Tác Giả: Lệ Hoa Wilson
Tác giả đă nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011. Bà là một Phật
tử, pháp danh Tâm Tinh Cần, nhũ danh Quách Thị Lệ Hoa, sinh năm 1940
tại Cần Thơ. Hai bài viết đầu tiên của bà là tự sự của một phụ nữ
Việt thời chiến, kết hôn với một chàng hải quân Hoa Ky. Cưới nhau:
1972. Tới Mỹ năm 1975. Từ 1985, hai vợ chồng mở v/p Di Trú và Thuế
Vụ tại Long Beach. Bài viết mới nhất là một hồi ức về mảnh đất tạm
dung và quê hương yêu dấu. Tựa đề được đặt lại theo nội dung bài
viết.
1. Việt Nam
Chúng tôi gặp nhau và thành hôn năm tôi 30 tuổi, đă một lần ly dị và
có hai đứa con.Ông xă th́ cũng 30 tuổi và c̣n là trai tơ. Khi bà chị
biết chúng tôi muốn làm đám cưới, bà nói thẳng thắn: “em ơi, một khi
lấy Mỹ th́ sẽ bị người ta cười chê thúi đầu, vậy sao không lựa một
thằng tóc vàng, mắt xanh, cao lớn, đẹp trai để bù lại mà lại đi lấy
một thằng tóc đen, mắt nâu, hơi lùn nữa, vậy được cái ǵ?”.
Tôi nh́n người chị, buồn bă nói : “Chị Hai ơi, em đă có hai đứa con
rồi. Thật khó khăn khi em phải vừa kiếm chồng cho em vừa kiếm cha
cho hai đứa nhỏ. Ảnh thương em và đối với hai đứa nó thật tốt. Mấy
người khác chỉ thương em mà thôi, không cần hai đứa nhỏ!”
Và quả nhiên Trời Phật cũng thương cho những nỗi bất hạnh mà tôi đă
nếm trải trong đời nên đă cho tôi không những một người chồng mà c̣n
là một người cha và là một người ơn nữa.
Vùng I chiến thuật lấy Đà Nẵng (nơi tôi và ông xă gặp nhau) làm thủ
phủ nên có rất nhiều bộ chỉ huy trong đó có nhà thương của hải quân
Mỹ là trung tâm y tế cho tất cả binh sĩ Mỹ trong vùng. Qua khỏi ngă
tư Mỹ Khê, quẹo mặt để đi vào núi Non Nước, nằm về phía tây mặt là
nhà thương. Tôi đoán nó chiếm trọn ít nhứt là năm mẫu đất với các
trung tâm y tế mổ xẻ, chữa trị đủ loại, nhà ở cho binh sĩ và dĩ
nhiên là một nhà xác!
Trước mặt nhà thương là một băi đáp trực thăng để tải các thương
binh, các chiến sĩ tử trận từ các chiến trường vùng I. Mỗi lần trực
thăng đáp xuống th́ con đường xe chạy được các quân cảnh Mỹ chận
lại, từng chiếc cáng được vội vă khiêng ra chạy thẳng vào cổng
chánh, có người sẽ tỉnh lại với một cái chân nằm đâu đó trong lá
rừng rậm rạp, có người sẽ được trở về quê hương dưới lá cờ phủ kín,
có người sẽ ngậm ngùi từ biệt những giấc mơ v́ cánh tay đă mất,
gương mặt đă bị tàn phá, linh hồn đă bị tổn thương…
V́ ông xă thuộc binh chủng hải quân và đóng quân trong nhà thương
nên tôi đă có biết bao lần phải ngừng xe, tắt máy, ngồi nh́n những
bước chân vội vă, những gương mặt chịu đựng, những ánh mắt buồn hiu
của những người tải thương. Mỗi khi có một cái cáng phủ cờ Việt Nam
hay Mỹ th́ những người Mỹ xuống xe đứng nghiêm chỉnh đưa tay chào
vĩnh biệt. Tôi ít khi thấy thương binh ViệtNam, có thể v́ họ được
chuyển tới một trung tâm y tế khác. Chỉ có một lần tôi thấy một cái
cáng được khiêng ra khỏi cửa trực thăng, lá cờ Việt Nam phủ kín. Tôi
không thấy mặt cũng như binh chủng của tử sĩ nhưng một người đàn bà
đầu tóc rũ rượi , cánh tay quấn băng treo vào vai c̣n đẫm máu đang
lảo đảo nhảy ra khỏi cửa trực thăng. Tóc chị trước kia chắc được cột
lại bằng dây thun, nay chỉ c̣n một vài lọn lỏng lẽo trên đỉnh đầu
c̣n bao nhiêu th́ thả dài rối rắm xung quanh mặt.
Bạn ơi, h́nh ảnh đau thương nhứt không phải là cái cáng có người
chết nằm phủ kín lá cờ vàng chói, không phải ḍng nước mắt đầm đ́a
trên mặt người sống sót mà là một miếng băng vải mỏng dùng để quấn
vết thương. Nó bị dơ v́ đất và máu. Nó chỉ dài bằng một chiếc khăn
mùi xoa. Nhưng nó lại được người vợ trân trọng để ngang lên trán,
dùng một cọng lạt dừa cột ṿng lại sau đầu. Mảnh khăn tang được vội
vă quấn tạm thời nhưng sự ly biệt th́ chắc chắn ngàn trùng xa cách.
Người thiếu phụ Việt Nam đang để tang cho người chồng chiến sĩ đă hy
sinh v́ tổ quốc!
Tôi không ra khỏi xe chào vĩnh biệt người chiến binh nhưng gục mặt
vào tay lái nước mắt tuôn rơi khóc thương cho những đứa trẻ đang
quẩn quanh trong thôn xóm chờ cha trở lại . Tôi tưởng tượng tới lúc
gia đ́nh nghe tiếng chuông reo, mở cửa ra và thấy một người binh sĩ
đứng trước mặt với cái nón cầm trên tay.Người mẹ ở ngàn dặm xa kia
có ngă xuống v́ trái tim tan nát ?... Một cái ǵ dó nhen nhúm trong
tâm hồn tôi. Chiến tranh tiếp diễn cho tới một lúc nào đó th́ ḥa
ước được kư, quân đội Mỹ rút lui.
Anh nấn ná xin ở lại Việt Nam và là nhóm binh sĩ cuối cùng ra khỏi
phi trường Tân Sơn Nhất vào đầu năm 73. Tháng sáu 73, tôi sanh đứa
con trai đầu ḷng của anh. Tháng Chín năm 74 tôi qua Mỹ thăm anh
tiện thể thăm ḍ chuyện xuất nhập cảnh. Chúng tôi dự định chờ anh ra
khỏi quân đội và sẽ về sinh sống tại VN. Điều kiện để tôi nói “ I
do” là chúng tôi phải ở ViệtNam và sẽ có bảy đứa con. Tôi nào biết
trời cao đất rộng là ǵ, chỉ biết rằng tôi rất ham con và bảy đứa là
một con số chấp nhận của gia đ́nh VN, đâu nghĩ rằng đối với người Mỹ
hai đứa là lư tưởng, ba đứa là chau mày, bốn đứa là nổi điên, năm
đứa là tan nát, sáu đứa là thảm họa mà bảy đứa là… rồi đời!
Thời cuộc thay đổi, đến tháng Ba năm 75 th́ tôi quay về Việt Nam để
đón các con. Lúc đó tôi đang có thai đứa thứ hai được bảy tháng. Khi
c̣n bên Mỹ, qua tin tức trên báo và tin rỉ ra trong quân đội th́
chúng tôi biết chắc là Saigon sẽ mất, nhưng khi về Việt Nam th́
Saig̣n vẫn vui vẻ, vẫn b́nh yên. Rạp chiếu bóng vẫn hát, tiệm ăn vẫn
mở cửa, đám cưới vẫn tiến hành, t́nh yêu vẫn nở hoa… Tôi thầm cằn
nhằn báo chí Mỹ thật là dỏm, toàn là đưa tin vịt không hà.
Nhưng với ngày qua, mọi việc có vẻ tệ hơn. Nhóm người quen bán hột
xoàn với mẹ con tôi cùng nhau an ủi rằng “bà Mỹ” c̣n ở đây chưa chạy
th́ lo ǵ. Ông xă tôi kêu điện thọai ngày một hối thúc tôi ra đi.
Tôi trả lời là má tôi không cho đi, sợ về Mỹ sanh rồi lấy ai săn
sóc, làm sao có củi lửa để hơ, có lá xông để tắm, có nghệ vàng để
thoa mặt v.v.. Sanh xong rồi tôi sẽ qua.
Một tuần sau tôi mất liên lạc với anh.
Ngày 20 tháng tư 75 một trung sĩ VN lái xe jeep đến nhà tôi, gơ cữa:
“Xin lỗi đây có phải là nhà của bà Lê Thị Hoa không?”.
Tôi trả lời:
“Trung sĩ ơi, ở đây không có bà Lê Thị Hoa chắc trung sĩ muốn kiếm
bà Lệ Hoa phải không?”
Viên trung sĩ vội nói:
“Tôi cũng không biết chắc. Tôi làm việc cho ban an ninh phi trường
và được lịnh tới đây chở cái bà có chồng Mỹ lên gặp đại tá Mỹ phụ tá
tùy viên quân sự…”.
Tôi cầm lấy giấy và thấy tên tôi. Tôi vội dẫn theo hai đứa con nhỏ
nhất lên phi trường TSN. Khi vào văn pḥng,vị đại tá cho tôi biết là
ông xă đă liên lạc với cơ quan của ông và nhờ họ giúp tôi và các con
phương tiện để rời Việt Nam.
Vị đại tá nh́n xấp tài liệu nói:
“ Chồng bà yêu cầu toà đại sứ giúp đở bà và ba đứa con di tản khỏi
VN lập tức. Xin bà hăy để hai đứa trẻ nầy lại đây cho cô thơ kư tôi
trông chừng, c̣n bà th́ theo xe trở lại nhà và dẫn đứa thứ ba tới
đây, chúng tôi sẽ làm giấy tờ và gia đ́nh bà sẽ ra đi nội trong ngày
nay”.
Tôi ngẩn ngơ nh́n vị đại tá ngồi nghiêm chỉnh trước mặt:
“Ngài đại tá, ngài có nói chơi không? Tôi sanh ra, lớn lên, sống ba
mươi lăm năm tại non nước nầy giữa cha mẹ, thân nhân, bạn bè… và bây
giờ ngài cho tôi hai tiếng đồng hồ để từ bỏ tất cả… xin ngài hăy nói
là ngài nói chơi, chuyện nầy không có thật..”
Nước mắt tôi ứa ra và chắc là tôi có vẻ bi thương của một con thú
sắp chết nên vị đại tá rộng lượng nh́n tôi :
“Tôi biết t́nh cảm của bà. Thôi bà hăy dẫn con về và ngày mai trở
lại. Ngày mai, bà có nghe rơ không? Chuyện đầu tiên bà thức dậy ngày
mai là cùng ba con lên xe đến đây. Tôi sẽ gởi người trung sĩ nầy đến
nhà bà sáng mai.”
Tôi về nhà và cả nhà bắt đầu khóc. Tôi đi lên đi xuống thang lầu, mở
các hộc tủ ra rồi đóng lại, ra sân thượng nh́n chậu cúc héo queo,
xuống nhà bếp ngồi lên bộ ván ngựa,vô nhà tắm rờ rờ cái lon múc
nước, ra pḥng khách nằm lên vơng đưa kẽo kẹt… Tôi như người mộng
du, làm tất cả những hành động vô nghĩa đó với tiếng khóc hụ hụ.
Ba giờ chiều tôi gọi điện thoại cho vị đại tá biết là v́ tôi bị xúc
động nên đă động đến cái thai. Hiện giờ tôi đang ra huyết và bác sĩ
cấm không cho tôi di chuyển cho đến ba ngày sau. Dĩ nhiên vị đại tá
không dám giỡn vói tánh mạng người khác nên phải đồng ư cho tôi thêm
ba ngày nữa. Tôi không nghĩ là sau ba ngày đó tôi c̣n có đươc một
giọt nước mắt nào nữa trong cuộc đời.
Ba má tôi không đi v́ tôi có người anh đi tập kết: ông bà chờ sự trở
lại. Anh rể tôi không đi v́ là sĩ quan cộng hoà: sợ mang tội trốn
lính. Chị tôi không đi v́ theo chồng.
Ba đứa cháu trai theo tôi v́ sợ sẽ phải bị đày đi lính. Một đứa cháu
gái theo tôi v́ sợ sẽ bị gả ép cho thương phế binh.
V́ thế ba ngày sau tôi mang một bụng bầu tám tháng và bảy đứa nhỏ
lên phi trường. Vị đại tá nh́n tôi như nh́n con quái vật:
“Xin lỗi bà, theo giấy tờ th́ tôi chỉ có quyền cho bà và ba đứa con
của bà đi. Hiện tại bà có tới bảy đứa! tôi thật không thể giúp bà”
Khi người ta phải phấn đấu cho sự sống chết th́ can đảm và khôn
ngoan ở đâu bất chợt hiện ra. Tôi nhẹ nhàng nói:
“Tôi hiểu thưa đại tá. Tôi không trách ông. Nhưng đây là những đứa
cháu tôi nuôi từ nhỏ giống như con tôi vậy. Nếu ngài không cho chúng
đi th́ mẹ con tôi cũng xin ở lại.”
Vị đại tá bối rối nh́n tôi. Có lẽ ông đă biết rằng rồi th́ VN sẽ
mất, rồi th́ một làn sóng người sẽ cuồn cuộn ra đi. Sớm một vài
ngày, bốn đứa trẻ nầy có thấm ǵ đối với số người đang rần rộ chen
lấn ngoài kia. Ông thở dài, ngồi xuống ghế kư cái công văn eight
months pregnant wife and seven children of US citizen need to be
evacuated rồi đưa cho tôi. Chúng tôi theo ḍng thác người nhớn nhác
ra đi.
Tôi sẽ không kể lể dài ḍng về cuộc di tản của chúng tôi tuy rằng
với cái bụng bầu 8 tháng, 7 đứa nhỏ từ hai tới mười ba tuổi, không
một người đàn ông bên cạnh th́ chuyến hành tŕnh nầy không phải là
một cuộc du lịch nhàn hạ. Nhưng so với những khổ năo, những đau
thương, những thảm cảnh mà đồng bào ta gánh chịu sau nầy với các
cuộc vượt biên th́ thật nó chẳng thấm tháp vào đâu.
2. Hoa Kỳ.
Chúng tôi tới Camp Pendleton ngày 15 tháng 5 năm 1975. Anh đang đóng
quân ở Ferndale, một tỉnh lẻ nhỏ nhắn hiền hoà chỉ có bảy ngàn dân,
cách San Francisco sáu tiếng đường xe về hướng bắc. Lúc đó chiến
tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Nga Sô vẫn tồn tại nên đây là một căn cứ
hải quân rất quan trọng nằm trên một ngọn đồi cao ngó ra biển. Các
đài radar tối tân được đặt cùng khắp để theo dơi các tàu ngầm xâm
phạm bất hợp pháp vào hải phận Mỹ và California.
Khí trời California lúc đó là 75 độ mà mọi người
lạnh cóng. Đêm thứ hai tại camp, anh lái xe một lèo 16 tiếng để đến
đón mẹ con tôi. Mười một giờ khuya một người lính Mỹ đến lều để dẫn
tôi lên văn pḥng nơi anh đang làm thủ tục.
Bạn có biết lúc đó tôi giống ai không?
Không Giống Ai Hết!
Đây là một người đàn bà 36 tuổi, tóc hơi dính chùm lại v́ cát bụi,
mặt hơm vào, g̣ má bị nám, mặc một cái áo dài xanh bên hông chỉ gài
được một nút ở dưới nách v́ thai bụng quá lớn, ngoài khoác một áo
bầu thùng th́nh màu trắng, đầu trùm cái mền xám cột thắt dưới cằm,
chiều dài mền thả phấp phới sau lưng. Le lói hơn nữa là người lính
Mỹ trẻ thấy tôi run cầm cập nên cởi cái áo lính trận ra, trước mặt
đầy những túi để dao găm, lựu đạn v…v và trùm lên tôi. Tôi bước vào
căn lều. Bàn làm việc nằm cuối pḥng và anh đang đứng cúi xuống kư
giấy tờ.
Chưa bao giờ trong đời tôi lại bước những bước
chân nhẹ nhàng, nặng nề, tủi hổ, hoang mang, giải thoát, run sợ như
lúc đó. Đây là lúc bắt đầu cho những ngày tươi sáng với xum hợp
thương yêu, với nhà lầu chọc trời, với ngựa xe rộn rả, với tương lai
đại học hay là lúc chấm dứt cho ḍng sông Hậu hiền ḥa với hàng dừa
nặng trái, lúc từ giă những hàng me xanh thân yêu Trần Quư Cáp, lúc
quay lưng lại với bến Ninh Kiều đằm thắm xinh tươi, lúc qú lạy cha
mẹ quê hương nói lời vĩnh biệt?
Tiếng bước chân tôi làm anh quay lại. Anh bước tới ôm lấy tôi. Tôi
cố gắng để khỏi ngất đi, qú xuống sàn nhà, tay ôm lấy mặt và nghẹn
ngào: “Oh My God honey, I lost my family, I lost my country, I lost
everything!” rồi tôi khóc nức nở. Anh qú xuống ôm đầu tôi. Anh cũng
khóc. Tất cả người Mỹ trong pḥng đều rưng rưng.
Ngày 13 tháng 6 năm 1975 tôi sanh cháu Jimmy. Tháng 9 tựu trường,
tôi gởi hai đứa nhỏ nhất cho cô bạn,đi làm phụ giáo lớp một trường
tiểu học Ferndale, hai đô la rưởi một giờ.
Hè 1976, tôi đứng bán hot dog trong hội chợ và ba thằng lớn th́ đi
dọn rửa phân ngựa trong trường đua. Lúc đó chánh phủ Mỹ c̣n giàu nên
cứ hai năm là các quân nhân được dổi tới một trạm binh khác. Tôi
thấy tụi nhỏ rất buồn và sợ rằng sự dời chỗ thường xuyên sẽ làm tụi
nó hụt hẫng v́ xa bạn nên khuyên anh giải ngũ. Và chúng tôi dọn
xuống miền nam California, tỉnh La Habra.
Tôi th́ để tất cả sự nghiệp lại ViệtNam, anh th́ trước khi biến cố
ViệtNam xảy ra, đă bị thua lỗ tất cả vốn liếng trong một vụ hùn hạp
mở tiệm in với một nhóm dân sự nên chúng tôi hoàn toàn… sạch sẽ. Khi
đi mướn nhà ở đường Dexford, La Habra, chúng tôi chỉ dẫn theo bốn
dứa nhỏ nhất, hai trai hai gái. Chủ nhà là một người đàn ông Mỹ dễ
thương, khi biết anh vừa giải ngủ th́ rất vui vẻ nói:
“Ô, căn nhà nầy có ba pḥng lớn, thật là lư tưởng cho gia đ́nh ông
bà với hai trai hai gái. Tôi rất vui ḷng cho ông bà mướn”.
Chúng tôi dở khóc dở cười. Anh là người ít nói và chậm chạp nên tôi
bèn duyên dáng cười cười nh́n ông:
“ Thưa ông, nếu tôi nói với ông là chúng tôi có tám đứa con th́ ông
có tin chúng tôi không?”
Lần nầy th́ chủ nhà nh́n chúng tôi dở khóc dở cười. Ông ngẫm nghĩ
một lát rồi nói:
“Thôi được, tôi đồng ư cho ông bà mướn. Mỗi tháng tôi sẽ đích thân
đến thâu tiền nhà. Hy vọng là mọi sự sẽ tốt đẹp”.
Ông đâu có biết rằng tên tôi là Lệ Hoa nghiă là một bông hoa mỹ lệ,
đẹp đẽ chớ chẳng phài là nước mắt của hoa nghe bạn. V́ thế tôi thích
trồng bông, thích vườn tược. Tôi sanh ra và lớn lên ở Cần Thơ, bà
con sống ở Ô Môn, Thới Lai , Phong Điền, Cờ Đỏ nên mỗi mùa hè chị em
tôi thường về vườn đi cầu khỉ, chèo ghe, bắt ốc gạo, hái vú sữa. Cái
chất vườn nam bộ đă ăn sâu vào máu tôi nên hiện giờ nhiều người c̣n
cho rằng tôi không có vẻ ǵ là văn minh như người ViệtNam sống ở Mỹ.
Biết sao!
Sau khi dọn vô, tôi và các con h́ hục cuốc đất, đổ phân và biến cái
sân trống rỗng của ông thành ra một cái vườn đầy hoa vạn thọ (đây là
để honor má tôi v́ bà rất thích bông vạn thọ). Tháng sau khi ông tới
thu tiền nhà th́ ông ngẫn ngơ và phán một câu “Tôi không cần phải
tới tận nhà thâu tiền nữa, bà cứ viết check gởi cho tôi là được. Cám
ơn bà về những bông vạn thọ.”
Một vài người quen xúi tôi xin đi làm waitress v́ nghề nầy tiền
lương chẳng bao nhiêu nhưng tiền tip th́ …ăn chết không hết. Trời ơi
tôi nghĩ tới cái viễn cảnh , anh sẽ đi làm, tôi sẽ đi làm lại c̣n
tiền hưu trí từ quân đội nữa th́ quả nhiên là... ăn chết không hết!
Tôi vội vàng vác đơn tới tiệm Red Lobster gần nhà xin việc. Người
manager hỏi bà có làm waitress bao giờ chưa? Dạ chưa. Bà có khi nào
làm chủ nhà hàng chưa? Dạ chưa. Cứ bà có bà có bà có…, dạ chưa dạ
chưa dạ chưa… và thế là tiền ăn chết không hết chỉ là mộng ảo.
Tôi mua tờ báo thấy rao là “Chương tŕnh CETA của
chánh phủ sẽ trả tiền trường cho một năm học để giúp bạn học các
nghề văn pḥng như thơ kư, kế toán, phụ tá hành chánh v.v… Mỗi tuần
chương tŕnh sẽ tặng bạn bốn chục đô để di chuyển và sau khi tốt
nghiệp sẽ kiếm việc làm cho bạn…”. Tôi nói với anh đây chắc hẳn là
một sự lường gạt v́ làm ǵ lại có sự tốt đẹp như thế. Anh th́ lớn
lên đă nhập ngũ, phần nhiều thời gian nếu không lang thang trên biển
cả th́ cũng đóng quân ở một xứ khác ngoài Mỹ nên đối với xă hội dân
sự cũng có chút bỡ ngỡ. Tôi hăng hái tới cơ quan xin vào chương
tŕnh thơ kư. Người phụ trách chương tŕnh thấy tôi là người tị nạn,
chồng lại là cựu quân nhân, h́nh dạng có vẻ nghèo nên thương tôi.
Sau khi nói chuyện và đọc cho tôi viết một đoạn anh văn , bà nhận
tôi vào chương tŕnh thơ kư. Khi tôi lui cui làm giấy tờ, bà dịu
dàng hỏi:
“Bà có giỏi toán không? Làm nhân viên kế toán th́ nhiều lương hơn
thơ kư thường và rất dễ kiếm việc làm.”
Tôi không dám trả lời v́ không biết “toán” của bà thuộc về loại ǵ
nên ngập ngừng:
“Dạ tôi cũng không biết chắc.”
Bà lấy ra một bài thi toán đưa cho tôi. Ái dà, bà
ơi. Có phải là bà đang chà đạp cái trường Gia Long của tôi không?
Tôi là học sinh đệ nhất A đây nha bà, dù tôi không được như bà Dương
Nguyệt Ánh ngày nay phát minh ra cái ǵ là bom t́m nhiệt th́ ba cái
25% của 100 là bao nhiêu, 1/3 của 75 có lớn hơn 2/3 của 40 không
v.v.. là cái chuyện nhắm mắt cũng trả lời được.
Một năm sau tôi được giới thiệu vào làm cho công ty nhà hàng Dennys,
bộ phận kế toán xuất nhập.
Làm việc bảy năm tại Dennys tôi đă học được biết bao điều về gia đ́nh, xă hội, dân t́nh Mỹ. Trong những buổi ăn trưa tôi học đan áo, học móc khăn, học cách nấu món ăn Mỹ, Ư, Tây Ban Nha, học cách dạy con, cách đối xử với chồng, học cách không bao bạn ăn để rồi kể lể khi giận hờn nhau, mà mạnh ai nấy móc túi trả phần ḿnh và t́nh bạn th́ không bao giờ sứt mẻ.
Những người bạn ngoại quốc mới nầy giúp tôi hoàn
thiện ngôn ngữ, hiểu rơ những tiếng lóng, sử dụng thành thục những
thành ngữ, trả lời điện thoại một cách chuyên nghiệp. Giúp tôi biết
nói cám ơn với con cái. Biết dằn ḷng không mở thư của chúng ra kiểm
soát. Biết chỉ dẫn chúng tự thực nghiệm cuộc đời hơn là bao che lầm
lỗi. Biết nói xin lỗi khi phạm phải sai trái. Biết văn minh không
phải là mặc áo hở ngực hở mông mà là tuân thủ theo hiến pháp. Biết
tự do không phải là mạnh ai nấy làm mà là kính trọng nhân vị của
chính ḿnh và của đồng loại. Biết thành công là nhờ vào sự mẫn cán,
học hỏi, cầu tiến chớ không nhờ vào nịnh bợ lấy ḷng. Biết các sắc
dân khác cũng đầy thương yêu và nhiều đau khổ. Biết kính trọng người
Mỹ đen. Biết thương yêu người Mễ nghèo. Họ cười lăn lóc với cái
accent Á đông của tôi nhưng họ không chê tôi dốt nát. Họ chỉnh sửa
lại những tiếng tôi dùng sai trật nhưng không có ư khinh khi. Họ
không đánh giá tôi cao v́ tôi đến từ gia đ́nh trưởng giả như tôi
khoe khoang. Họ không nh́n tôi thấp kém v́ tôi thuộc third world
country như báo chí thường đăng tải. Họ nh́n tôi giống như họ, một
người vợ, một người mẹ đang cố gắng kiếm tiền một cách lương thiện
để giúp chồng nuôi dạy đàn con.
Chín muơi phần trăm nhân viên kế toán là đàn bà. Đây là những bà mẹ,
bà vợ ban ngày làm toàn thời gian, chiều về nấu ăn chăm lo con cái,
cuối tuần giặt giũ, lau chùi nhà cửa, dạy con làm bài tập, đi chợ,
đi chơi với gia đ́nh. Họ sống b́nh thường mà c̣n giỏi hơn tôi là
đằng khác.Vậy mà khi xưa tôi cứ nghĩ đàn bà Mỹ là đồ bỏ. Tôi mang
tội khinh người. Khi ở ViệtNam tôi ít khi nào giặt quần áo cho tôi,
cho chồng, cho con. Tôi chưa khi nào lau chùi cầu tiêu, thức khuya
dậy sớm cho con bú, kiểm soát từng bài văn điểm toán cho con. Tất cả
đều có anh tài xế, chị vú, anh bồi, chị bếp, cô giáo dạy kèm. Biết
bao người đă than trời trách đất rằng sống ở đây sao mà cực quá, xă
hội ǵ mà sướng đâu không thấy chỉ thấy cái ǵ cũng tự ḿnh làm,
thời gian hưởng thụ chẳng bao nhiêu mà làm việc th́ quay tṛn như
chong chóng chẳng lúc nào ngừng. Cực ơi là cực. Chỉ chăm chăm muốn
về ViệtNam hưởng thụ.
Bạn ơi, bạn hăy dừng chân một bước. Bạn hăy mỉm cười cầm từng món đồ dơ bỏ vào máy giặt, nh́n vết bẩn trên chỗ đầu gối và h́nh dung lại gương mặt mếu máo đáng yêu của con nhỏ khi té quị xuống bải cỏ, nhớ lại ánh mắt chờ mong tin tưởng của con khi mẹ đến đỡ lên. Bạn hăy nh́n cả nhà húp xột xoạt chén canh bầu, cùng chia nhau miếng sườn nướng, cuộn chả gị. Bạn hăy cúi xuống đứa bé đang nở nụ cười ngây thơ chờ mong b́nh sữa bạn đang đu đưa trước mặt. Bạn hăy vừa xào món tàu hủ vừa trả lời thằng con đang cắm cúi làm bài tập bên kia bàn là Los Angeles không phải là thủ phủ của California con ơi. Thủ phủ của CA là Sacramento hoặc square of three is not three, its nine. Và năm phút sau đứa con vui vẻ đứng dậy: “Thank you mom( or dad). My home work is done”.
Đây mới chính là lúc bạn sống, là lúc mà bạn
xuyên thủng qua lớp giáp để linh hồn và huyết nhục bạn và gia đ́nh
cùng hoà quyện vào nhau. Đây chính là lúc hột mè trí tuệ nảy nở
trong các con do bạn gieo xuống, lúc hạt giống t́nh yêu thẩm thấu
vào linh hồn chúng do bạn cày cấy vào.Chúng sẽ lớn lên với ân cần
bạn gởi vào chén cơm, với giúp đỡ bạn xẻ chia trong bài tập, với
thương yêu bạn vuốt thẳng áo quần, với mồ hôi bạn chảy dài trong
trận đấu.Và vợ chồng bạn có cùng một trận tuyến, cùng một hướng
nh́n.
Trong suốt mấy chục năm sống trên đất Mỹ tôi thỉnh thoảng bị kỳ thị
chung bởi những người lạ v́ tôi là người Á đông nhưng chính bản thân
tôi, tôi chưa hề gặp sự kỳ thị nào có lẽ v́ tôi đă sớm hoà nhập vào
xă hội nầy, tôi quên bỏ cái ư tưởng tự cao, nh́n cái ǵ của người
cũng cho là không bằng ViệtNam. Đàn ông, đàn bà, ấm thực, ngôn ngữ,
văn hoá, phong tục, đối xử, giáo dục, gia đ́nh… cái ǵ Mỹ cũng thua
ViệtNam hết, đừng cho con cái giao thiệp thân mật với trẻ con Mỹ mà
bị hư, không dạy được! Tôi th́ nghĩ là không có khu vườn nào hoàn
toàn, không có ít nhiều cỏ dại. Tôi thành thật học hỏi, công b́nh so
sánh, loại bỏ điều xấu, áp dụng điều tốt và biết ơn những bài học
mới mẻ, những đối xử nhân đạo, những giúp đở trân quí mà tôi và gia
đ́nh đă hưởng nhận. Và khi qú trước mặt đấng tối cao, ḷng tôi
thanh thản khi tự biết ḿnh là một người biết ơn và trả ơn với tất
cả trái tim.
Tôi đă từ bỏ quê hương điêu tàn, đă quay lưng với
tương lai đen tối. Tôi đă chọn một nơi khác để cất nhà, một miếng
đất khác để gieo hạt. Tôi đă dùng nước sông của họ để tưới tẩm, dùng
đồi núi của họ để chăn nuôi. Tôi đă dùng chất xám của họ để tiến
thân, dùng ḷng tốt của họ để sống c̣n. Tôi không bao giờ quên ḍng
máu Việt trong tôi nhưng tôi sẽ không ngồi đó nh́n non nước nầy, dân
tộc nầy với một ánh mắt hờ hững, dửng dưng, một thái độ vô ơn, rẻ
rúng. Tôi sẽ không coi đây chỉ là một mảnh đất tạm dung và ngồi khóc
thương cho một khung trời đă mất, mơ tưởng về một dĩ văng đă tàn
phai. Tôi sẽ ḥa vào các chủng tộc khác nhau, rơi lệ khi thấy ṭa
nhà chọc trời sụp đổ, đau thương khi nh́n xác lính được chở về, hân
hoan khi nghe bài quốc ca trong các cuộc tranh tài. Tôi sẽ dạy các
con cùng tôi nhận nơi nầy làm quê hương, sẽ đem tất cả khả năng lao
động hay học vấn đóng góp vào sự thịnh vượng chung của quốc gia nầy.
Thay v́ trồng cây cổ thụ tạm thời trong một cái chậu nhỏ để nó chỉ
được lớn èo uột trong bóng râm, tôi và gia đ́nh muốn đào một hố sâu,
đổ đầy phân bón, tưới tẩm nó với tất cả ân cần, săn sóc nó với tất
cả sức lực để cho rễ mạnh nó ăn sâu vào ḷng đất, cho tàn xanh nó
tỏa rộng khắp không gian.
Chúng tôi không tạm dung. Chúng tôi mọc rễ và yêu thương quê hương
nầy. Rồi một ngày nào đó, ở bên kia góc trời có cần tới một bóng mát
b́nh an, chúng tôi sẽ chiết bớt một nhánh cổ thụ đem về…
Chúng tôi chỉ có thể làm như thế khi chúng tôi nhận nơi nầy làm quê
hương.
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Bụi đất và hư vô
Mùa Noel cũ
Cuối năm tiễn biệt Mẹ
Giọt máu rơi của
người lính chết trẻ
Chữ tín
Chọn Năm Căn
Nỗi bất hạnh đời tôi
A-1H Skyraider Tarin65
Thằng láng giềng
40 Năm tỵ nạn... Nh́n lại đoạn đường
Việt Cộng pháo kích trường Tiểu Học Cai Lậy 9/3/1974
Chuyện 10 năm trước. Ngày 3 tháng 12-2004
Bạn bè
Tấm thẻ bài
Ngôn ngữ lính
tráng Sài G̣n xưa
Tiểu Đoàn 66 Biệt Động
Quân Biên Pḥng
Hương Tràm Trà Tiên
Người cựu chiến
binh già
Tàn cơn binh lửa
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ -
Ngọn Cờ Đại Nghĩa
Chuyện một lá cờ
Cờ
vàng trong trái tim tôi
Nắng chiều
bên ghềnh thác Niagara
“Trâu Điên” Và Cố Vấn Mỹ...Muộn Vẫn Phải Nói...
V́ sao tôi là Nữ Quân Nhân?
Nhật kư trên tiền đồn Do Thái
Tảo
một mùa thu Arlington
Tướng Đỗ Cao Trí - Người chết không yên
Những người lính cùng chiến tuyến bảo vệ tự do
Mang các anh về miền đất tự do
Bầu trời đánh mất
Bằng Lăng
Như vạt nắng chiều
Đời sống người Việt tại Úc
Truyện một người lính gương mẫu
Sự thật cuối cùng đến quá trễ!
Hồi ức Sài G̣n thời lính tráng
Mẫu chuyện về Thống tướng TMT Lê Văn Tỵ
Mùi áo lính
Ôi! Chareles
Vở mănh tinh cầu
Chúng tôi mọc
rễ và yêu thương...
Thủ Đức - Một thời khó quện
Ba Tôi, Người Lính VNCH
Chuẩn Tướng Lương Xuân Việt
Thiên hùng ca dựng một ngọn cờ
Sống với đàn anh không phải dễ
Chiều lạnh giáo đường
Hoài niệm
Những v́ sao
của một thời tuổi thơ
Ngọn đuốc Lê Xuân Việt
Một chút mặt trời...
Trốn trại
Chuyến ra khơi đầu tiên
Hữu Loan và màu tím hoa
sim
Hệ thống thông tin gián điệp toàn cầu Echelon
Cho cuộc t́nh đầu
Ngày Quân Lực 19/06 tại Melbourne
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Một kỷ niệm xa xưa
Bố tôi, người
lính Việt Nam Cộng Ḥa
Điệp vụ
U2
Vụ tấn công USS Liberty
Ngày 19
tháng 6 dưới mắt một hậu duệ VNCH
Ngày Quân Lực 19 tháng 6 lần thứ 49
Cha là niềm tự
hào của Con
Vượt qua khỏi con
Trăng
Con gái của Ba
Nếu bạn
muốn thay đổi thế giới
Người
lính già trên chuyến tàu đêm
Trên đỉnh cô đơn
Một thoáng qua
hồn
Ban Mê Thuộc -
Ngày đầu ngày cuối
Mênh mang mùi
biển mặn
Rừng lá thăm anh
Vợ và những ngày
đầu đời lính
Hành quân lưu động biển LLĐN Duyên-Pḥng 213
Chị hai
Bóng ngả đường
chiều
Bài thơ t́nh
Thị Nở - Chí Phèo
Giọt nước mắt... v́ niềm kiêu hănh
Sức mạnh t́nh
chiến hữu
Những tản mạn về "Cố Vấn"
Đuờng chinh chiến
Chết tại Ban Mê Thuột
Bài t́nh ca ngày đó
Người trở lại
Pleime
Nhà thơ đi lính
Con rạch nhỏ quê ḿnh
Chuyện cái nón lá
Chuyến Taxi cuối
cùng của đời người
Chuyện của một người không có tội
Hoa Dă Qùy của anh!
Chỉ c̣n là kỷ niệm
Tháng Ba t́m về tử
lộ
Như cánh diều bay
10 tội đại ác của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản VN
Gió ơi! xin đừng thổi
Bánh ḿ và hoa
Hồng trong ước mơ của Mẹ
Những người vợ cùng
tuyến đầu
Đại Uư dũng cảm
Người Việt viết
tiếng Việt. "Người Giệc Giết" tiếng Việt
Đời Phi Công
Nợ Đời một nửa,
còn một nửa nợ ơn em
Từ trại tù ra biển khơi
Trường Phi Hành Hải Quân Hoa Kỳ Pensacola
Chỉ v́ một câu hỏi
Trại "tù" cải tạo – địa ngục trần gian ở VN
Con gái người ta
Bùi Giáng:
Diogenes thời đại !
Năm Ngọ nói
chuyện ngựa
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng