Nhà Thơ Đi Lính

Phạm Tín An Ninh

(Để tưởng nhớ Y-Broc Niê và Lại Trọng Hà)

Tôi không biết làm thơ. Chính xác hơn là tôi dốt đặc về thơ. Nhưng có điều tôi rất mê thơ. Thời mới vào trung học, tôi đă từng nắn nót chép những bài thơ của mấy ông Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Đinh Hùng, Thâm Tâm… vào những tập giấy pelure đủ màu xanh đỏ, đóng b́a cứng với cái tựa mạ vàng. Tôi c̣n thuộc ḷng hết mấy bài thơ t́nh của TTKH. Biết ai làm thơ hay, có đôi bài đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Năm, Phổ Thông, Phụ Nữ Diễn Đàn hay Văn Nghệ Tiền Phong là tôi xem như thần tượng, gởi thư cho ṭa soạn xin địa chỉ viết vài ḍng làm quen, dù rất hiếm khi nhận được hồi âm. Lớn lên, vào lính, ngoài hành trang ba lô súng đạn, tôi luôn mang theo hồn thơ lai láng. Khi ấy tôi cũng vừa khám phá ra điều thú vị: người lính, đời lính và t́nh yêu của lính chính là đề tài lớn nhất cho các nhà thơ, nhạc sĩ sáng tác. Những chiều dừng quân, nghe tiếng gió rừng ḥa tiếng suối reo, hay những lúc băng qua cánh rừng đầy hoa sim tím, tôi lại buột miệng th́ thầm vài câu thơ quen thuộc. Nàng thơ lúc nào cũng ngự trị trong tôi, theo tôi đến mọi chân trời góc biển.

Đơn vị tôi là một tiểu đoàn tác chiến lưu động, có mặt trên hầu hết các địa danh Vùng 2 Chiến Thuật, rày đây mai đó. Có khi buổi tối c̣n đóng quân trong núi rừng Quảng Đức, Lâm Đồng, chiều hôm sau lại có mặt ở bờ biển Tuy Ḥa, Phan Thiết. Tôi nhận trung đội với chỉ 25 người lính, Thượng nhiều hơn Kinh. Trong đó có một anh trung sĩ, tên Y- Broc Niê, có học hành, tư cách và kỷ luật. Đặc biệt anh có đôi mắt đẹp, mơ màng. Không biết gia đ́nh giàu có thế nào, nhưng nghe nói anh được học trường Tây, nói tiếng Pháp c̣n giỏi hơn tiếng Việt. Trong ba lô của anh lúc nào cũng có cuốn Le Petit Larousse rất cũ kỹ và vài cuốn truyện tiếng Pháp. Anh được tất cả lính Thượng trong đơn vị kính nể, bảo điều ǵ cũng nghe răm rắp. Ngược lại anh cũng luôn quan tâm lo lắng đến đời sống và tranh đấu cho quyền lợi của họ. Xin cho được đi phép và cam kết họ sẽ trở lại đơn vị (v́ thời ấy đa số lính Thượng khi về buôn bản, họ không muốn ra đi, bỏ lại nương rẫy vợ con nữa). Rất may là anh ta rất quí mến tôi.

Hai thằng trở thành bạn thân khi tôi biết anh cũng rất thích thơ và biết làm thơ. Những ngày đóng quân trong rừng, anh thường ngồi đọc cho tôi nghe mấy bài thơ t́nh lăng mạn của các ông Jacques Brévert, Lamartine. Anh c̣n cho tôi nghe những bài thơ được anh dịch ra tiếng Thượng, và dạy cho tôi nói một vài tiếng Ê-đê. Anh hănh diện khoe với tôi, anh là cháu ruột của nhân sĩ trí thức Y-Yut, người đă t́m hiểu mẫu tự La Tinh và vần Ê-đê để đặt ra bộ chữ viết Ê-đê ngày nay. Đôi lúc tôi thắc mắc và thầm tiếc là tại sao một người sắc tôc có tŕnh độ như anh mà chỉ làm trung sĩ tiểu đội trưởng tác chiến, tại sao chính phủ không xử dụng anh ở những vai tṛ khác hữu ích hơn? Nhưng rồi lại thấy nhờ may mắn có anh mà đời lính của tôi vui và thi vị hơn.

Một hôm, sau cuộc hành quân tại vùng Đa Ngư Phú Lạc, một khu núi đá nằm gần Vũng Rô-Đá Bia, đơn vị tôi thắng lớn, tịch thu cả một kho vũ khí của địch, được lệnh kéo về Tuy Ḥa làm lễ khao quân và tái bổ sung quân số, quân trang đạn dược. Trung đội tôi được nhận thêm sáu tân binh. Trong số đó có một trung sĩ và một hạ sĩ, mà trông mặt mày tôi đoán biết cũng chỉ vừa mới rời ghế nhà trường để “đi vào nơi gió cát”. Có điều khác là chàng trung sĩ trẻ th́ vui vẻ, năng động, kỷ luật c̣n anh hạ sĩ th́ hơi có vẻ lè phè, tóc tai để dài, có cả hàm râu mép, rất ít nói, thường trả lời chỉ bằng một cái gật đầu mỉm cười, lơ đăng. Tôi thường thấy anh ngồi một ḿnh tư lự, đôi khi nhắm mắt nh́n trời miệng thầm th́ những điều ǵ không ai hiểu được. Cái tên cũng đẹp: Lại Trọng Hà. Trùng họ và chữ lót với một thằng bạn khá thân của tôi thời trung học, Lại Trọng San. Mới đầu tôi nghĩ có thể là anh em v́ hai chữ San-Hà, nhưng anh ta cho biết là không có bà con dây dưa rễ má ǵ với thằng bạn của tôi cả. Sau này, tôi biết anh đă bị đánh rớt trong một khóa Hạ Sĩ Quan Đồng Đế. Thay v́ bạn bè ra trường với cấp bậc trung sĩ, chỉ duy nhất có anh là hạ sĩ.

Tôi vừa thấy tội nghiệp, nhưng cũng vừa có một chút thành kiến, nghĩ anh ta chắc cũng thuộc loại ba gai, bất cần đời, khó trị. Không khéo sẽ gây ảnh hưởng xấu cho đám binh sĩ khi tôi chỉ là thằng trung đội trưởng c̣n non choẹt, chưa có một chút kinh nghiệm chỉ huy cũng như chiến trường. Dù vậy, lúc nào tôi cũng tỏ ra thân thiện và giúp đỡ mặc dù anh không hề có bất cứ yêu cầu nào. Với một chút tâm lư, tôi không đưa anh ra tiểu đội, mà giữ anh lại ban chỉ huy trung đội, mang khẩu phóng lựu M-79. (Thời ấy loại súng M-79 mới được trang bị, c̣n rất hiếm, nên mỗi trung đội chỉ có một khẩu, và người lính nào mang M-79 được đi theo trung đội trưởng).

Không ngờ anh ta cũng rất thích thơ và thuộc rất nhiều thơ. Và dường như những bài thơ là sợi dây màu nhiệm buộc bọn tôi lại với nhau. Chỉ một thời gian, anh trung sĩ Y- Broc, hạ sĩ Hà và tôi trở nên rất thân t́nh. Ngoài t́nh đồng đội, chúng tôi xem nhau như là bạn, là anh em. Nhưng ông tiểu đoàn trưởng của tôi th́ không ưa chàng hạ sĩ này. Mỗi lần bắt gặp, ông luôn quát: “Ông tướng này phải cắt tóc tai cho đàng hoàng, cạo râu đi nghe chưa. Lè phè là không được với tôi đâu!” Tôi bảo nhỏ anh ta “thấy đại bàng phải né đi chứ!” Anh chỉ cười trừ rồi đâu cũng vào đấy. Đúng lúc ông trung sĩ 1 trung đội phó của tôi lên thượng sĩ, được chuyển về làm thường vụ tiểu đoàn, tôi xin rút trung sĩ Y-Broc về làm trung đôi phó. Ba thằng chúng tôi ở gần nhau hơn. Ăn cơm chung và nằm cạnh nhau dưới các giao thông hào. Y-Broc có biệt tài mưu sinh. Những lúc đóng quân giữa núi rừng, anh thường làm bẫy bắt thú rừng hay hái về những loại trái cây, rau rừng ăn được, những bữa cơm lính trở nên “thịnh soạn” hơn. C̣n anh chàng hạ sĩ th́ chỉ mang về các cụm lan rừng hay đôi cành hoa sim tím treo lủng lẳng trên đầu vơng hay trước các giao thông hào. Những chiều đóng quân, nếu không đụng địch, anh nằm đu đưa trên vơng, đọc cho bọn tôi nghe vài bài thơ hay. Không ngờ những bài thơ đă làm cho bọn tôi thấy đời lính đẹp hơn, lăng mạn hơn, mà quên bớt phần nào nhọc nhằn, nguy hiểm.

Cuối tháng, trung đội nhận được tờ báo Chiến Sĩ Cộng Ḥa do ban Tâm Lư Chiến tiểu đoàn phân phối, luân phiên trong đại đội. Theo thói quen, tôi mở đọc trang Thơ trước, và rất ngạc nhiên khi thấy một bài thơ đề tặng ḿnh, có ghi rơ đơn vị nữa. Bài thơ dài chiếm cả nửa trang giấy, thật hào sảng mà cảm động, có cả những địa danh mà đơn vị tôi vừa mới đi qua. Tác giả là một cái tên khá quen: Mây Cao Nguyên. Trước đây tôi đă đọc nhiều bài thơ của nhà thơ này và thường gật đầu tâm đắc. Nhưng tôi đâu có vinh dự gặp gỡ quen biết mà anh làm thơ tặng tôi. Và làm sao anh ta biết đơn vị tôi đă từng đi qua những địa danh xa lạ, những vùng núi rừng, hoặc làng mạc nghèo nàn, xác xơ heo hút, mà qua bài thơ bỗng trở nên thơ mộng và đẹp đẽ đến không ngờ?

Tôi đem bài thơ ra khoe với anh trung sĩ Y-Broc và hạ sĩ Hà, và hỏi có phải một trong hai người là thi sĩ Mây Cao Nguyên. Cả hai lắc đầu. Hà bảo Mây Cao Nguyên không phải con trai, là một cô bạn gái của anh, có lẽ đọc mấy lá thư của anh gởi về tả cảnh hành quân và ông trung đội trưởng trẻ tuổi dễ thương, nên cảm tác bài thơ ấy. Anh bảo có dịp anh sẽ giới thiệu bọn tôi với nhà thơ nữ này. Y-Broc dịch bài thơ ra tiếng Thượng đọc cho đám lính Thượng nghe. Tôi chẳng hiểu ǵ ngoài những tiếng vỗ tay của những người lính rất đỗi chân chất hồn nhiên ấy.

Một lần trung đội đang ăn cơm để chuẩn bị đóng quân đêm, bỗng ông đại đội trưởng đến tận nơi ra lệnh trung đội nghỉ ngơi một lúc chờ trời tối sẽ di chuyển đến một địa điểm để phục kích. Tin tức cho biết có một mũi công tác VC vừa xâm nhập vào khu làng nhỏ bên cạnh nhận tiếp tế, đến khuya hoặc trời gần sáng bọn họ sẽ rút trở lại lên núi. Trung đội được tăng cường thêm một tổ trung liên, có nhiệm vụ phục kích để tiêu diệt trên đường địch rút ra. Địa điểm phục kích là một ngă ba nằm phía sau làng, cách chân núi vài trăm thước. Ông đại đội trưởng đưa cho tôi tấm bản đồ, chỉ cho tôi cái ngă ba, hướng dẫn cách bố trí quân và vài điểm tác xạ tiên liệu Pháo Binh ông đă chấm sẵn. Tôi lấy hướng trên địa bàn và tính khoảng cách từ điểm xuất phát đến mục tiêu khoảng bốn cây số, di chuyển trên con hương lộ nhỏ. Tất cả chỉ mang theo vũ khí và đạn dược, balô gởi lại cho đại đội. Đúng 8 giờ xuất phát. Trời cuối tháng nên tối như mực. Tôi lo ngại có thể thất lạc hoặc bị lọt ổ phục kích. Y-Broc t́nh nguyện dẫn tiểu đội đi đầu. Những người lính Thượng rất có kinh nghiệm đi đêm trong rừng. Đôi mắt của họ như là những ngọn đèn thần.

Chưa tới ba mươi phút, đă đến ngă ba. Tôi nắm tay từng anh tiểu đội trưởng đến địa điểm chỉ cách bố trí, và gài ḿn Claymore phía trước tuyến phục kích. Hai cây trung liên Bar được đặc trên hai mô đất cao có xạ trường tốt nhất hướng về phía con đường làng, nơi địch sẽ rút ra. Y-Broc xin theo tiểu đội người Thượng được tăng cường tổ trung liên, nằm riêng tại địa điểm trọng yếu, bên kia ngă ba đường, nơi địch sẽ xuất hiện trước nhất. Anh cẩn thận gài một quả ḿn Claymore ở phía sau tuyến đề pḥng bất trắc. Tôi ra lệnh luân phiên canh gác và nghỉ ngơi, đến 12 giờ đêm tất cả đều phải thức để sẵn sàng tác chiến. Khi nào địch di chuyển đến giữa ngả ba, tôi sẽ đích thân bấm trái ḿn Claymore tại đây thay cho lệnh khai hỏa, tuyến quân của Y- Broc là nỗ lực chính tấn công và chốt địch phía sau. Kiểm soát các tiểu đội xong, tôi trở về vị trí, dựa lưng vào một mô đất duỗi đôi chân ra nghỉ.
Khoảng hơn nửa giờ sau, có tiếng vài con chim lạ, dấu hiệu có người. Tôi đang nghe ngóng và phân vân không biết mấy con chim này thấy ta hay địch th́ giật ḿnh bởi tiếng ḿn Claymore nổ chát chúa ngay hướng trước mặt, bên kia đường, sau tuyến của Y-Broc, cùng những tiếng la hét thất thanh. Nhiều tràng đạn khai hỏa từ cánh quân của Y-Broc. Rồi tiếng súng địch nổ khắp nơi, có cả tiếng trung liên, đại liên và B.40. Những vệt đạn lửa đan xéo trên đầu, trong màn đêm tĩnh mịch. Hỏa lực địch tập trung vào vị trí tiểu đội của Y-Broc. Tôi nghe tiếng hô xung phong của địch và biết lực lượng địch ít nhất cấp đại đội, nên không thể liều lĩnh. Hơn nữa tôi chưa nắm vững đựợc t́nh h́nh và vị trí địch. Tiểu đội Y-Broc chống trả mănh liệt.

Nhờ nằm dưới một con mương khô, bám được vị trí che chắn tốt, và những tràng đạn trung liên cùng những quả lựu đạn M-26 liên tục tung ra hiệu quả nên cánh quân của Y-Broc giữ vững được pḥng tuyến. Sợ địch phát giác, nên lợi dụng khi có tiếng súng và lựu đạn nổ, tôi báo cáo vắn tắt cho ông đại đội trưởng, xin tiếp ứng và Pháo Binh. Nhưng không thể cận yểm được v́ địch với ta quá gần nhau, nên tôi chỉ xin tác xạ vào các điểm tiên liệu ngay sau lưng địch, vừa uy hiếp vừa dồn chúng lại, để chúng tôi đánh bằng lựu đạn. Hai tiểu đội c̣n lại bên này đường đă nhanh chóng dàn mỏng đội h́nh dọc theo con lộ tạo thành một tuyến h́nh chữ L để đánh bên sườn địch. Cây trung liên cùng với khẩu M-79 của hạ sĩ Hà di chuyển liên tục khai hỏa vào bên hông địch, để vừa không lộ vị trí vừa nghi binh để bọn chúng nghĩ là lực lượng chúng tôi đông đảo hơn chứ không phải chỉ một trung đội.

Địch không c̣n tập trung áp đảo tiểu đội của Y-Broc mà bung ra hướng tôi đối phó. Khẩu đại liên của chúng chuyển hướng, liên tục khạc đạn vào chúng tôi trong một khoảng cách thật gần với tầm rất thấp, làm chúng tôi không ngóc đầu hay di chuyển được. May mắn là có một con mương nhỏ dọc theo lề đường tương đối an toàn để chúng tôi ẩn nấp. Tôi gọi xin Pháo Binh bắn hai quả soi sáng. Khi trái sáng được bắn lên, tôi thấy vị trí khẩu đại liên của chúng được đặt trên miệng một cái hố lớn bên kia đường, có xạ trường tốt. Rất khó khăn và nguy hiểm để chúng tôi có thể băng qua con đường đất, tiếp cứu tiểu đội Y-Broc. Bỗng có người đập nhẹ vào vai, quay lại tôi nhận ra Hà. Anh ta dúi khẩu M-79 đă hết đạn cho tôi và bảo cho anh xin thêm hai quả lựu đạn “để triệt khẩu đại liên ác ôn của tụi nó” (Lúc ấy mỗi người lính đều được trang bị 2 quả lựu đạn M-26). Tôi chưa kịp hỏi ǵ th́ Hà biến mất. Cầm chân được chúng tôi, địch lại tập trung áp đảo và bao vây tiểu đội Y-Broc. Tiếng địch la hét hô “xung phong”nhằm uy hiếp tinh thần.

Bỗng tôi nghe ba tiếng lựu đạn nổ liên tiếp cùng những tiếng la hốt hoảng và tiếng chân của quân địch chạy. Tôi nghĩ ngay đó là lựu đạn của Hà. Khẩu đại liên của địch im tiếng. Chúng tôi nhanh chóng băng qua đường và đồng loạt tập kích bên cạnh sườn địch bằng một loạt những quả lựu đạn tung ra cùng môt lúc. Trên 20 trái lựu đạn tạo thành tiếng nổ kinh hồn, như rung chuyển cả cánh rừng và mặt đất. Bọn đich tháo chạy dưới những tràng đạn Pháo Binh của ta bắn chặn. Chúng tôi có lệnh không truy kích, v́ chưa kiểm soát được tổn thất và bắt tay với cánh quân của Y-Broc.

Tôi lên tiếng gọi Y-Broc, bảo ngưng mọi tác xạ và tránh ngộ nhận, tôi sẽ đến gặp. Khi tôi vừa bắt tay Y-Broc th́ Hà cũng vừa chạy đến. May mắn cả hai đều không thương tích. Tôi bảo lần này nhờ vào sự can đảm liều lĩnh của Hà, diệt được khẩu đại liên địch, mới kịp tăng cường cứu nguy cho Y-Broc. Ba thằng vội vă ôm choàng lấy nhau. Y- Broc bảo vừa đánh địch phía trước vừa phải đề pḥng sau lưng, v́ sợ mũi công tác của VC từ trong làng kéo ra. Tôi bảo Y-Broc để một bán tiểu đội và tổ trung liên nằm tại chỗ, đề pḥng phía sau. Pháo Binh tiếp tục bắn trái sáng để chúng tôi bung ra lục soát. Rất may mắn như một điều kỳ diệu,, bên ta chỉ có hai binh sĩ Thượng bị thương, đều thuộc tiểu đội bên cánh của Y-Broc. Địch bỏ lại 9 xác chết và 12 vũ khí đủ loại, trong đó có một đại liên bị hư hại và một khẩu K-54. Hai tên bị thương nặng, chúng tôi bắt sống. Đa số địch chết v́ lựu đạn và ḿn Claymore. Năm tên banh xác dưới cái hố lớn nơi đặt khẩu đại liên, bị hạ sĩ Hà tiêu diệt. Đây cái hố trũng do dân làng đào lấy đất đắp đường để lại.

Khi đại đội (-) tiếp ứng đến nơi, t́nh h́nh đă hoàn toàn yên tỉnh. Ông đại đội trưởng ôm lấy chúng tôi mừng rỡ. Cả đại đội được lệnh vừa di chuyển về vị trí tiểu đoàn vừa an ninh lộ tŕnh để xe tản thương đến đưa thương binh về bệnh xá, kể cả hai tên địch.

Sáng hôm sau, chúng tôi được ông Tiểu Đoàn Trưởng và ông Tiểu Khu Phó đến thăm, bắt tay khen ngợi, bảo là tin tức t́nh báo không chính xác. Đám VC vừa tao ngộ chiến với chúng tôi không phải là mũi công tác như được cho biết là đă xâm nhập vào làng từ lúc chạng vạng tối. Thực ra đây là đại đội địa phương của chúng đă hạ sơn trễ, mục đích chiếm ngôi làng này và tấn công quấy rối vào vị trí đóng quân của tiểu đoàn, may mà chúng tôi phát giác và phản ứng kịp thời. Tôi gọi hạ sĩ Hà đến và kể lại thành tích bất ngờ nhưng hào hùng của anh. Hai ông cười, bắt tay Hà khen ngợi.

Chiến công bất ngờ lần ấy, trung đội tôi được tưởng thưởng 5 anh dũng bội tinh. Một ngôi sao vàng và 4 ngôi sao bạc. Điều vui hơn, là từ hôm đó, ông tiểu đoàn trưởng đă nh́n Hà bằng cặp mắt khác. Có nhiều thiện cảm hơn.

Khoảng hai tháng sau, trung đội được lệnh đi tiền đồn, bố trí quân trên một ngọn đồi có nhiểu tảng đá lớn che chắn, một bên là núi, phía dưới là biển ŕ rào, trên trời th́ trăng sao vằng vặc. Khung cảnh thật thơ mộng, nên trời đă khuya mà ba thằng chưa ngủ, nằm cạnh nhau bên hốc đá tán gẫu chuyện thơ văn. Đang ngâm nga mấy bài thơ của thi sĩ Đinh Hùng th́ VC pháo kích mấy quả 80 ly rồi từ bên kia núi bắn sang nhiều loạt AK và hô xung phong. Tôi nghĩ chúng chỉ hù dọa v́ khoảng cách khá xa. Hơn nữa ngọn đồi chúng tôi đóng quân khá kiên cố. Ba thằng vội ḅ dậy, hạ sĩ Hà lấy cây M-79 thọt sang mấy quả, c̣n tôi th́ điều chỉnh pháo binh tác xạ mấy tràng. Yên lặng.

Trở lại hốc đá, Hà và tôi không thấy Y-Broc đâu cả. Vài phút sau nghe tiếng lựu đạn nổ phía sau, cả trung đội báo động. Tôi chưa biết chuyện ǵ xảy ra, th́ Y-Broc chạy tới, bảo là có đặc công đôt nhập từ hướng biển, nơi mà chúng tôi không ngờ. Th́ ra bọn địch chơi tṛ dương đông kích tây. Y-Broc có kinh nghiệm và đă nhanh trí trước mưu đồ của chúng, nên kịp phát giác. Tôi xin Pháo Binh bắn soi sáng. Và nhờ đă chuẫn bị các dấu hiệu nhận nhau cột trên cánh tay và mật khẩu, chúng tôi dễ dàng kiểm soát t́nh h́nh. Một tên địch bị banh xác bởi trái lựu đạn của Y-Broc. Hai tên khác bị lộ, nấp dưới một hố nhỏ, tôi cho ném lựu đạn cay và bắt được chúng.

Thêm một lần nữa trung đội lập được chiến công, nhưng cũng không phải nhờ tài năng hay đảm lược ǵ của tôi, anh chàng trung đội trưởng.
Không ngờ một anh hạ sĩ bị đánh rớt từ quân trường Đồng Đế, và một anh trung sĩ người Thượng hiền lành, đều là hai nhà thơ lăng mạn, chuyên khóc gió thương mây, mà lập được những chiến công hiển hách, cứu tôi và cả trung đội hai lần thoát khỏi t́nh huống hiểm nguy. Riêng tôi đă học thêm được một số kinh nghiệm chiến trường.

Sáu tháng sau, tiểu đoàn được tăng phái dài hạn một Chi Đoàn Thiết Quân Vận M-113, xuống tàu Hải quân di chuyển vào Phan Thiết, để mở lại con đường QL-1 từ Phan Thiết đến Phan Rang, đặc biệt giải tỏa khu vực dọc theo Mật khu Lê Hồng Phong bị địch làm chủ t́nh h́nh hơn hai tháng nay. Đồng thời giữ an ninh cho Công Binh thiết lập căn cứ Nora và Mara nằm bên quốc lộ. Cuộc hành quân kết thúc tốt đẹp. Chúng tôi nhận lệnh bàn giao các căn cứ và vị trí cho các đơn vị địa phương quân của TK B́nh Thuân, di chuyển đến phi trường quân sự Sông Mao để được không vận khẩn cấp bằng các phi cơ Caribou lên Quảng Đức. Mục tiêu cuộc hành quân lần này mới lạ và phức tạp hơn: trấn áp những cuộc nổi loạn của người Thượng, sau khi có tin một số sĩ quan người Kinh tại một căn cứ hay quận lỵ nào đó bị giết chết. Tôi thực sự khó xử khi trong đơn vị có khá nhiều người Thượng và đặc biệt trung sĩ Y-Broc là người mà tôi thương yêu quí mến. Nếu phải tấn công vào lực lượng người Thượng phản loạn, tôi không biết phải ăn nói làm sao, và liệu phản ứng của Y-Broc và các binh sĩ Thượng trong đơn vị sẽ như thế nào? Cuối cùng, không phải chỉ có tôi mà ông tiểu đoàn trưởng đă phải trông nhờ vào trung sĩ Y-Broc. Ông muốn anh về làm việc với bộ chỉ huy tiểu đoàn, nhưng anh một mực xin được tiếp tục ở lại trung đội với tôi và sẽ thi hành tất cả những ǵ vị Tiểu Đoàn Trưởng cần đến. Anh hứa sẽ giải thích cho tất cả anh em binh sĩ Thượng trong đơn vị hiểu và cũng t́nh nguyện làm trung gian ḥa giải giữa đơn vị tôi và lực lượng người Thượng nổi loạn ở Quảng Đức. Anh tin tưởng cuộc ḥa giải sẽ thành công để tránh những cuộc đụng độ giữa hai sắc tộc anh em Kinh-Thượng. Rất may, khi đến Quảng Đức, t́nh h́nh đă lắng dịu. Sau đó khi đơn vị hành quân qua các vùng có đông đúc người Thượng, trung sĩ Y-Broc trở thành một cán bộ Tâm Lư Chiến tài ba, đă cảm hóa được hầu hết những quân nhân và dân chúng Thượng trong vùng.

Quảng Đức là một tỉnh nhỏ, nằm heo hút giữa biên giới Lào-Việt, được Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm sáng lập với vài khu dinh điền, để định cư một số người Bắc di cư năm 54 và tạo thành một trọng điểm chiến lược. Có lẽ không một địa danh nào làm cho những người lính buồn chán bằng Quảng Đức. Vậy mà tiểu đoàn tôi được lệnh ở lại đây gần một năm, giữ an ninh cho khu dinh điền Đạo Nghĩa và thường xuyên hành quân tảo thanh dọc theo biên giới. Hơn mười tháng sau, ngay sau khi nhận lănh chức vụ đại đội trưởng, tôi được ông tiểu đoàn trưởng chỉ định dắt đại đội solo xuống núi, tăng cường cho TK Lâm Đồng, giữ an ninh cho Công Binh tái thiết mấy cây cầu trên QL-20 bị VC giật sập. Tôi kéo Y-Broc và Hà về ban chỉ huy đại đội. Chúng tôi đóng quân trên một đồi trà mà ông chủ là một người Pháp. Nhờ Y-Broc giỏi tiếng Pháp, nên ông chủ có cảm t́nh đặc biệt với bọn tôi, thường đăi bọn tôi những bữa ăn với rượu Tây và thỉnh thoảng lấy xe chở bọn tôi lên thành phố Đà Lạt rong chơi. Cà phê Tùng và quán Thủy Tạ trên hồ Xuân Hương là nơi mà bọn tôi thường có mặt. Hơn một tháng sau, đại đội được trả về tiểu đoàn, vừa di chuyển đến Di Linh, tham dự một cuộc hành quân khẩn cấp, tiếp viện Tiểu Đoàn 22 BĐQ. Đơn vị thiện chiến này vừa trải qua một cuộc hành quân dài hạn tại một mật khu nằm giữa ranh giới ba tỉnh B́nh Thuận – Ninh Thuân - Lâm Đồng, tiêu diệt một số đơn vị địa phương và phá hủy một số kho lương thực của địch. Trên đường rút quân về Lâm Đồng thỉ bị một đơn vị địch khác vừa mới được điều động từ Vùng 3 đến làm nút chặn, bao vây. Địch đă tổ chức trận địa sẵn, đặt nhiều cái chốt với súng đại liên và cả đại bác trên các cao điểm. Tiểu Đoàn BĐQ chiến đấu dũng cảm trong một địa thế khá cam go. Nhưng điều bất lợi là đạn dược sắp cạn mà không thể nhận tiếp tế được.

Từ tuyến xuất phát đến mục tiêu khá xa, khoảng mười lăm cây số đường chim bay. Lúc ấy phương tiện c̣n eo hẹp, trực thăng H-34 đổ quân rất hiếm hoi, cả tiểu đoàn phải hành quân bằng đường bộ. Để di chuyển nhanh, binh sĩ chỉ trang bị súng đạn và lương khô. Ngoài ra c̣n phải mang theo thêm một cấp số đạn để tiếp tế khẩn cấp cho BĐQ. Tiểu đoàn chia làm ba cánh, hổ trợ nhau. Vừa di chuyển thật nhanh theo lộ tŕnh ngắn nhất, vừa tung các toán tiền thám ra phía trước và hai bên đề pḥng phục kích. Đại đội tôi đi chung với BCH Tiểu Đoàn và đại đội chỉ huy yểm trợ. Hơn hai phần ba lộ tŕnh, cả đơn vị dừng lại nghỉ vài phút, ăn cơm, chuẩn bị súng ống đạn dược cũng như tinh thần để tiến vào mục tiêu.

Khi có lệnh di chuyển, Y-Broc cho tôi biết hạ sĩ Hà tự dưng bị đau bụng khá nặng, không thể đi được. Tôi cho y tá đại đội đi mời anh sĩ quan trợ y tiểu đoàn đến khám. Hà mặt mày xanh mét, mắt nhắm lại v́ đau đớn, mồ hôi đổ đầy trên trán. Anh sĩ quan trợ y gốc cán sự y tế nhiều kinh nghiệm, cho biết hạ sĩ Hà bị sưng ruột thừa cấp tính. Anh cho Hà uống thuốc, nhưng bảo thuốc chỉ có thể giảm đau chốc lát, nhưng cần phải tải thương về quân y viện để giải phẩu. Nếu kéo dài ruột thừa có thể bị vỡ ra, nguy hiểm đến tính mạng. Tôi đi gặp ông tiểu đoàn trưởng tŕnh bày sự việc. Ông đi theo tôi đến tận nơi quan sát. Thấy ông đến nói chuyện với anh cố vấn Mỹ, nhưng sau khi gọi máy liên lạc với ai đó, anh ta lắc đầu. Sau một hồi suy nghĩ ông quyết định đem Hà giấu trong hốc núi, để lại cho anh ta một ít thuốc uống giảm đau, lương khô và bốn trái lựu đạn. Khi nào thanh toán xong mục tiêu, đơn vị sẽ quay trở lại đón anh. V́ không thể tải thương và cũng không thể khiêng anh vào mục tiêu trong lúc này được. Nh́n nét măt đăm chiêu khổ sở của ông tiểu đoàn trưởng, tôi biết rất khó khăn để ông đưa ra quyết định này. Không thể v́ một người mà gây trở ngại cho cả một đơn vị, nhất là trong t́nh trạng đặc biệt khẩn cấp. Tôi nh́n Hà đau đớn mà đứt ruột.

Ông tiểu đoàn trưởng vừa bước chân đi, tôi vội chạy theo đề nghị xin cho tôi cử một tiểu đội, gồm những binh sĩ giỏi, nhanh nhẹn, vơng hạ sĩ Hà ngược ra điểm xuất phát sáng nay để xe tiểu đoàn đến đón đưa đi bệnh viện. Tôi xin nhận lănh mọi trách nhiệm được giao phó cho đại đội khi vào mục tiêu phía trước. Ông ngần ngừ, bảo rất nguy hiểm, theo kinh nghiệm, chắc chắn có vài toán thám sát của địch đă bám theo tiểu đoàn. Y-Broc nghe tôi tŕnh bày vội vàng chạy tới, đứng nghiêm chào, xin t́nh nguyện tổ chức và chỉ huy tiểu đội đặc biệt đưa hạ sĩ Hà ra khỏi vùng hành quân. Ông tiểu đoàn trưởng gật đầu, vỗ vai bảo Y-Broc phải hết sức cẩn thận. Y-Broc chọn tám người lính Thượng khỏe mạnh, nhanh nhẹn, và rất sở trường việc di chuyển trong rừng. Sau khi sắp xếp cho việc tải thương hạ sĩ Hà xong, cả đơn vị tiếp tục di chuyển về hướng mục tiêu. Tôi cảm thấy lo âu, vừa cho sự an toàn của họ vừa thiếu mất một anh trung sĩ và mấy anh lính Thượng can đảm, giàu kinh nghiệm chiến đấu, khi đại đội sắp phải đánh vào một mục tiêu gay go trước mặt. Nhưng rồi lại thấy vui trong ḷng, khi nghĩ đến hạ sĩ Hà sẽ được b́nh an, cứu chữa.

Sau gần một tiếng đồng hồ, đơn vị đến mục tiêu. Không khí yên lặng nặng nề. Khi cho đại đội bung rộng ra thăm ḍ t́nh h́nh, tôi bỗng nghe nhiều tiếng súng nổ xa xa phía sau lưng. Tôi nghĩ có lẽ tiểu đội đặc biệt của Y-Broc đă đụng địch. Chưa kịp lo lắng cho số phận của anh em, nhất là hạ sĩ Hà đang trong t́nh trạng ốm đau không chiến đấu tự vệ được, th́ địch bắt đầu nổ súng tấn công đại đội. Tôi phát giác khẩu đại liên của địch trong hốc đá trên triền núi, sẽ là mối đe dọa cho đại đội. Cho binh sĩ tản vào các gốc cây và tảng đá tạm thời ẩn nấp, tôi xin tiểu đoàn tăng cường khẩu đại bác SKZ 75 ly, tác xạ liên tiếp 2 quả vào vị trí đại liên của địch, đồng thời cho trung đội đi một cánh riêng trên triền núi, ḅ lên ném tiếp mấy quả lựu đạn. Khẩu đại liên im tiếng. Tiểu Đoàn ồ ạt tấn công phía sau lưng địch. Khi thấy thêm vài ổ súng khác của địch trên triền núi, nhằm cầm chân đơn vị ta, anh sĩ quan đề-lô rất năng nổ của tiểu đoàn thay v́ gọi Pháo binh tác xạ, đă trực tiếp hướng dẫn phi công L-19, đánh dấu chính xác địa điểm các ổ đại liên và ống phóng hỏa tiễn của địch. Hai phi tuần khu trục thi nhau oanh kích.

Tiểu Đoàn 22 BĐQ biết có đơn vị bạn tiếp viện, đă anh dũng đánh ra. Địch quân bất ngờ bị kẹt trong thế gọng kềm, bung ra chạy thoát thân, nhiều tên bị các tay súng của ta đốn ngă. Tiếng anh phi công L-19 la hét vui mừng trên tần số, gọi các phi tuần tiếp tục răi bom xuống đầu địch. Khi đại đội tôi tiến lên bắt tay cánh quân Biệt Động Quân, rất bất ngờ và cảm động khi nhận ra anh đại đội trưởng BĐQ đi đầu lại là người bạn học cùng quê và cùng khóa Thủ Đức: thiếu úy Trương Tấn Anh. Anh bị thương nhẹ, trên cánh tay c̣n tấm băng rỉ máu, nhưng vẫn điều động đại đội phản công quyết liệt với số đạn ít oi c̣n lại sau một cuộc hành quân dài hạn, đă vậy c̣n phải mang theo một số thương binh, tử sĩ. Chia đạn cho anh em BĐQ xong, chúng tôi cùng tiếp tục truy kích, thu nhặt nhiều chiến lợi phẩm. Xác địch nằm la liệt trên trận địa.

Khi có lệnh tạm bố trí nghỉ ngơi, tôi sực nhớ tới Y-Broc cùng toán lính đưa hạ sĩ Hà ra lại Di Linh, ḷng bồn chồn, không biết họ ra sao. Mấy đợt súng nổ tôi nghe được trước khi tấn công mục tiêu có phải là họ đă phải chiến đấu với địch? Tôi cố gắng liên lạc, nhưng chỉ nghe tiếng rè rè của chiếc máy PRC- 10 (thời ấy chưa có PRC-25).

Măi đến khi rút quân ra hơn nửa đường, tôi mới nghe tiếng ông thượng sĩ chỉ huy tiền trạm báo cáo trên hệ thống vô tuyến: Toán của trung sĩ Y Kroc đă chiến đấu rất dũng cảm để tiêu diệt đám VC chặn đánh, cứu hạ sĩ Hà khỏi bị bắt. Tuy nhiên bên ta có trung sĩ Y-Broc và hai binh sĩ bị thương nhẹ. Riêng hạ sĩ Hà bị thương nặng, đă được tải thương về QYV Nguyễn Huệ - Nha Trang.

Vừa về đến Di Linh, ông tiểu đoàn trưởng và tôi chạy đến thăm Y- Broc tại bệnh xá của huyện. Anh bị một viên vào cánh tay trái, may mắn là không vào xương. Anh kể lại khi bị VC tấn công, tất cả đều quyết liệt phản công. Hà lại bị thương ngay loạt đạn đầu tiên của đich, dù không di chuyển được, vẫn nằm môt chỗ chiến đấu. Tôi nghiệp, hai anh lính vơng hạ sĩ Hà, v́ phải nằm lại bảo vệ Hà, nên đă trúng đạn địch. Nhưng chính nhờ hai anh lính này, mà Y-Broc và sáu khinh binh c̣n lại đă quật ngă đám địch. Anh chỉ lo cho Hà vừa bị trọng bệnh lại vừa bị trọng thương nên tính mạng rất mong manh.

Sau trận ấy, Y-Broc được chuyển về tiểu đoàn làm phụ tá SQ Tâm Lư Chiến. Nhưng chỉ một tháng sau, khi có lệnh cho các hạ sĩ quan gốc thiểu số được ưu tiên theo học khóa sĩ quan. Y-Broc rời đơn vị, nhập học một khóa sĩ quan ở trường Thủ Đức. Nhờ có sức khỏe và khả năng Anh, Pháp ngữ, anh được tuyển sang Không Quân, ngành phi công trực thăng. Ra trường được bổ nhậm về một phi đoàn thuộc Vùng 3. Sau đó một vài năm tôi mất liên lạc với anh.

Năm 1985, chỉ mấy tháng sau khi ra tù, tôi cùng vợ con vượt biển. Được tàu Na-uy cứu vớt trước khi một cơn băo ập đến. Chúng tôi được đưa vào trại tị nạn Singapore và sau đó chuyển tiếp sang trại Bataan ở Phi Luật Tân. Trại Bataan lúc ấy gồm có mười Vùng. Gia đ́nh tôi ở Vùng 1 là nơi dành riêng cho những người được tàu Na-uy vớt, được học ngôn ngữ Na-uy từ 6 đến 8 tháng trước khi đi định cư ở đất nước Bắc Âu lạnh lẽo nhưng rất giàu ḷng nhân đạo này.

Tôi tham gia vào Hội Cựu Quân Nhân do vị đại tá trại phó, người Phi, hỗ trợ mọi mặt. Ông đă từng có một thời gian phục vụ ở Việt nam trong lực lượng đồng minh và hết ḷng ca ngợi QLVNCH, cũng như rất đau đớn khi nghe tin miền Nam VN thất thủ. Ông đă bàn giao lại cho Hội Cựu Quân Nhân chúng tôi lá quốc kỳ của Ṭa Đại Sứ VNCH tại Manila. Hội Cựu Quân Nhân hỗ trợ các ban đại diện Vùng giải quyết các vấn đề an ninh trong trại.

Một hôm, một cô gái người Thượng đi tắm suối bị ba người lạ mặt bắt đưa vào rừng hăm hiếp. Địa điểm này lại nằm gần Vùng 1, nên mọi nghi ngờ đểu đổ dồn về Vùng 1 chúng tôi. Người Thượng tị nạn lúc ấy có khoảng 70 người, ở Vùng 2, tập trung kéo đến với gậy gộc, ḥ hét, đ̣i tập trung tất cả người Vùng 1 để cô gái kia nhận diện, tuyên bố là nếu t́m ra thủ phạm, họ sẽ tự giải quyết mà không cần đến ban chỉ huy trại.

Thấy t́nh h́nh quá căng thẳng, có thể nguy hiểm khôn lường, tôi nhờ anh Cảnh sát Phi, có trạm gác phía sau Vùng 1, liên lạc yêu cầu Đại Tá Trại Phó đến gặp tôi. Ông đại tá cho điều động cảnh sát vơ trang, nhưng chỉ chia nhau ẩn trong các dăy nhà, ngại người Thượng có thể liều lĩnh tai hại. Ông yêu cầu người Thượng đề cử một ban đại diện không quá 5 người vào trạm cảnh sát nằm sau Vùng 1 gặp một số đại diện người Kinh. Tôi nằm trong ban đại diện người Kinh ấy. Chúng tôi vào trạm trước ngồi chờ.

Khi nhóm đại diện người Thượng bước vào, và anh trưởng nhóm chào ông đại tá và chúng tôi, tôi há hốc miệng khi nhận ra người ấy chính là Y-Broc, người bạn đồng đội thân thiết rất dễ thương từng sống chết với tôi ngày trước, tôi gọi lớn tên anh:

- Có phải Y-Broc Niê ở tiểu đoàn Hải Ưng ngày xưa đây không?

Y-Broc ngước mắt nh́n rồi bước tới ôm chầm lấy tôi, trước sự ngỡ ngàng của tất cả mọi người. Anh quay lại nói với những người Thượng một tràng tiếng Thượng. Tôi không hiểu ǵ nhưng nhận ra nét mặt của họ đột nhiên dịu lại. Tôi kể cho ông đại tá về sự quen biết giữa chúng tôi, ông bắt tay hớn hở. Tôi nói với Y-Broc là chúng tôi sẽ phối họp với an ninh trại, cho điều tra thật nhanh chóng sự việc đáng buồn này. Kết quả thế nào tôi sẽ báo cho Y-Broc biết, để cùng t́m một giải pháp. Tránh để xảy ra trường hợp thù hận giữa hai sắc tộc như năm nào ở Quảng Đức mà chính Y-Broc từng là vị sứ giả ḥa b́nh. Y- Broc gật đầu cám ơn mọi người rồi dắt tay tôi ra chỗ những người Thượng đang tập trung chờ đợi phía trước, Anh ôm vai tôi, nói một hồi, toàn tiếng Thượng.

Không hiểu ǵ, nhưng tôi nhận ra cái giọng rất cảm động, có chút nghẹn ngào. Th́ ra anh ta vẫn có uy tín rất lớn với những người cùng sắc tộc. Những lời nói của anh đă nhanh chóng thuyết phục được họ. Tất cả im lặng kéo nhau về Vùng 2. Y-Broc mời ông đại tá trại phó và kéo tôi ra cái quán ở trước Vùng 5 uống bia, với sự cho phép đặc biệt của ông trại phó (người tị nạn không được phép uống bia rượu trong trại). Anh kể qua cho tôi nghe quăng đời binh nghiệp của anh sau này. Đặc biệt từ đầu năm 1971 anh được biệt phái giữ một chức vụ khá lớn trong Bộ Phát Triển Sắc Tộc.

Tuy nhiên, ḷng tôi chưa hết ưu tư, v́ nếu thủ phạm vụ hiếp dâm cô gái Thượng là người ở Vùng 1, liệu tôi sẽ phải ăn nói thế nào với anh và những đồng hương đang tin tưởng kính mến anh. Rất may, trời thương chúng tôi. Chỉ hai hôm sau, cảnh sát Phi đă bắt được thủ phạm, là ba thanh niên người Phi, thợ mộc được trại thuê vào làm việc.

Khi Y-Broc t́m đến găp tôi để cho biết tin này, chúng tôi có dịp ngồi bên nhau lâu hơn, ôn lại chuyện xưa. Y-Broc cho biết là anh vẫn c̣n độc thân. Khi làm việc ở Sài g̣n, anh bất ngờ gặp lại hạ sĩ Lại Trọng Hà. Nhờ đọc được mấy bài thơ của tác giả Mây Cao Nguyên, trong đó có nhắc lại nhiều kỷ niêm ở đơn vị cũ. Cảm động nhất là bài thơ kể lại lần nhà thơ thoát chết khi được những đồng đội dũng cảm người Thượng vơng ra khỏi vùng chiến trận. Anh không chết nhưng trở thành tàn phế. Y-Broc liên lạc với ṭa soạn của tờ tuần san có đăng mấy bài thơ để hỏi thăm tin tức và địa chỉ của tác giả Mây Cao Nguyên.

Khi t́m đến căn nhà sàn nhỏ nằm cuối con hẻm bên bờ sông Thị Nghè, Y-Broc đă gặp lại Hà. Anh sống với vợ chồng bà chị. Y-Broc bật khóc khi nh́n thấy cả hai chân của Hà đă bị cưa tới đầu gối. Hai người bạn vừa làm thơ vừa chiến đấu ngày xưa ôm lấy nhau mà không nói được lời nào. Họ uống rượu, đọc thơ, rồi khóc cho đến lúc say mèm nằm lăn ra ngủ lúc nào không biết.

Vài hôm sau, trên một tờ tuần san văn nghệ, Y-Broc đọc được bài thơ của Mây Cao Nguyên, đề tặng anh. Bài thơ khá dài, Y-Broc chỉ c̣n nhớ vài câu:

Sao lại là ta đến nỗi này
là Mây mà chẳng thấy mây bay
gặp mi ta nhớ rừng núi cũ
một thưở làm thơ giữa đạn thù
...
Thôi kể làm chi chuyện mất c̣n
ném đôi nạng gỗ xuống ḍng sông
c̣n dăm bầu rượu chia nhau cạn
gơ nhịp mà ca thiên nhất phương...

Năm 1978, khi trốn thoát khỏi trại tù Gia Trung - Pleiku, Y-Broc không dám trở về quê Ban Mê Thuột, v́ có rất nhiều người biết anh. Anh chạy thẳng vào Sài g̣n, nhờ người mua được giấy tờ giả, với một cái tên giả. Có lần anh trở lại con hẻm bên bờ sông xưa t́m thăm Hà, nhưng căn nhà ấy không c̣n, đă được phá đi để cất lên một ngôi nhà mới, và người chủ nhà cũng như những láng giềng không ai biết Hà, cũng như chưa bao giờ nghe nói có một nhà thơ Mây Cao Nguyên nào từng ở trong con hẻm nhỏ này.

Điều bất ngờ thú vị là sau đó Y- Broc cũng đến định cư ở Na-uy, v́ có cô em gái đă đến đây trước, làm hồ sơ bảo lănh cho anh. Tôi định cư sau anh năm tháng. Khi c̣n ở Bataan tôi có nhận của anh một ít tiền và mấy lá thư, chỉ cho một vài kinh nghiệm hội nhập và dặn ḍ đôi điều cần thiết khi đến Na-uy. Một tháng sau khi đến Na-uy tôi t́m thăm anh. Y-Broc ở một thành phố phía Nam, cách xa thủ đô Oslo, nơi gia đ́nh tôi ở khoảng 500 cây số. Anh xin được chỗ làm tốt trong Công ty dầu hỏa Na-uy. Vừa làm vừa học thêm. Ba năm sau anh làm đám cưới với một cô giáo người Na-uy. Vợ chồng tôi dự đám cưới, được vinh dự ngồi chung bàn cùng cô dâu chú rể.

Trong tiệc cưới tôi được anh mời lên kể cho thực khách nghe về những kỷ niệm của chúng tôi khi c̣n là lính chiến ở Việt nam. Tôi cũng không quên nhắc lại chuyện tôi bất ngờ gặp lại anh ở trại tị nạn Bataan, và chuyện một người bạn thương binh của chúng tôi, làm thơ rất hay, đánh giặc rất liều, có thể c̣n sống ở đâu đó tại quê nhà mà chúng tôi rất nhớ. Sau đó, bận rộn chuyện học hành, lo cho con cái hội nhập vào quê hương mới, chúng tôi chỉ thỉnh thoảng gọi phôn thăm, đôi lúc nhận được vài bài thơ của anh làm, được dịch ra tiếng Na-uy.

Năm sau, chị vợ sinh cho anh một cô con gái. Trông tấm ảnh. Cô bé lai khá xinh. Ngày cháu tṛn ba tuổi, vợ chồng tôi có ư định xuống thăm và mừng sinh nhật cháu. Tôi nghĩ người Thượng theo chế độ mẫu hệ, nên được con gái đầu ḷng chắc Y-Broc vui mừng lắm. Nhưng gọi mấy lần không gặp anh, chỉ nói chuyện với cô vợ. Lần cuối cùng cô sụt sùi cho biết là Y-Broc đă biến mất. Người em của anh cho biết là anh đă cùng vài người bạn cùng buôn bản lúc xưa, định cư ở North Carolina bên Mỹ, t́m đường trở về biên giới Việt nam, tổ chức cho những người Thượng nổi dậy chống chính quyền CS và cứu một số bạn bè chiến hữu người Thượng bị truy bắt, phải vượt qua biên giới c̣n đang ẩn trốn ở đâu đó. Cho măi đến bây giờ vẫn không ai biêt tin tức của Y-Broc. Chắc chắn là anh đă chết.

Tôi thẫn thờ cả mấy ngày, như vừa mới mất đi một người thân, một người bạn chí t́nh, khí khái và có tâm hồn, nghĩa hiệp. Tôi cũng nhớ tới Lại Trọng Hà, nhà thơ Mây Cao Nguyên. Không biết giờ này anh đang ở đâu, và với đôi chân tàn phế ấy, anh sẽ phải sống như thế nào trong một xă hội mà kẻ thù đang ngự trị. Lúc trước anh c̣n có thể xoa dịu vết thương cùng nỗi bất hạnh bằng những bài thơ viết với trái tim ḿnh, nhắc nhớ kỷ niệm chiến trường cùng những đồng đội yêu thương. Giờ th́ ôm bao nỗi đau trong ḷng mà chẳng biết chia sẻ cùng ai. Một vài lần bán sách góp vào quỹ các tổ chức cứu trợ thương phế binh, tôi có nhờ các vị trong những tổ chức nhân đạo này, nhưng không ai t́m thấy tên Lại Trọng Hà trong các hồ sơ hoặc danh sách thương phế binh xin trợ giúp..

Trong những giấc mơ đôi lúc tôi thấy ba thằng chúng tôi nằm bên nhau, ngâm nga thơ phú trên ngọn đồi có nhiều tảng đá, một bên lá núi một bên là biển, giữa bầu trời vằng vặc trăng sao, trong tiếng đạn pháo và tiếng hô xung phong của đám quân thù. Giật ḿnh tỉnh giấc, tôi có cảm giác như đang chơi vơi lơ lửng trong một khoảng không bao la nào đó.

 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Đời người như thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng ḿnh
Hai h́nh ảnh - một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè không thể quên !
Họp mặt
Những cái tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh của 5 ngày t́m về một thời tuổi trẻ  
Kỷ niệm Quân trường: Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Bài vở cũ 2013 
Bài vở cũ 2012


Bụi đất và hư vô
Mùa Noel cũ
Cuối năm tiễn biệt Mẹ
Giọt máu rơi của người lính chết trẻ
Chữ tín  
Chọn Năm Căn  
Nỗi bất hạnh đời tôi  
A-1H Skyraider Tarin65
Thằng láng giềng  
40 Năm tỵ nạn... Nh́n lại đoạn đường  
Việt Cộng pháo kích trường Tiểu Học Cai Lậy 9/3/1974  
Chuyện 10 năm trước. Ngày 3 tháng 12-2004  
Bạn bè  
Tấm thẻ bài  
Ngôn ngữ lính tráng Sài G̣n xưa  
Tiểu Đoàn 66 Biệt Động Quân Biên Pḥng  
Hương Tràm Trà Tiên  
Người cựu chiến binh già  
Tàn cơn binh lửa  
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ - Ngọn Cờ Đại Nghĩa  
Chuyện một lá cờ
Cờ vàng trong trái tim tôi
Nắng chiều bên ghềnh thác Niagara  
“Trâu Điên” Và Cố Vấn Mỹ...Muộn Vẫn Phải Nói...
V́ sao tôi là Nữ Quân Nhân? 
Nhật kư trên tiền đồn Do Thái
Tảo một mùa thu Arlington
Tướng Đỗ Cao Trí - Người chết không yên 
Những người lính cùng chiến tuyến bảo vệ tự do
Mang các anh về miền đất tự do
Bầu trời đánh mất
Bằng Lăng
Như vạt nắng chiều
Đời sống người Việt tại Úc
Truyện một người lính gương mẫu
Sự thật cuối cùng đến quá trễ!
Hồi ức Sài G̣n thời lính tráng  
Mẫu chuyện về Thống tướng TMT Lê Văn Tỵ  
Mùi áo lính  
Ôi! Chareles  
Vở mănh tinh cầu
Chúng tôi mọc rễ và yêu thương...  
Thủ Đức - Một thời khó quện  
Ba Tôi, Người Lính VNCH  
Chuẩn Tướng Lương Xuân Việt   
Thiên hùng ca dựng một ngọn cờ  
Sống với đàn anh không phải dễ
Chiều lạnh giáo đường  
Hoài niệm  
Những v́ sao của một thời tuổi thơ  
Ngọn đuốc Lê Xuân Việt  
Một chút mặt trời...  
Trốn trại  
Chuyến ra khơi đầu tiên
Hữu Loan và màu tím hoa sim  
Hệ thống thông tin gián điệp toàn cầu Echelon 
Cho cuộc t́nh đầu  
Ngày Quân Lực 19/06 tại Melbourne 
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến 
Một kỷ niệm xa xưa  
Bố tôi, người lính Việt Nam Cộng Ḥa  
Điệp vụ U2  
Vụ tấn công USS Liberty  
Ngày 19 tháng 6 dưới mắt một hậu duệ VNCH  
Ngày Quân Lực 19 tháng 6 lần thứ 49  
Cha là niềm tự hào của Con
Vượt qua khỏi con Trăng
Con gái của Ba
Nếu bạn muốn thay đổi thế giới
Người lính già trên chuyến tàu đêm
Trên đỉnh cô đơn  
Một thoáng qua hồn  
Ban Mê Thuộc - Ngày đầu ngày cuối  
Mênh mang mùi biển mặn  
Rừng lá thăm anh
Vợ và những ngày đầu đời lính  
Hành quân lưu động biển LLĐN Duyên-Pḥng 213 
Chị hai  
Bóng ngả đường chiều
Bài thơ t́nh Thị Nở - Chí Phèo  
Giọt nước mắt... v́ niềm kiêu hănh  
Sức mạnh t́nh chiến hữu  
Những tản mạn về "Cố Vấn"  
Đuờng chinh chiến  
Chết tại Ban Mê Thuột  
Bài t́nh ca ngày đó   
Người trở lại Pleime
Nhà thơ đi lính
Con rạch nhỏ quê ḿnh
Chuyện cái nón lá
Chuyến Taxi cuối cùng của đời người
Chuyện của một người không có tội
Hoa Dă Qùy của anh!
Chỉ c̣n là kỷ niệm
Tháng Ba t́m về tử lộ
Như cánh diều bay
10 tội đại ác của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản VN
Gió ơi! xin đừng thổi
Bánh ḿ và hoa Hồng trong ước mơ của Mẹ
Những người vợ cùng tuyến đầu
Đại Uư dũng cảm
Người Việt viết tiếng Việt. "Người Giệc Giết" tiếng Việt
Đời Phi Công
Nợ Đời một nửa, còn một nửa nợ ơn em
Từ trại tù ra biển khơi
Trường Phi Hành Hải Quân Hoa Kỳ Pensacola
Chỉ v́ một câu hỏi
Trại "tù" cải tạo – địa ngục trần gian ở VN
Con gái người ta
Bùi Giáng: Diogenes thời đại !
Năm Ngọ nói chuyện ngựa
Xuân và người lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên đầu súng