dâu
không áo cưới.
Tôi cũng viết bài này để tưởng nhớ đến người bạn thân, BS Bùi Cao
Đẳng, Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 1/ND, bạn đồng môn đồng khóa và đồng
binh chủng Quân Y ND với tôi, người được sinh ra vào ngày 30 tháng
4, năm 1946, cùng tan hàng ră ngũ như tôi vào ngày 30 tháng 4, năm
1975 và đă vĩnh viển ra đi cũng vào ngày 30 tháng 4 năm 2012 tại MD,
USA.
Thân tặng các chiến hữu của Tiểu Đoàn
1 ND và của Tiểu Đoàn 15 ND, đă chết trong băo tố khói lửa hay c̣n
sống thầm lặng, hiện đang tự do ở hải ngoại hay ê chề ở trong nhà tù
lớn tại Việt Nam, với những kỷ niệm chinh chiến không thể quên.
“Cho tôi xin lại ngọn đồi, ở nơi tôi dừng quân cũ
Cho tôi xin lại bờ rừng, nơi từng chiến đấu bên nhau
Cho tôi xin một lần chào, chào bao nhiêu người đă khuất
Xin cho tôi được nằm gần, bên ngàn chiến hữu của tôi”
Viết trong tháng Tư, 2013, tại California.
Vĩnh Chánh
(*)Tài liệu tham khảo cho bài viết:
1. Chiến Sử Sư Đoàn Nhảy Dù
2. Battle of Xuan Loc, by Phillip B. Davision
3. Fighting is an art, by George J. Weight
4. Fighting to the end, by Brigadier General Trần Q. Khôi
5. vietnamwar.net
6. sudoan18bobinh.com
2024
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Tháng ngày tao loạn
Sài G̣n ơi!
Đoạn kết câu
chuyện t́nh buồn
Đôi giầy trậ
Thư kư của thiên
thần
Với tàu định
mệnh Lam Giang HQ 402
Bà Mẹ thượng đẳng
Do Thái và Bài học sinh tồn
Một bà mẹ vất vả
Áo bà ba tím
Anh hùng Richard Norden
Văn hoá không tên
Họ đến và chết v́ tự do
Thiên đường đă xa
Yếm thắm hương xưa
Ông Sư nhà quê
C̣ng lưng vẫn gánh
Cuộc đời và sự nghiệp của danh ca Hà Thanh
How the 1972 North VN Easter offensive...
Xác
chết trên băi biển
Những
món nợ khó trả
Nếu
có thể đi về quá khứ...
Người
đưa tin... độc địa
Chị Agnès
Một thời chinh chiến điêu linh
Người Saig̣n ….xưa!!!
Trí thức sến
Đuổi gà cho vợ
Hậu Duệ VNCH rạng danh Tiểu Bang Texas
Máu đào
Bản tình ca của
người Tỵ Nạn
Miếng ăn
Cờ Việt Nam Cộng Ḥa ngay giữa thủ đô
Melbourne
Đại uư Andrew Dang (gốc Việt), Phi công B-2
Chiến tranh Israel-Iran
H́nh ảnh Lễ Kỹ Niệm Ngày Quân Lực 19/6
tại Úc
Kỷ niệm ngày 19 tháng Sáu tại Cali
Mắt lệ cho
người
BS trong tù
Những ánh mắt trẻ thơ
Gặp lại cố nhân!
Lệnh gọi “học tập cải tạo”, một vết chém cay nghiệt!
Những năm nào chiến tranh đă quên
Sau 30 tháng 4. những nhớ và quên
Từ một tấm h́nh
Những người
chiến sĩ vô danh
Phố núi
Nhiều khi
Viết trong ngày Memorial Day 2025
Đệ Thất Hạm Đội - Cứu giúp thuyền nhân
Sự đời
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong nhớ bạn
Chuyện t́nh thời
chiến
50 năm – c̣n đó nỗi buồn
30 tháng 4. Một vài hồi tưởng...
Tiếng khóc của
một dân tộc
Bài thơ của
một người học tṛ cũ
Vào viện dưỡng lăo
Thu - Hát cho người
Mảnh vụn
Ơn em
Người vợ
lính
Melbourne - Tưởng niệm 50 năm Ngày Quốc Hận
Ngày người tù binh trở về!
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam
Vào ngày này năm 1975, Chiến dịch Gió lốc
Ngày cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Cong lưng vẫn gánh
Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975
Tháng
Tư - Nh́n lại tháng Ba găy súng
Băng đạn cuối cùng
Cuộc di tản tệ hại ở toà Đại Sứ Mỹ
Tưởng nhớ anh Năm
Nguyễn Đ́nh Bảo
Cờ Vàng: Biểu tượng của Việt Nam Cộng Ḥa
Vĩnh biệt anh chị Trần Hoài Thư
T́m được hài cốt Th/T Trương Phùng...
Các anh hùng LCĐB tử thủ An Lộc
Đêm đ́nh
chiến
Ai xứng đáng được phủ Quốc Kỳ VNCH
Những
tên vc nằm vùng
Giải oan cho Tổng Thống Thiệu
Trại tị nạn Camp Pendleton năm 1975
33 năm t́m được xác chồng
Kẻ bại trận
nợ người tử trận!
Sao Mai 09
Tuấn Ngọc -
Gửi gió cho mây ngàn bay
Chữ "Tín"
Nghĩa trang tử sĩ Biên Ḥa
Tonle Tchombe
(Tống Lê Chân)
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Không
bỏ Anh Em, không
bỏ Bạn Bè
T́nh
người
trong cuộc
chiến
Trận
chiến Đại Phú
Tâm thức người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc giới
Tâm tưu của một thằng lính ngụy
Tao là Ngụy!
Những kẻ mở
miệng là phát ra tiếng "Ba Que"
Ba mươi tháng tư năm
xưa, bác ở đâu?
LHQ chất vấn Việt Nam về TPB VNCH
Chết để làm ǵ
Đưa anh về nhà
Chiều
Thằng "Cầu" đỏ
Kỷ niệm 50 năm người Việt định cư tại Úc
Chương tŕnh kỷ niệm 50 Năm, người Việt Tỵ Nạn CS
Chuyện về một lá thư
Đất nước lạ lùng
Chuyến đi Hawaii & giây phút thần tiên khó quên
Người Lính Già Oregon Đă “Giă Từ Vũ Khí”
Bên bờ sinh tử
Đời ơi tôi khóc !
May mà ta c̣n có em...
Nhà báo lăo thành Mạc Kinh
Tô Lâm thừa nhận Sài G̣n trước 75 phồn vinh
Khi rừng chưa thay
lá
Bạn xưa 50 năm cũ
Cuộc hành tŕnh
Hăy thắp
cho anh một ngọn đèn…
Trận tổng tấn công của VC và phản công của TQLC trong Tết
Mậu Thân
Kỷ niệm Cổ Thành Đinh Công Tráng
Tái chiếm Quảng Trị, trận chiến dài nhất
QLVNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị
Sài G̣n, quán cafe & tuổi lang thang
Khoác áo chiến y
Một nét văn hoá Sài G̣n xưa
Sài G̣n ơi, Em c̣n đó hay không?
Ḍng sông đứng lại
Con người thực Anthony Fauci
Trong lửa đỏ, giữa sự chết, trên Quê Hương!
Tết năm này nhớ
tết năm xưa
Phi vụ cuối cùng
55 năm Tết Mậu thân 1968
Huế 1968 - thảm khốc và hy vọng
Người Việt Nam
đầu tiên nhảy dù là ai?
H́nh ảnh Lễ Thượng Kỳ mồng một Tết Ất Tỵ tại Úc
Đêm giao thừa buồn
3 mẫu chuyện ngắn
Đi t́m hơi ấm
Đồng Hương
Ngựa đá qua sông
50 năm nh́n lại người Việt tại Hoa Kỳ
Con dao con chó
Người Nam Kỳ
Tâm sự của một cựu sinh viên Luật Khoa Sài G̣n
Sự chiến đấu kiêu hùng của QLVNCH
Người ở lại Định Quán
Xứ cao bồi những ngày trước lễ Giáng Sinh
Phiên phiến tuổi già
Một chuyện rất Việt Nam
Đỉnh ngu trí tuệ
Tạp ghi CẢM ƠN NGƯỜI VIẾT SỬ “Phía Bên Kia”
Bạn thân từ thiếu
thời
Chân dung
ngày xưa Hoàng Thị
Xóm cũ nội thành
Tôi tay đôi với tụi nó đây!
Tấm thẻ bài
Rạn rụa lệ mềm
Các con phải sống
Hồi Kư của người về Từ Hoa Lục Đỏ 1974