Những giờ phút khó quên
Kỷ niệm dấu yêu
Thoại Sơn:
Mối t́nh đầu
Chuyện t́nh khó
quên
May mắn &
Hên xui trong đời lính chiến
Ba, bốn phát
Tập Truyện Thuyền Đời
13 người cuối cùng về
từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Khi bước vào tuổi 70 và hồi tưởng lại quá khứ, tôi cảm thấy con
đường của ḿnh vừa đi qua dường như đă được vạch sẳn. Thật vậy, khi
bước chân vào Trường Phan thanh Giản tôi đă có ư định sau nầy sẽ
theo đuổi nghề gỏ đầu trẻ , nên sau khi đổ Tú tài toàn phần ban Toán
tôi đă nộp đơn thi vào Trường Đại học sư phạm Ban Toán (Đệ nhị cấp).
Kết quả không đậu, nên tôi mới xoay qua nộp đơn thi và đậu vào
Trường Quốc gia Hành chánh định an phận vởi nghề làm công chức theo
kiểu sáng vác ô đi chiểu vác ô về. Tuy đậu ra trường hạng cao và
đáng lẽ có thể có quyền chọn nhiệm sở, nhưng v́ nhu cẩu công vụ lúc
bấy giờ, một danh sách trích ngang từ trên xuống dưới gồm hai mươi
người được bổ nhiệm về một cơ quan an ninh trực thuộc Phủ Tổng thống,
và sau đó cơ duyên lại đưa đẩy tôi lần lượt thuyên chuyển đến phục
vụ cũng trong các cơ quan đầu năo khác của chính phủ.
Bước khởi đầu có tính cách tiền định nẩy đă gắn chặt tôi vào với
hàng ngũ những người quốc gia chống Cộng sàn và từ đó đă trực tiếp
gắn bó với tiến tŕnh sinh hoạt thăng trầm của nền đệ nhất và đệ nhị
Việt Nam Cộng hỏa. Khi nền đệ nhị Cộng ḥa sụp đổ,tôi bị đi tù cộng
sản, được thả ra, sau đó được đi định cư ở Mỷ, và tại đây, ngoài lo
sinh kế vẫn c̣n có chút đóng góp hạn chế nào đó cùng với những người
Việt quốc gia đang mưu cấu một đất nước Việt Nam không Cộng sản.
Những môn sinh với tôi ở trường Trung học Phan thanh Giản, các chiến
hữu đă từng phục vụ dưới thời đệ nhất vả đệ nhị Cộng ḥa, mỗi người
thử suy nghiệm lại xem phải chăng phần lớn đều nhận thấy nghề nghiệp
sau cùng của ḿnh không phải là mục tiêu chọn lựa lúc ban đầu. Phải
chăng mỗi người chúng ta đă được an bài một nhiệm vụ nào đó, dù có
tầm thường đến mức nào đi nữa, nhưng cũng được xem như là một mắc
xích câú thành guồng máy của quốc gia, đă bị gắn bó với sự sinh tồn
của nó và đă dự phần làm nên một trang sử đă qua của đất nước.
Khái niệm về nhiệm vụ an bài nầy dường như đă được củng cố thêm qua
sự xuất hiện của cụ Phan đ́nh Phùng, dưới h́nh thức giáng cơ, tại
trại tù Nam Hà vào các năm 1980 trở đi. Vào thời gian tinh thần
người tù bị xuống thấp nhất, cụ Phan đ́nh Phùng đă giáng cơ để cho
họ đọc các bài thơ Đường luật loại thất ngôn tứ cú hay bát cú do cụ
sang tác lấy bút hiệu là Tùng La. Các bài thơ nầy thật tuyệt tác về
niêm luật, có nội dung trấn an, khích lệ các tù nhân rằng rồi ra họ
sẽ được thả, có cơ duyên sẽ được đi ra nước ngoài, có cơ duyên sẽ
trở về nước. Về t́nh h́nh chung của đất nước, cụ có bài thơ tứ cú
sau:
Tŕ tŕ bộ bộ bộ tŕ tŕ,
Cử bộ thời lai hữu hỉ kỳ
Thiên phụ cao bồi tư hóa dục,
Thanh phân thiên tải tụng ḥa vi.
Theo sự diễn giảng của anh em tù nhân ở trại Nam Hà lúc bấy giờ th́
đại ư cụ cho rằng:
Sự việc tiến triển một cách từ từ và
chậm chạp,
Nhưng đến khi có chuyển động sẽ đem lại kết quả vui vẻ,
Cứ coi như đây là giai đoạn để nhận chịu sư bồi dưỡng và huấn nhục,
Sử xanh rồi đây vẫn được lưu truyền tưoi sáng.
Sư hiện hữu của cụ Phan đ́nh Phùng, một vị anh hùng kháng Pháp đă
hiển thánh,bên cạnh những người tù ở trại Nam Hà, phải chăng là sự
khẳng định cái nhiệm vụ an bài vẫn chưa hết đối với cụ Phan đ́nh
Phùng, và v́ thế hằng đêm cụ đă đến với các người tù bằng các bài
thơ để truyền niềm tin và hy vọng về một ngày mai hăy c̣n sáng sủa
của họ và một tương lai vẫn đầy hứa hẹn của đất nước.
Nếu như đă sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đệ nhị thế chiến, hoặc
vào thời gian đất nước bị chia cắt, th́ việc tham gia phục vụ đất
nước chống Cộng sàn, đến khi mất nước bị đi tù Cộng sản, rồi sống
sót được thả ra và sau đó được ra định cư ở nước ngoài v.v.. trong
thời gian qua, đối với đa số, có vẻ như là một vận số đă được an bài.
Vậy c̣n đối với đất nước th́ sao? Theo thiển ư của riêng tôi, dường
như đất nước cũng có cái vận mệnh của nó, đó là vận nước.
Thật vậy, sự nghiệt ngă đă làm cho đất nước Việt Nam không bao giờ
hưởng được sự thái b́nh lâu dài đă bắt nguồn từ cái vị trí địa chính
trị của nó trên bản đồ chính trị của thế giới.
Chỉ ngay với việc nằm tiếp giáp biên
giới về phía nam của nước láng giềng khổng lồ Trung quốc luôn ôm
mộng bành trướng đă làm cho đất nước trải qua biết bao cuộc chiến
tranh chống lại áp lực thống trị của người Tàu dưới thời phong kiến.
Rồi tới thời cận đại, cũng v́ địa thế thuận lợi, tiếp giáp với biển
và nằm trên trục giao thông thương măi của các nước trong vùng Đông
nam châu Á, đất nước lại trở thành mục tiêu ḍm ngó của các cường
quốc thực dân phương Tây, và cuối cùng đành chịu sự cai trị của
người Pháp.
Khi nước Nhật vùng dậy với mộng Đại đông Á của họ, người Nhật đuổi
người Pháp đi nhưng lại thay Pháp chiếm đóng đất nước cũng v́ vị trí
có tính cách chiến lược của Việt Nam, dưới con mắt của người Nhật,
để họ bành trướng xuống các nước khác trong khu vực.
Khi chiến tranh thế giới thứ hai chấm
dứt với sự thất trận của phe Trục phát xít Nhật Đức Ư, trong khi
thực dân Anh chịu trả độc lập cho các thuộc đia cũ của họ th́ thực
dân Pháp vẫn quay lại và muốn tiếp tục duy tŕ ảnh hưởng của họ ở
Việt Nam. Thế là cuộc chiến tranh ở Đông dương lần thứ nhất đă diễn
ra (1946-1954), và vận hạn không may khác lại khởi diễn cho đất nước
cũng bắt đầu từ đây.
Hồ chí Minh, một đảng viên Cộng sản đệ tam quốc tế, liên hiệp với
các đảng phái người quốc gia phát động cuộc kháng chiến chống Pháp.
Sư kiện đảng Cộng sản Trung quốc kiểm soát được toàn thể lục địa
Trung hơa vào năm 1949 đă gây một tai hoạ cho đất nước, bởi lẽ Cộng
sản Trung quốc không muốn người Pháp có mặt ở Đông dương cản trở sự
bành trướng của họ xuống phiá nam nên họ đă chi viện tối đa cho Hồ
chí Minh, thậm chí trực tiếp chỉ đạo và trực tiếp tham chiến nữa.
Cụ Trần trung Dung, cựu Bộ trưởng Phụ tá Quốc Pḥng thời đệ nhất
Cộng ḥa, lúc c̣n ở trại tù Nam Hà, đă cho biết tài liệu trong văn
khố Pháp xác nhận các chiến thắng lớn của Việt Minh ở Việt bắc, kể
cả chiến thắng ở Điện biên Phủ đều là chiến thắng của người Trung
quốc. Lời xác quyết của cụ Trần Trung Dung nói trên mới đây đă được
minh chứng qua quyển sách:
Ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung quốc viện trợ Việt nam(do nhà xuất bản Lịch sử Đảng Trung quốc ấn hành ở Bắc kinh năm 2002, được GS sử học Phạm cao Dương điểm sách gửi cho đài BBC hồi 2/2009 )
Dưới đề mục Tầm quan trọng của Trung
quốc có một đoạn nói thẳng thừng rằng sau tháng 8/1950, với sự
có mặt của hai phái đoàn Cố vấn quân sự Trung quốc bên cạnh bộ chỉ
huy tiền phương của Vơ nguyên Giáp ở Cao Bằng (một do Vi quốc Thanh
và Đặng vật Phàm cầm đầu từ Quảng Tây và một do Trần Canh hướng dẫn
từ Vân Nam ), th́ “ Nó mở đầu cho một giai đoạn mới trong lịch sử
chiến tranh Đông dương lần thứ nhất, trong đó viện trợ của Trung
quốc đóng vai tṛ quyết định. Sau thời điểm nầy quân đội của tướng
Giáp không c̣n chiến đấu trong ṿng vây,không c̣n đánh du kích nữa
mà đă chuyển sang vận động chiến rồi sau đó là công kiên chiến để
đánh bại địch quân của họ,theo sách lược Mao trạch Đông và kinh
nghiêm của quân đội nhân dân Trung quốc.”
Nếu như Việt Nam vốn đă được Cộng sản Trung quốc coi như cửa ngỏ để
họ bành trướng xuống phiá Nam, th́ vào thời gian sau cuộc chiến
tranh ở Triều Tiên ngươi Mỹ đă có dụng ư sử dụng Việt Nam như là một
tiền đồn để chống lại sự bành trướng của khối Cộng sản xuống vùng
Đông Nam châu Á.
Thực tế cho thấy vào lúc Điện biên
Phủ sắp thất thủ, người Pháp đă có yêu cầu người Mỹ chi viện các máy
bay đánh bom B29, tương tự như B52 về sau nầy, để cứu nguy căn cứ
nẩy, nhưng người Mỹ không đáp ứng. Hậu quả là Điện biên Phủ thất thủ
đưa đến việc kư kết Hiệp định Genève 1954 chia hai đất nước.
Như đă nói ở đoạn trên, việc Cộng sản Trung hoa thống trị toàn Hoa
lục đă là một tai họa cho đất nước, bỡi lẽ sự chi viện và sư tham
gia trực tiếp của họ sau đó vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam đă giúp
cho đảng Cộng sản Việt Nam giành được quyền lảnh đạo và dựng lên một
chánh quyền cộng sản ở miền Bắc. Hậu quả là kế tiếp những năm sau đó
đất nước lại lâm vào một cuộc chiến tranh ở Đông dương lần thứ hai
giữa người quốc gia và người cộng sản kéo dài đến 30/4/1975, bỡi lẽ
Cộng sản Bắc Việt lại phát động một cuộc chiến tranh lấn chiếm miền
Nam và người quốc gia ở miền Nam phải mở cuộc chiến đấu để tự vệ.
Lúc bấy giờ, cộng sản Nga Tàu kết thành một khối, chưa bị rạn nứt
lớn, chi viện rất ồ ạt cho cộng sản Bắc Việt để lấn chiếm miền Nam.
Trong khi đó,nhất là sau cuộc chiến tranh ờ Triều Tiên, học thuyết
đô mi nô của người Mỷ ở đông nam Á đă chọn Nam Việt Nam như là một
tiền đồn ngăn chận làn song đỏ cộng sản tràn xuống các nước khác
trong vùng, nên họ cũng đă trở thành đồng minh cột trụ của nền đệ
nhất và đệ nhị Việt Nam Cộng ḥa.
Một bên là Khối cộng sản phát động
chiến tranh bành trướng núp dưới chiêu bài “giải phóng dân tộc”, c̣n
phiá thế giới tư do do nưóc Mỷ cầm đầu th́ chủ trương chống lại dựa
vào “quyền dân tộc tự quyết”. Cuộc chiến tranh VN lúc nầy có người
cho là cuộc chiến tranh về ư thức hệ (giửa chủ nghiă cộng sản và chủ
nghĩa quốc gia dân tộc), có người cho là cuộc Chiến tranh Ủy nhiệm
như tựa cuốn sách của Giáo sư Lê xuân Khoa.( một bên nhân danh các
nước trong khối thế giới tự do c̣n bên kia nhân danh các nước trong
khối cộng sản.)
Dù mang danh nghiă ǵ đi nữa th́ đây vẫn là cuộc chiến tranh cốt
nhục tương tàn đâ gây bao tan thương và chết chóc cho người Việt ở
hai miền đầt nước, mà theo thiển ư, cũng v́ do vị trí điạ chính trị
của đất nước Việt Nam có giá trị chiến lược đối với ngựi Mỷ và khối
cộng sản Nga-Tàu vào lúc đó, hay nói nôm na như tựa quyển sách của
cựu đại sứ Bùi Diễm là tại v́ đất nước bị kẹt “Trong gọng kềm của
lịch sử.”.
Giá trị của vị trí của Việt Nam trong vùng đối với người Mỷ thay đổi
theo thời gian. Vào đầu thập niên 70, ngưởi Mỷ đă nhận thức sức mạnh
của phe Cộng sản nằm trong thế nhất thống thành một khối của họ. (sách
vở và báo chí đă dùng cụm từ sino-soviet bloc để chỉ khối cộng sản
Nga Tàu). Sách lược chống cộng mới của người Mỷ đă chuyển hướng vào
việc làm phân hoá và phá vở thế nhất thống nầy.
Thế là ngưởi Mỷ bèn đi đêm với Tàu cộng vả đă đạt được Thông cáo
chung ở Thượng Hải vào năm 1972. Liền sau đó người Mỷ lại tiếp tục
đi đêm với Cộng sản Bắc Việt để rồi sau đó Hiệp định Paris được kư
kết (27-1-73). Với Thông cáo chung ở Thượng Hải, người Mỷ đă gây sự
phân hóa giữa Nga và Tàu. Với Hiệp đ́nh Paris, người Mỷ đă đào sâu
thêm sư phân hóa nầy khiến họ trở thành thù địch.Bằng chứng là sau
khi “người đồng minh Mỷ tháo chạy” khỏi miền Nam, Cộng sản Bắc Việt
liền xua quân đánh chiếm miền Nam và sau khi thống nhất được Việt
Nam th́ họ quay lưng lại với người Taù và ngă hẳn theo Cộng sản Nga.
(Thực tế cho thấy từ sau đại hội lần thứ ba của đảng ở Hà nội năm
1960,Cộng sàn Bắc việt bắt đầu đă ngă theo và nhận sự chi viện lớn
của Cộng sản Nga rồi, v́ lúc đó điều lệ đảng chủ trương đi theo tư
tưởng Mác Lê thay v́ tư tưởng Mác Lê và tư tưởng của Mao trạch Đông
như trong kỳ đại hội lần thứ hai của họ hổi năm 1950.Nhưng phải đợi
tới sau chiến thắng 30-4-75 th́ họ mới ra mặt theo hẳn Cộng sản Nga)
Do đó,kể từ sau 1975 trở đi, Việt Nam
trở thành mũi nhọn xung kích cho cộng sản Nga trong khu vực, điển
h́nh là sau khi kư được Hiệp ước hỗ tương với Nga năm 1978, Cộng sản
Việt Nam liền xua quân lật đổ chế độ của Pol Pốt đi theo Tàu cộng ở
Campuchia và chiếm đớng đất nước nầy, mở đầu cho môt cuộc chiến
tranh lần thứ ba ở Đông dương kéo dài đến năm 1990. Lập tức, năm
1979, Tàu cộng mở cuộc tấn công đánh vào sáu tỉnh ở miền Bắc mà họ
nói là để dạy cho Việt nam một bài học.
Rơ ràng có phải v́ vị trí của đất nước nằm trong vùng tranh chấp ảnh
hưởng của các nước lớn, khi th́ làm tiền đồn, lúc làm lính xung kích,
Việt Nam luôn ở trong t́nh trạng chiến tranh triền miên suốt ba cuộc
chiến tranh Đông dương nói trên khiến dất nước bị tàn phá, người
Việt Nam bị hy sinh quá nhiều, trong khi Thái Lan,v́ có vị trí nước
trái độn, chẳng những không có chiến tranh mà c̣n được hưởng lợi của
chiến tranh ở Việt nam để phát triển đất nước của họ ?
Đến khi nước Nga đổi mới và từ bỏ sự độc quyền lảnh đạo của đảng
Cộng sàn ở trong nước của họ, kéo theo sư sụp đổ của chủ nghĩa cộng
sản ờ trong khối các quốc gia cộng sản ở Đông âu vào đầu thập niên
90, cấp lảnh đạo cộng sản Việt nam lúc đó đă đặt quyền lợi đảng Cộng
sản trên quyền lợi của đất nước và dân tộc nên họ, thà mất nước chớ
không đề mất đảng, vẫn bám vào bỉnh phong chủ nghĩa cộng sản để tiếp
tục giữ độc quyền lảnh đạo và cai trị đất nước. Và cũng từ đó họ
quay lại bắt tay với Tàu cộng và chịu sự chi phối của Tàu cộng một
cách lộ liểu.( sau nầy,mỗi lần VN hop đại hội Đảng,Tàu cộng luôn gửi
một phái đoàn hùng hậu sang VN,ngoài mặt nói là để quan sát nhưng
thực chất là để dàn dựng và sắp xếp nhân sự)
Khi ành hưởng của Nga trong vùng biển Nam Hải không c̣n và khi Việt
Nam nẳm trong quỹ đạo của Tàu cộng th́ toàn vùng Đông nam châu Á bên
dưới Việt nam lại có nguy cơ bị cộng sản Tàu khống chế hay chi phối.
Đây cũng là lúc Việt nam có một giá trị địa chính trị trở lại dưới
con mắt của người Mỷ,bởi lẽ Việt Nam là nước duy nhất trong vùng có
khả năng và đă tửng có truyền thống đối đầu được với người Tàu. Sự
quan tâm nầy của Mỷ đă mở một cánh cửa để cho Việt nam có cơ hội
xích lại gần với Mỷ và thoát ra khỏi ành hưởng của Tàu cộng.
Thực tế đă cho thấy từ sau năm 1990, từng bước người Mỷ mở lại các
quan hệ và hợp tác tốt với cộng sản Việt nam (như gần đây vẫn rút
tên Việt nam khỏi danh sách các nước bị quan tâm về nhân quyền và
tôn giáo mặc dủ họ vẫn đàn áp tôn giáo và đối lập chính trị, như
việc Mỷ sê huấn luyện cho quân đội Việt nam v v.).
Chính đại sứ cộng sản VN tại Mỷ, Lê công Phụng, khi trả lởi cuộc
phỏng vấn của đài BBC, ngày 19-1-2009, về quan hệ của VN với Mỷ và
Trung quốc cũng đă công khai thừa nhận “VN nằm ở vị trí địa chính
trị nhạy cảm, sát cạnh Trung quốc, lại nằm trong vùng Đông nam Á,
cho nên cả hai đều có nhu cầu tranh thủ VN.”(nguyên văn câu hỏi số 4
của đài BBC là “Hai cưởng quốc kia, theo Đại sứ,có lôi kéo VN hay
không?”)
Kinh nghiệm của tiển nhân xưa nay vẫn nhắc nhở là nên chọn lấy nước
ở xa làm đồng minh hơn là kết thân với nước láng giềng gần, nhất là
khi nước láng giềng gần vốn đă có lịch sử lâu đời xâm lược và thống
trị đất nước. Điều nầy chưa hẳn có thế áp dụng vào Việt nam lúc nầy,
bởi lẽ tập đoàn lănh đạo ở VN trong quá khứ đă tửng cho thấy họ đặt
quyền lợi giai cấp thống trị đảng của họ trên quyền lợi của đất nước
( lúc các nước Đông âu thoát ly khỏi Nga và từ bỏ chủ nghĩa cộng sản),
chưa kể là áp lực và sự chi phối của Tàu cộng vào VN chưa lúc nào
mạnh mẽ và thô bạo như lúc nẩy.
Tiến tŕnh để Việt nam có thể lột xác
vả xích lại gần với Mỷ tới mức có thể thoát ly được ảnh hưởng của
Tàu cộng vẫn sẽ tuỳ thuộc vào sự chuyển động xoay chiều mạnh mẽ
củaVN và nổ lực của Mỷ. Riêng về phiá VN, khả năng nầy chỉ có thể
xảy ra khi nào có sự thay đổi nhân sự trong giới lảnh đạo ở đây.
B́nh thường th́ phải mất một thời gian tương đối dài đủ để cho tầng
lớp trẻ, hấp thụ nền giáo dục Âu Mỷ, lên thay thế lớp cũ ở vai tṛ
lảnh đạo. Cho tới lúc đó, khi không bị vướng mắc bởi ân nghĩa cũ
trong các cuộc chiến tranh vừa qua, không bị rảng buộc bởi quyển lợi
phe nhóm và dây liên hệ chằn chịt về gia đ́nh ( giữa những người
trong hàng ngũ lảnh đạo đương thời họ c̣n có sự liên hệ qua lại chặt
chẽ về gia đ́nh với nhau nữa), lớp lảnh đạo mới nầy có thể mới có đủ
đăm lược làm cho đất nước xoay chiều và nương vào thế của Mỷ để từ
từ thoát ra khỏi sự khống chế của nước Tàu.
Khi đă tin rằng dường như mỗi cá nhân
đều có vận số, và đất nước cũng có vận nước của nó th́ không thể
không nghĩ tới những biến cố đột biến có thể xuất hiện bất ngờ, làm
đăo lộn hay rút ngắn các diễn tiến b́nh thường của sự việc, hoặc phá
vở các thế thăng bằng đă có sẵn.
Cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng vả rộng lớn đang diễn ra ở Mỷ và
các nước Tây âu hiện nay phải chăng cũng có thể coi là một biến cố
đột biến ? Nó đă phát ra những chấn động dây chuyển tạo nên những
cơn sống ngẩm cực mạnh ở bên Á châu, đặc biệt là ở Tàu cộng.
Các nước tây âu vốn đă quen đối phó
với các cuộc khủng hoảng loại nầy, c̣n Tảu cộng chỉ quen thuộc với
việc sử dụng công cụ chuyên chính. Một sự xáo trộn kinh tế và xă hội
qui mô đang diển ra ở trong nước Tàu, qua h́nh ảnh nổi bật của hơn
20 triệu lao động di dân thất nghiệp từ thánh thị kéo về nông thôn,
sẽ dẫn tới những hậu quả khó có thể lường trước. Một sự thay đổi lớn,
nếu có, ở trong nước Tàu cộng chắc chắn sẽ tác động ngay lên nước
VN.Trên mạng internet, đă có tác giả, sau khi đánh giá t́nh h́nh,
đưa ra sự ước đoán lạc quan về chu kỳ hết “cùng” tất phải lên
“thông” cho đất nước VN nhân sự đột biến nầy.
Dù sao, chủ nghĩa cộng sản đă bị khai tử từ lâu rồi, trào lưu tự do
dân chủ đă là một xu thế tất yếu của thời đại không thể đăo
ngược.Sinh lộ cho đất nước VN trước sau ǵ cũng phải đi theo xu thế
nầy. Thời gian xảy ra lâu hay mau vẫn c̣n là một ẩn số, và nếu như
tin vào vận số th́ nó có thể xảy đến ở bất cứ lúc nào vậy.
Triệu huỳnh Vơ.
2024
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Chuyện sủ nhi
Với người vừa khuất núi
Nỗi ḷng chinh phụ
Cái rổ cua
Nền giáo dục của Đệ Nhất Việt Nam Cộng Ḥa
24
giờ ở liên đội chung sự
Tháng ngày tao loạn
Sài G̣n ơi!
Đoạn kết câu
chuyện t́nh buồn
Đôi giầy trậ
Thư kư của thiên
thần
Với tàu định
mệnh Lam Giang HQ 402
Bà Mẹ thượng đẳng
Do Thái và Bài học sinh tồn
Một bà mẹ vất vả
Áo bà ba tím
Anh hùng Richard Norden
Văn hoá không tên
Họ đến và chết v́ tự do
Thiên đường đă xa
Yếm thắm hương xưa
Ông Sư nhà quê
C̣ng lưng vẫn gánh
Cuộc đời và sự nghiệp của danh ca Hà Thanh
How the 1972 North VN Easter offensive...
Xác
chết trên băi biển
Những
món nợ khó trả
Nếu
có thể đi về quá khứ...
Người
đưa tin... độc địa
Chị Agnès
Một thời chinh chiến điêu linh
Người Saig̣n ….xưa!!!
Trí thức sến
Đuổi gà cho vợ
Hậu Duệ VNCH rạng danh Tiểu Bang Texas
Máu đào
Bản tình ca của
người Tỵ Nạn
Miếng ăn
Cờ Việt Nam Cộng Ḥa ngay giữa thủ đô
Melbourne
Đại uư Andrew Dang (gốc Việt), Phi công B-2
Chiến tranh Israel-Iran
H́nh ảnh Lễ Kỹ Niệm Ngày Quân Lực 19/6
tại Úc
Kỷ niệm ngày 19 tháng Sáu tại Cali
Mắt lệ cho
người
BS trong tù
Những ánh mắt trẻ thơ
Gặp lại cố nhân!
Lệnh gọi “học tập cải tạo”, một vết chém cay nghiệt!
Những năm nào chiến tranh đă quên
Sau 30 tháng 4. những nhớ và quên
Từ một tấm h́nh
Những người
chiến sĩ vô danh
Phố núi
Nhiều khi
Viết trong ngày Memorial Day 2025
Đệ Thất Hạm Đội - Cứu giúp thuyền nhân
Sự đời
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong nhớ bạn
Chuyện t́nh thời
chiến
50 năm – c̣n đó nỗi buồn
30 tháng 4. Một vài hồi tưởng...
Tiếng khóc của
một dân tộc
Bài thơ của
một người học tṛ cũ
Vào viện dưỡng lăo
Thu - Hát cho người
Mảnh vụn
Ơn em
Người vợ
lính
Melbourne - Tưởng niệm 50 năm Ngày Quốc Hận
Ngày người tù binh trở về!
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam
Vào ngày này năm 1975, Chiến dịch Gió lốc
Ngày cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Cong lưng vẫn gánh
Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975
Tháng
Tư - Nh́n lại tháng Ba găy súng
Băng đạn cuối cùng
Cuộc di tản tệ hại ở toà Đại Sứ Mỹ
Tưởng nhớ anh Năm
Nguyễn Đ́nh Bảo
Cờ Vàng: Biểu tượng của Việt Nam Cộng Ḥa
Vĩnh biệt anh chị Trần Hoài Thư
T́m được hài cốt Th/T Trương Phùng...
Các anh hùng LCĐB tử thủ An Lộc
Đêm đ́nh
chiến
Ai xứng đáng được phủ Quốc Kỳ VNCH
Những
tên vc nằm vùng
Giải oan cho Tổng Thống Thiệu
Trại tị nạn Camp Pendleton năm 1975
33 năm t́m được xác chồng
Kẻ bại trận
nợ người tử trận!
Sao Mai 09
Tuấn Ngọc -
Gửi gió cho mây ngàn bay
Chữ "Tín"
Nghĩa trang tử sĩ Biên Ḥa
Tonle Tchombe
(Tống Lê Chân)
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Không
bỏ Anh Em, không
bỏ Bạn Bè
T́nh
người
trong cuộc
chiến
Trận
chiến Đại Phú
Tâm thức người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc giới
Tâm tưu của một thằng lính ngụy
Tao là Ngụy!
Những kẻ mở
miệng là phát ra tiếng "Ba Que"
Ba mươi tháng tư năm
xưa, bác ở đâu?
LHQ chất vấn Việt Nam về TPB VNCH
Chết để làm ǵ
Đưa anh về nhà
Chiều
Thằng "Cầu" đỏ
Kỷ niệm 50 năm người Việt định cư tại Úc
Chương tŕnh kỷ niệm 50 Năm, người Việt Tỵ Nạn CS
Chuyện về một lá thư
Đất nước lạ lùng
Chuyến đi Hawaii & giây phút thần tiên khó quên
Người Lính Già Oregon Đă “Giă Từ Vũ Khí”
Bên bờ sinh tử
Đời ơi tôi khóc !
May mà ta c̣n có em...
Nhà báo lăo thành Mạc Kinh
Tô Lâm thừa nhận Sài G̣n trước 75 phồn vinh
Khi rừng chưa thay
lá
Bạn xưa 50 năm cũ
Cuộc hành tŕnh
Hăy thắp
cho anh một ngọn đèn…
Trận tổng tấn công của VC và phản công của TQLC trong Tết
Mậu Thân
Kỷ niệm Cổ Thành Đinh Công Tráng
Tái chiếm Quảng Trị, trận chiến dài nhất
QLVNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị
Sài G̣n, quán cafe & tuổi lang thang
Khoác áo chiến y
Một nét văn hoá Sài G̣n xưa
Sài G̣n ơi, Em c̣n đó hay không?
Ḍng sông đứng lại
Con người thực Anthony Fauci
Trong lửa đỏ, giữa sự chết, trên Quê Hương!
Tết năm này nhớ
tết năm xưa
Phi vụ cuối cùng
55 năm Tết Mậu thân 1968
Huế 1968 - thảm khốc và hy vọng
Người Việt Nam
đầu tiên nhảy dù là ai?
H́nh ảnh Lễ Thượng Kỳ mồng một Tết Ất Tỵ tại Úc
Đêm giao thừa buồn
3 mẫu chuyện ngắn
Đi t́m hơi ấm
Đồng Hương
Ngựa đá qua sông
50 năm nh́n lại người Việt tại Hoa Kỳ
Con dao con chó
Người Nam Kỳ
Tâm sự của một cựu sinh viên Luật Khoa Sài G̣n
Sự chiến đấu kiêu hùng của QLVNCH
Người ở lại Định Quán
Xứ cao bồi những ngày trước lễ Giáng Sinh
Phiên phiến tuổi già
Một chuyện rất Việt Nam
Đỉnh ngu trí tuệ
Tạp ghi CẢM ƠN NGƯỜI VIẾT SỬ “Phía Bên Kia”
Bạn thân từ thiếu
thời
Chân dung
ngày xưa Hoàng Thị
Xóm cũ nội thành
Tôi tay đôi với tụi nó đây!
Tấm thẻ bài
Rạn rụa lệ mềm
Các con phải sống
Hồi Kư của người về Từ Hoa Lục Đỏ 1974