Nguyên Nhung
Hơn mười năm trở lại quê nhà, lúc bước xuống phi trường Tân Sơn
Nhất, buổi xế trưa trời nóng bức, không khí ngột ngạt, ông Bảo lặng
lẽ nối đuôi sau đám hành khách đang lục tục xếp hàng làm thủ tục hải
quan, mồ hôi vã ra đầy người. Người về lặng lẽ chờ, cảm giác có nôn
nao nhưng không láo nháo bằng đám người nhà đang đứng ở phiá ngoài
chờ đợi thân nhân. Khi ngồi trên chiếc taxi chạy ra khỏi phi trường,
ông Bảo mới ngỡ ngàng nhìn một Sài Gòn thay hình đổi dạng. Sài Gòn
đây rồi, hơn mười năm biền biệt vắng xa, ông Bảo cố tìm lại vài nơi
chốn quen ngày xưa khi chiếc xe tắc xi cố len lỏi chạy trong dòng xe
đầy nghẹt trên đường phố.
Thay đổi nhiều, nhưng ông Bảo không phải về để tìm điều gì trong cái
thành phố diện tích chật chội với tám triệu người dân đang chen chúc
nhau gần như không có không khí để thở.
Ông chỉ lướt qua Sài Gòn, rồi về nghỉ ở nhà bà con vùng ngoại ô
thành phố, chờ chuyến xe lửa ra Trung, ở đó có bà mẹ già của ông
đang thoi thóp những ngày cuối đời chờ đứa con xa trở về.
Đã quen với những xa lộ thênh thang cuả nước Mỹ, những khu nhà ở
cách xa nhau nằm ẩn mình sau những bóng cây xanh, phố xá cũng ít bộ
hành trên đường phố, ông Bảo cảm thấy hơi ngộp thở trước cái nóng,
cái bụi, cái ngột ngạt của một Sài Gòn đang chuyển mình để ngoi lên
với những đô thị lớn trên thế giới.
Hồi xưa ông ít khi có dịp về Sài Gòn, bởi thế với ông sự thay đổi ấy
không làm ông choáng ngợp bao nhiêu.
Mười hai năm ở quê người, mỗi lần nhớ về quê hương, trong óc ông hỗn
độn nhiều hình ảnh khắp ba miền đất nước, nhưng quả đáng tội, hồi
niên thiếu ông đã sống ở miền Trung, dải đất nghèo nhất trong ba
miền Trung Nam Bắc, nó đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng ông, dù
ông được sinh ra ở miền Bắc.
Trời đã dần tối, những vị sao giờ này mới nhấp nháy trên nền trời
tối thẫm như nhung. Bỏ lại Sài Gòn hòn ngọc Viễn Đông, thành phố ánh
sáng của những người giàu và là nơi trú ẩn cho những người nghèo
trong những hẻm hóc tối tăm không bình yên.
Nơi nào cũng vậy, ở Mỹ người ta vẫn có thể bắt gặp được những hình
ảnh tương phản cuả sự nghèo giàu, nhưng không quá chênh lệch như ở
Việt Nam.
Chẳng cần nhìn đâu xa, ngay trên chuyến tàu này, những người như ông
từ nước ngoài về, những du khách ngoại quốc muốn tìm cảm giác của
chuyến tàu đêm , hoặc những người thành phần khá giả ở trong nước
thường vẫn kiếm một chỗ khá đầy đủ tiện nghi trên xe lửa.
Còn ở những toa tàu ngồi, ông thấy trên khoảng trống cuả hai hàng
ghế ngồi, lổn nhổn những chân cẳng và hành lý ngổn ngang, người đi
tàu đang thu dọn để tìm một chỗ nghỉ lưng suốt đoạn đường dài ra
Trung, Bắc.
Toa ông ở có bốn người, hai anh Tây ba lô đi du lịch Việt Nam, một
người Việt có vẻ thuộc hạng khấm khá về thăm nhà ngoài Trung.
Khi vào phòng, mỗi người chỉ gật đầu mỉm cười với nhau rồi tìm chỗ
của mình.
Chiếc giường nệm trắng toát, có bàn để ngồi uống trà, vài cuốn quảng
cáo về du lịch để trên mặt bàn, ông bỗng nghe tiếng nhạc dặt dìu
vang lên , có lẽ từ lúc chuyến tàu đêm chuyển bánh mà ông không để
ý.
Quái lạ! Bản nhạc "Tàu Đêm Năm Cũ" được một cô ca sĩ có giọng trầm
buồn vẫn lồng lộng vang lên trên chuyến tàu đêm ra miền Trung, khiến
ông bàng hoàng lặng đi một chút khi nghĩ về những cảnh chia ly trên
sân ga hiu hắt ánh đèn mờ, ở những thập niên trước khi chiến tranh
còn đang sôi sục.
“Trời đêm dần tàn, tôi đến sân ga nơi tiễn người trai lính về ngàn,
tàu cũ năm xưa mang về trả cho tôi người xưa..."
Thốt nhiên, ông nghe mắt mình nằng nặng, cảm giác những chuyến tàu
đêm năm cũ hồi ông còn là một người lính bỗng ào ạt trở lại, như là
ông lại một lần nữa nhìn thấy bóng dáng người lính năm xưa, bùi ngùi
nắm tay người yêu trước giờ chia biệt, và tiếng còi tàu , ôi tiếng
còi tàu sao lúc ấy nó não nùng như hồi kèn truy điệu.
Ông vội nhắm mắt lại để đừng nghĩ gì nữa. Chung quanh ông còn lại
gì, chập chờn ảo giác cuả những hình xưa trở lại.
Không, ông vẫn đứng đây, bên khung cửa sổ cuả toa tầu hạng nhất, tóc
đã bạc, đôi mắt đã xụp mí khi về già, nhìn mải miết vào bóng đêm mịt
mùng để tìm lại những hình bóng cũ.
Con tàu tăng tốc độ, ông không nhìn rõ gì lắm, chỉ nghe vù vù tiếng
gió đêm thổi bạt hai bên tai.
Có lẽ sau hai tiếng đồng hồ hay hơn một chút, ông lại thấy con tàu
đi vào khu thành phố rực ánh đèn.
Khung cưả sổ của toa tàu khá rộng, hai người Tây ba lô đang nhai mỗi
anh một ổ bánh mì thịt, vừa rù rì nói chuyện, người đàn ông Việt Nam
cùng phòng cũng đứng ở đó từ bao giờ, ngắm cảnh lên xuống ở sân ga.
Ông quay sang người bạn đồng hành hỏi trỏng:
"Đây là đâu nhỉ?"
Ông ta cũng trả lời trống không, giọng miền Bắc:
"Tới Long Khánh rồi". Rồi nhìn đồng hồ ông ta tiếp:
"Hơn chín giờ. Ông về đâu?"
"Tôi ra Quảng Ngãi."
Ông trả lời vắn tắt.
Người khách tò mò hỏi thêm:
-Ông từ nước ngoài về à?
Ông lắc đầu, nói: "Không, không".
Có gì chứng minh được ông là người xa quê mới về thăm nhà, bộ quần
áo tầm thường khiến ông trông giống một người lính già phục viên hơn
là một ông Việt Kiều.
Mà ông chính là người lính già về thăm quê thật, cho là có cái lằn
Nam Bắc nằm chình ình ngay chính giữa, thì ông vẫn chỉ là một người
lính già không hơn không kém.
oOo
Bốn chữ "Nhà Ga Long Khánh" lộng lẫy đóng khung trong những bóng đèn
xanh đỏ đập vào mắt ông, khiến ông chợt buồn rầu khi nhớ rằng có một
thời vợ ông đã vất vả đi lên đi xuống cái sân ga này.
Từ đây đi thêm một cuốc xe "Lam" nữa, cách thị xã khoảng mười cây
số.
Hai bên đường là những làng mạc của dân di cư miền Bắc, đi khoảng 2
cây số là đã thấy nhà thờ.
Chỗ đấy có một trại tù, ngày xưa vợ ông đã đi tìm chồng hú họa ở cái
địa chỉ mang những con số đầy bí ẩn và tối tăm như đời tù tội của
ông.
Gần ba mươi năm trước, vợ ông đã giả dạng thành một người bán rong
bán trái cây lặn lội lên Long Giao tìm chồng.
Long Giao là căn cứ quân sự cuả sư đoàn 18 Bộ Binh để lại, một khu
quân sự rộng lớn bao xung quanh những con đường đất đỏ bụi mù, sau
này trồng chuối bạt ngàn xen lẫn với những vườn tiêu của dân địa
phương, len lỏi vào khu vườn chuối là những con đường đất nóng bỏng.
Năm đầu ở Long Giao, vợ ông vẫn bỏ lũ con thơ ở nhà, đi tìm chồng
với cái hy vọng mong manh là tìm được chồng trong đám đàn ông ngày
ngày vác cuốc đi lao động xung quanh trại.
Mỗi lần đi, bà lại quảy trên vai một đôi gánh, dưới thúng đựng dăm
thứ đồ ăn tiếp tế, trên chiếc mẹt ngụy trang vài thứ trái cây.
Từ một khoảng xa đến hai lớp hàng rào kẽm gai, đám đàn ông thất trận
ngừng tay cuốc ngóng mắt nhìn theo một đám phụ nữ dáng dấp thon thả
đang lố nhố đứng ngoài khu vườn chuối ngó vào.
Kẻ nhóng ra, người ngó vào, bụi và nắng nhấp nhoá nên khó nhận ra
nhau, thỉnh thoảng đám phụ nữ trẻ lại mon men xấn vào gần hàng rào
kẽm gai để được gần gũi hơn đám tù đang cuốc đất, lại bị đuổi ra xa
như một bầy gà nhao nhác.
Làm sao gần được em ơi, hai hàng rào kẽm gai với lại những câv súng
kè kè như vậy, họ í ới gọi nhau hỏi chuyện.
Lần ấy may mắn ông đã nhận ra vợ trong chiếc áo cánh trắng, trên đôi
vai nhỏ bé là đôi đòn gánh mà ông không hiểu làm sao vợ ông lại có
thể gánh được, khi từ bé đến lớn bà chưa hề biết gồng gánh là gì.
"Cạn ao thì bèo xuống đất", ông thương vợ quá, nhưng cũng phải công
nhận sự khéo léo và nhẫn nhục cuả vợ trong thời buổi nhiễu nhương
ấy.
Chỉ lần ấy thôi vợ chồng nhìn thấy nhau để rồi ông lên đường ra Bắc.
Đêm ấy khi ngồi trong chiếc xe bịt bùng để đi xa, ông có nghe tiếng
còi tàu.
Tiếng còi rúc lên lạnh lùng như tiễn biệt, lòng ông quặn đau khi
nghĩ đến vợ con.
Sau này ông có nghe bà kể, nhà ở gần sân ga, chiều nào bà cũng tìm
một nơi yên lặng để ngóng tiếng còi tàu, cứ hy vọng con tàu ấy sẽ là
chuyến tàu đêm năm cũ trở về sân ga, có ông tàn tạ trở về với bà và
lũ con...
oOo
Mới đó mà gần ba mươi năm rồi. Mười ba năm trong tù, ông không quên.
Giờ này khi tàu ngừng trên sân ga Long Khánh, ông vẫn nhớ cái khởi
đầu cuả một cuộc hành trình mười ba năm ông bị bứt ra khỏi mái ấm
gia đình.
Hú viá, ông còn đây, thân hình có tiều tuỵ nhưng vẫn còn đây, ông sờ
vào hai lỗ tai lạnh để biết rằng mình vẫn còn đây, người tù mười ba
năm vẫn còn đây, với những vết sẹo đã lành da vẫn ngưá ngáy một cách
dị kỳ khi nhớ lại. . .
Sau thời gian dừng lại để khách lên khách xuống, con tàu lại rùng
rùng chuyển bánh, ông để ý hễ tàu đến tàu đi, đều có kèm theo một
hồi còi rất dài, nó kêu tu tu trong đêm vắng, buồn thắt ruột.
Nhạc lại vang vang trong những cái loa gắn trên thân tàu, toàn những
bản đã cũ:
"....Chiều nay có phải anh ra miền Trung, về thăm xứ mẹ cho em về
cùng. Rồi ta sẽ đi chung chuyến tàu...".
Tiếng hát vang vang một âm điệu rộn rã, những bản nhạc một thời viết
cho lính lại được sống lại trong chuyến tàu đêm.
Giờ này ở đây chỉ có người lính già đi tìm quá khứ, dường như những
người lính sống hay chết đã đồng loạt tử trận tháng Tư năm ấy.
Ông rút một điếu thuốc phì phà trong bóng tối, đốm lửa lập loè như
lại làm sống dậy một thời trẻ tuổi.
Con tàu trong đêm tối cứ băng mình lặng lẽ xập xình đi vào vùng biển
mặn, hình như có mùi nước mắm biển Phan Thiết quyện trong gió.
Trong đêm tối, mắt ông không nhìn thấy gì vì cảnh vật mập mờ, nhưng
ông đánh hơi được nơi chốn bằng khứu giác.
Tàu lại vào sân ga, người lên kẻ xuống, những người bán hàng rong và
người đi tàu đang kỳ kèo trả giá những túi khô mực, những thùng nước
mắm.
Ông nhớ những lần nhậu thâu đêm suốt sáng với bạn bè, con khô nướng
vội và những chai bia 33 lăn lóc dưới gầm bàn, ngả nghiêng đi về với
một vầng trăng khuya.
Vậy mà không ngã, vẫn ngất ngưởng đi về đến nơi đến chốn. Thời ấy
hết rồi, Phan Thiết, Phan Rang, Nha Trang chỉ là những nơi ghé vào
ngắn hạn, nhưng ông nhớ hoài mùi biển mặn.
Nhớ xa hơn một chút về biển, chuyến tàu Hải Quân cuối cùng từ bãi
biển Đà Nẵng lui về phương Nam, hỗn độn, chen lấn, quan không ra
quan , quân chẳng ra quân, chuyến ấy ông mất sạch sành sanh, khi về
đến Vũng Tàu mỗi người chỉ còn cái túi vải đeo trên vai, vài bộ quần
áo, đúng là " trên răng, dưới... dế".
Ông nhớ ngày hôm ấy, chiếc xà lan quá tải ngả nghiêng trên mặt biển,
người ta rơi lõm tõm xuống nước, chết vô số.
Ôi lại biển, kinh khủng lắm, hễ nếm phải nước biển là ông lại nghĩ
đến hương vị nước mắt, hai thứ ấy nó giống nhau lạ lùng. Nha Trang
biển đêm vẫn rì rào sóng vỗ, từ xa đã nghe được tiếng sóng , ngửi
được mùi biển mặn.
Chỉ tiếc là lúc ấy đã khuya, ông không nhìn thấy gì bằng cách lại
đánh hơi ra những nẻo đường quê hương bằng khứu giác, bằng đôi mắt
lập lờ nhìn không rõ cuả tuổi già.
Ông đi vào giường nằm, nhưng không ngủ được.
Chiếc giường nệm êm ái làm ông lại nhớ tới chuyến tàu về Nam cách
đây trên hai mươi năm, ông và người bạn tù xa lạ kết tình " huynh đệ
" nhờ chiếc còng gắn vào cổ tay hai người.
Đêm tối, anh bạn tù bàn tay nhỏ nhắn, rút được cái tay ra khỏi còng,
vì thế mà ông được giải thoát một chặng đường dài. Kỷ niệm ấy ông
nhớ mãi. . . Bây giờ anh ta trôi dạt đâu nhỉ?
“Một đêm mùa hè, tôi đến sân ga đi đón người trai lính trở về. Tàu
cũ đêm nay mang trả lại cho tôi người xưa. . ."
Giọng ca buồn buồn của cô ca sĩ vẫn nỉ non trên chiếc loa suốt đoạn
đường dài, hình như tàu mỗi lúc một đi nhanh hơn khi ra ngoài vùng
đồng quê, đã thấp thoáng những rừng dừa Tam Quan bạt ngàn để bước
vào ranh giới tỉnh Bình Định.
Bây giờ thì dường như trong ký ức cuả người lính già, kỷ niệm lần
lượt trở về rõ mồn một.
Khổ nỗi lại chỉ toàn những kỷ niệm thời chinh chiến, năm 72, nơi ấy
những trận đánh ác liệt nhất đã diễn ra ở đây, trở ra những vùng
khốc liệt như Sa Huỳnh, Đức Phổ, Mộ Đức.
Đơn vị thám sát cuả ông toàn là những người lính tiên phong cảm tử
đi vào miền đất chết, trước khi quân bạn được dàn trận đi đằng sau.
Trong bóng đêm mập mờ, mỗi một bến ga ông lại thấy mình gần gũi với
kỷ niệm thời quân ngũ.
Những địa danh gợi nhớ đến quay quắt từng vuông rừng, từng hốc núi,
từng ngọn đồi hay những trảng cỏ tranh cao hơn đầu người.
Màu xanh cuả rừng dưà Tam Quan vẫn không là cảnh đẹp yên bình để
người lính mơ mộng, nó rình rập nỗi chết trong đó. Bồng Sơn, Quế
Sơn, tên đẹp chi lạ mà đầy oan khiên cuả máu và nước mắt.
Khoảng hai giờ sáng là đến Sa Huỳnh, rặng núi biếc giờ này đã tối
đen khi con tàu chui qua lòng núi càng đen kịt lại như mực, giá ban
ngày ông đã có thể thấy những đồi cát, những mảng rừng thưa bông cỏ
lau trắng xoá tiếp giáp để đi vào ranh giới Quảng Ngãi.
Ngày xưa, ông đã mòn gót giày trên những vùng đất chỉ có những bom
đạn và nỗi chết, những đồng cỏ lau trắng xoá buồn u uẩn như người
goá phụ đôi mươi quấn chiếc khăn tang trên đầu.
Vẫn nghe như hơi gió biển thổi qua triền núi thấp, vẫn nghe như hằng
nghìn âm thanh thì thầm của những hồn xưa sống dậy.
Những ngôi sao sáng và một mảnh trăng khuya, ở nhữnng vùng hiu quạnh
hình như nền trời bỗng sáng hơn.
Ông dùng thêm ly cà phê đen để đầu óc được tỉnh táo, mắt ông cay xè
vì thiếu ngủ nhiều đêm , nhưng vẫn không làm sao ngủ được.
Gần ba mươi năm mới có một đêm như đêm nay, trở về những vùng đất
thân yêu đã gắn liền với ông suốt thời trai trẻ. Trong khung cưả sổ
của toa tàu chỉ có mình ông đứng đó, hai gã Tây ba lô đã ngủ say,
còn người đàn ông Việt Nam kia chắc quá quen với đoạn đường này, ông
nghe tiếng ngáy nho nhỏ vang lên trong buồng tàu. Con tàu cứ lầm lũi
băng mình trong đêm tối, thỉnh thoảng lại tu tu lên khóc.
Nhất là ban đêm, giữa cảnh huyền hoặc của một nửa vầng trăng và
những ngôi sao, gió thổi vù vù khi con tàu đi vào miền núi rừng miền
Trung, ông gần như sống lại hoàn toàn cảm giác cuả đời lính thám sát
nơi chiến trường miền Trung trên ba mươi năm về trước.
Cảm giác lần này lạ hơn, có lẽ vì ám ảnh chuyện cũ, ông nhìn những
cành cây lay động dưới ánh trăng mờ khi con tàu vùn vụt đi qua, mà
cứ ngỡ là những cánh tay của bao linh hồn anh em đồng đội năm xưa,
đang vẫy tay đón ông về thăm chốn cũ.
Thế giới vô hình làm sao hiểu được, nếu hiểu được người ta đã chẳng
phải than khóc trước sự ra đi vĩnh viễn cuả người thân hay bè bạn.
Sa Huỳnh ơi!
Ông nhớ quá đi thôi mặt trận đêm ấy, những người lính thám sát lầm
lũi đi trong bóng tối, những ụ đất ngày xưa giờ đã xanh cỏ, những
vạch đạn cưá vào bóng đêm ghim vào cây cỏ, vào thân thể người lính
đang di động trong đêm, tiếng rên la của người lính bị thương đòi
uống nước.
"Nước, cho xin hớp nước..."
Tiếng rên rỉ đau đớn và đứt đoạn của người đàn em bị trúng đạn đòi
xin hớp nước giờ này hình như cứ vọng mãi trong đầu ông.
Ông nhớ có những đêm hành quân trời mưa rét cóng, lúc hai bên im
tiếng súng rút vào cố thủ, khi dừng quân ông được một người lính cần
vụ đưa cho ly cà phê đựng trong chiếc ca sắt nóng hổi.
Chưa bao giờ có một thứ cà phê nào ngon bằng hôm ấy, nó làm ông tỉnh
táo và lòng ngập tràn tình thương yêu đồng đội, gắn bó với nhau
trong nhiều khoảnh khắc chết sống của đời người.
Ôi những ngày như thế, bạn bè ông, đồng đội cuả ông đã ra đi mà vẫn
thèm rít một hơi thuốc cuối cùng, không biết ở cõi bên kia linh hồn
họ có tìm lại được mùi cà phê, hơi thuốc lá như cõi dương gian này
không?
Ở đây, khi cuộc hành quân tạm yên, ít nhiều gì đơn vị ông hay đơn vị
bạn cũng bỏ lại rừng xanh những dòng máu đỏ, những bàn tay, cái chân
cho cuộc chiến ấy, chưa kể có những người đã ra đi vào miền đất
lạnh.
Thiếu uý Kha, trung uý Điền, trung sĩ Nghiã, những người đàn em dễ
thương mà ông còn nhớ, họ chết ở đây, trong đám rừng đen đặc kia.
Ông nhớ lúc ấy đã vét túi tìm gói thuốc "Quân tiếp Vụ", chỉ còn duy
nhất một điếu cong queo, ông vuốt lại cho thẳng rồi gắn lên môi
người đàn em bị thương nặng, làm món quà tiễn chân kẻ ra đi không
bao giờ trở về.
Điếu thuốc cuối cùng ấy là món quà quý dành cho người sắp chết, ông
thèm lắm mà không dám hút. Ông giơ tay vuốt mắt cho người lính cùng
đơn vị, mắt cũng cay xè. . .
Tiếng gió giữa canh trường qua rừng cây đen thẫm như tiếng reo cuả
linh hồn những ngươì đàn anh, đàn em năm cũ vọng u u trong đầu ông,
ông thấy nước mắt mình trào ra ướt đẫm trên má.
Ông thò tay vào túi, gói thuốc còn nguyên, ông bóc gói thuốc rồi
nâng lên trước mặt thì thầm nói một mình:
"Hút, hút đi các bạn, hút cho thoả trước khi để linh hồn tan vào cõi
hư vô”.
Ông ném từng điếu thuốc vào cái khối đen ngòm của rừng cây ven
đường, không thét ra được khỏi lồng ngực phập phồng hai lá phổi héo,
nhưng trong đầu ông lồng lộng:
" Hết chiến tranh rồi. Hết lâu rồi các bạn ơi! Thuốc đây, hút đi,
hút đi rồi các bạn muốn đi đâu thì đi. Đừng ở lại đây nữa. . ."
Những điếu thuốc bay lả tả theo đường tàu, nước mắt ông cứ trào ra
ướt đầm trên má, nhỏ giọt xuống trên thân áo. Vô tình hay cố ý, đêm
nay ông về thăm lại chốn cũ, phong phanh chiếc áo sơ mi và chiếc
quần màu ô liu, y như một người lính kỳ nghỉ phép về thăm nhà. Trong
cái loa tiếng nhạc lại vang vang:
"Ngày tháng đợi chờ, tôi đến sân ga nơi tiễn người trai lính ngày
nào.
Tàu cũ năm xưa có trả lại cho tôi người xưa, để đêm nay ngồi đây,
viết lại tâm tình này. . ."
Ba mươi năm sau cuộc chiến, người lính năm xưa đã hy sinh còn để lại
những gì cho Tổ Quốc.
Ngoài những vết sẹo kéo da non của người còn sống, ông Bảo chạnh
nghĩ đến những thương binh đã lây lất sống nốt đời mình trên vỉa hè
thành phố, dựa dẫm vào vợ con để thành một gánh nặng buồn tủi. Thế
còn những đứa con của người tử sĩ thì sao?
Trung uý Điền xuất thân trường Đà Lạt, khi chết trận bỏ lại người vợ
trẻ và hai đứa con thơ, trung sĩ Nghĩa có một đứa con không biết là
trai hay gái trong bụng vợ.
Gia tài người lính để lại chỉ có chiếc ba lô, đựng dăm thứ lặt vặt
cho những cuộc hành quân dài ngày nơi rừng núi, khi nằm xuống họ đã
kéo theo sau lưng mình sự đổ vỡ, tan tác, rách nát, thảm thương của
một hệ luỵ máu thịt cùng chịu chung số phận. . .
Bình minh đã lên, ở miền nhiệt đới bình minh bao giờ cũng dậy sớm,
chuyến tàu đi qua những quận lỵ cũ để vào thị xã.
Lúc tàu đi ngang Phổ Đức, Mộ Đức, lại những chiến trường xưa, những
chiếc xe nhà binh năm cũ ở đâu trong đầu ông ào ào chở đầy lính đi
vào vùng lửa đạn.
Tàu ghé vào ga, những người bán dạo trên bến ga mời chào í ới. Nhìn
đĩa xôi gà trên tay một chú bé độ 12 tuổi, mà bé choắt vì phải ra
đời sớm, ông gọi mua một đĩa xôi mà không cần trả giá.
Nhìn cậu bé sáng sớm bưng trên tay mâm xôi đi bán dạo, cái đùi gà
vàng lườm được rô ti thật hấp dẫn, ông hiểu cái nghèo đè nặng trên
đầu người dân.
Ông ăn mà không biết ngon, chỉ ăn cho đỡ đói, để tìm hương vị cũ,
niềm đau cũ.
Chú bé bán xôi được ông cho một món tiền lớn gấp mười đĩa xôi gà, cứ
đứng trân trân nhìn ông tưởng như là phép lạ đang xảy ra trên sân
ga.
Nhìn làm gì em ơi, giá hơn mười năm trước tôi cũng làm gì dám ăn đĩa
xôi gà trên tay em, chẳng phải thịt gà phong độc như dân địa phương
thường nói, mà vì nghèo, cái nghèo là thứ quả báo lớn nhất mà ông
Trời bắt con người phải chịu khi còn sống.
Lúc này đầu óc ông tỉnh táo hơn, nôn nao hơn, vì ông sắp về tới gia
đình, về với bà mẹ già vừa mù, vưà điếc, chưa chắc gì đã nhận ra
con.
Người ta lại tấp nập lên tàu, xuống tàu.
Ông ăn xong đĩa xôi, gọi một ly cà phê đá nhâm nhi nhìn kẻ lên người
xuống, bỗng liên tưởng cuộc đời y hệt một chuyến tàu, mà những người
lính già như ông còn ngồi lại với nỗi buồn chiến tranh đọng lại
trong mỗi hồi tưởng.
Đêm qua khi đi ngang Sa Huỳnh lúc hai giờ sáng, hình như ông đã gặp
lại bạn bè năm xưa trở về, họ là những người đã xuống tàu ba mươi
năm trước.
Ba mươi năm sau trên chuyến tàu đời, những lớp người đi sau như
thằng bé bán xôi, cô bé dáng học trò ngồi bán cà phê ở toa ăn uống
là lớp người sau lên tàu muộn .
Bây giờ nếu ông kể chuyện cũ ba mươi năm trước, chắc hẳn chúng nó sẽ
tròn mắt lên mà nghe như chuyện cổ tích. Một câu chuyện cổ tích rất
buồn, chỉ còn một người lính già như ông ngồi lại trên chuyến tàu
đêm, khắc khoải.
Ông đi chầm chậm, tiếng nhạc vẫn lồng lộng trên sân ga, không phải
bài "Tàu đêm năm cũ", mà nghe rất lạ, như bài cầu kinh sắp tới hồi
kết thúc:
Rồi tàu xa rời, xa rời kỷ niệm
Trả lại cho mình, nửa phần yêu thương
Tìm lại xót xa, tìm lại vui buồn
Đi vào nhân gian, với lòng yêu thương.
Đi đi, đi thấu kiếp người...
Ôi niềm đau, hỡi nỗi vui
Đi đi, đi thấu kiếp người
Đi đi, để biết khóc cười hỡi...ơi!
Hơn mười giờ, tàu vào ga Quảng Ngãi. Ông xốc cái ba lô trên lưng,
chậm rãi chờ người ta chen chúc nhau xuống sân ga, con tàu lại tu tu
lên khóc.
Ông sắp về với mẹ ông, căn nhà xưa trong một ngõ nhỏ, con ngõ này
hồi xưa thế nào nay vẫn vậy, nhưng nhà cửa được nâng cao, xây dựng
lại khiến thoạt nhìn tưởng mọi điều đã đổi khác.
Ông về với mẹ, biết đâu không phải là lần cuối được cầm lấy tay mẹ,
tay con cũng nhăn nheo huống gì tay mẹ ông chỉ còn là một rúm da bọc
xương khẳng khiu.
Mẹ ông nằm đó, chả biết ai với ai, đôi mắt loà quáng lên một vùng
ánh sáng mù mờ, như ngọn đèn cạn dầu leo lét chờ tắt. Bên cạnh bà mẹ
già vưà loà, vừa điếc, vẫn không biết là có một đứa con đi xa vừa
trở về.
Không còn cách nào khác hơn, ông cầm lấy bàn tay nhăn nheo, gầy guộc
cuả mẹ, để bà sờ mặt con với những giọt nước mắt ướt đầm trên những
ngón tay.
Không biết trong cõi mịt mù của đời người sắp tàn ấy, bà có sờ được
ra khuôn mặt cuả đứa con từ lâu rồi không gặp...
Nguyên Nhung(theo Hãi Ngoại Phiếm Đàm)
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
Còn nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
mình
Hai hình ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành trình
của 5 ngày tìm về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện tình trái
ngang
Khối diễn hành
Bãi tập
Lễ mãn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
Tình Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
Vì hai chữ Tự Do
Nghìn trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Bụi đất và hư vô
Mùa Noel cũ
Cuối năm tiễn biệt Mẹ
Giọt máu rơi của
người lính chết trẻ
Chữ tín
Chọn Năm Căn
Nỗi bất hạnh đời tôi
A-1H Skyraider Tarin65
Thằng láng giềng
40 Năm tỵ nạn... Nhìn lại đoạn đường
Việt Cộng pháo kích trường Tiểu Học Cai Lậy 9/3/1974
Chuyện 10 năm trước. Ngày 3 tháng 12-2004
Bạn bè
Tấm thẻ bài
Ngôn ngữ lính
tráng Sài Gòn xưa
Tiểu Đoàn 66 Biệt Động
Quân Biên Phòng
Hương Tràm Trà Tiên
Người cựu chiến
binh già
Tàn cơn binh lửa
Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ -
Ngọn Cờ Đại Nghĩa
Chuyện một lá cờ
Cờ
vàng trong trái tim tôi
Nắng chiều
bên ghềnh thác Niagara
“Trâu Điên” Và Cố Vấn Mỹ...Muộn Vẫn Phải Nói...
Vì sao tôi là Nữ Quân Nhân?
Nhật ký trên tiền đồn Do Thái
Tảo
một mùa thu Arlington
Tướng Đỗ Cao Trí - Người chết không yên
Những người lính cùng chiến tuyến bảo vệ tự do
Mang các anh về miền đất tự do
Bầu trời đánh mất
Bằng Lăng
Như vạt nắng chiều
Đời sống người Việt tại Úc
Truyện một người lính gương mẫu
Sự thật cuối cùng đến quá trễ!
Hồi ức Sài Gòn thời lính tráng
Mẫu chuyện về Thống tướng TMT Lê Văn Tỵ
Mùi áo lính
Ôi! Chareles
Vở mãnh tinh cầu
Chúng tôi mọc
rễ và yêu thương...
Thủ Đức - Một thời khó quện
Ba Tôi, Người Lính VNCH
Chuẩn Tướng Lương Xuân Việt
Thiên hùng ca dựng một ngọn cờ
Sống với đàn anh không phải dễ
Chiều lạnh giáo đường
Hoài niệm
Những vì sao
của một thời tuổi thơ
Ngọn đuốc Lê Xuân Việt
Một chút mặt trời...
Trốn trại
Chuyến ra khơi đầu tiên
Hữu Loan và màu tím hoa
sim
Hệ thống thông tin gián điệp toàn cầu Echelon
Cho cuộc tình đầu
Ngày Quân Lực 19/06 tại Melbourne
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Một kỷ niệm xa xưa
Bố tôi, người
lính Việt Nam Cộng Hòa
Điệp vụ
U2
Vụ tấn công USS Liberty
Ngày 19
tháng 6 dưới mắt một hậu duệ VNCH
Ngày Quân Lực 19 tháng 6 lần thứ 49
Cha là niềm tự
hào của Con
Vượt qua khỏi con
Trăng
Con gái của Ba
Nếu bạn
muốn thay đổi thế giới
Người
lính già trên chuyến tàu đêm
Trên đỉnh cô đơn
Một thoáng qua
hồn
Ban Mê Thuộc -
Ngày đầu ngày cuối
Mênh mang mùi
biển mặn
Rừng lá thăm anh
Vợ và những ngày
đầu đời lính
Hành quân lưu động biển LLĐN Duyên-Phòng 213
Chị hai
Bóng ngả đường
chiều
Bài thơ tình
Thị Nở - Chí Phèo
Giọt nước mắt... vì niềm kiêu hãnh
Sức mạnh tình
chiến hữu
Những tản mạn về "Cố Vấn"
Đuờng chinh chiến
Chết tại Ban Mê Thuột
Bài tình ca ngày đó
Người trở lại
Pleime
Nhà thơ đi lính
Con rạch nhỏ quê mình
Chuyện cái nón lá
Chuyến Taxi cuối
cùng của đời người
Chuyện của một người không có tội
Hoa Dã Qùy của anh!
Chỉ còn là kỷ niệm
Tháng Ba tìm về tử
lộ
Như cánh diều bay
10 tội đại ác của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản VN
Gió ơi! xin đừng thổi
Bánh mì và hoa
Hồng trong ước mơ của Mẹ
Những người vợ cùng
tuyến đầu
Đại Uý dũng cảm
Người Việt viết
tiếng Việt. "Người Giệc Giết" tiếng Việt
Đời Phi Công
Nợ Đời một nửa,
còn một nửa nợ ơn em
Từ trại tù ra biển khơi
Trường Phi Hành Hải Quân Hoa Kỳ Pensacola
Chỉ vì một câu hỏi
Trại "tù" cải tạo – địa ngục trần gian ở VN
Con gái người ta
Bùi Giáng:
Diogenes thời đại !
Năm Ngọ nói
chuyện ngựa
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Hòa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng