Nguyễn Sơn
Cho đến nay, đă hơn ba tháng tôi sống nơi đây mà vẫn chưa quen được
với giờ giấc và thời-tiết. Đă đành đang Đông nên mặt trời thường “đi
ngủ sớm”. Nhưng trong người tôi vẫn thường bị xây xẩm hoặc bị
ảo-giác về giờ-giấc. Có khi đang trưa mà tôi cứ ngỡ là nửa đêm. Nên
thường nh́n đồng-hồ là vậy.
Bây giờ đă hơn 1 giờ. Tôi biết chắc điều này v́
ngoài trời mờ ảo với ánh đèn nhiều màu của thành-phố. Tuyết đang rơi
th́ phải. Hơn một tiếng đồng-hồ trước đây tôi đă thức giấc trong
tiếng chuông điện-thoại. Người đă gọi, tôi không quen hay đúng hơn
là tôi không nhớ. Anh đă nhắc nhiều đến Biệt Cách Dù trong đó có cả
chị. Sau đó tôi đă không ngủ được. Tâm trí cứ vẫn-vơ nghĩ đến chuyện
cũ An-Lộc năm xưa, đưa tôi vào ảo-giác chiêm-bao, trong mê tỉnh thực
mộng…Tôi đă quên tôi trong hiện-hữu lạnh lẽo giá băng, trong thực
tại tha-hương kiếm sống… tôi nhớ thật nhiều đến một mùa hè rực-rỡ,
trong lửa đỏ B́nh-Long, đến chị.
*****
Ngày 16/4/72 tôi đứng trong cơn chiều gió-lộng, trên một đỉnh đồi
phía Đông không xa đồi Gió để nh́n vào An-Lộc. Nh́n con đường
ngoằn-ngoèo, quanh co dẫn vào nơi khói lửa đó, ḷng tôi bỗng dưng
nôn-nao vô cớ, như lần hẹn ḥ với người t́nh đầu đời của tuổi học
tṛ. Đêm tôi thao-thức với âm-thanh đạn nổ hai lần từ trời cao vọng
xuống lẫn trong tiếng động-cơ con tàu C130 văng-vẳng khi gần, khi xa
đă khiến tôi không sao nhắm mắt được với điệu ru buồn bă này. Sáng
hôm sau, đơn-vị tôi vào An-Lộc- con đường ngoằn-ngoèo bỏ lại sau
lưng.
Chúng tôi đă đi qua những buôn làng xám ngắt trong tro tàn vắng
lạnh. Chúng tôi đă đi qua những vườn tiêu xanh tươi trong nắng vàng
ban mai và trên con đường rợp bóng mát cao-su. Chúng tôi đă vào
An-Lộc để mai này nối tiếp đi lên phía Bắc – lên đỉnh đồi Đồng Long…
Đoạn đường không xa để đi qua thị-xă nhỏ bé này, để đến đồi
Đồng-Long cùng với thời-gian không dài trong thế-kỷ 20. nhưng chúng
tôi đă đi không tới trong một sớm một chiều, một ngày một đêm. Bởi
thời-gian không tính bằng phút, bằng giây mà nó đă định bằng âm-vang
đạn nổ, bằng hàng vạn lượt pháo bắn vào thành-phố này. Con đuờng
chúng tôi đi tới, không đo bằng gang tấc mà bằng từng giọt mồ hôi và
nước mắt của người lính và gia-đ́nh. Con đường bằng máu trơn trợt
trong điêu tàn khi lên khi xuống như bể khổ trầm-luân… Đồi Đồng-Long
như ảo-giác ốc-đảo trong sa-mạc, khi trước mắt khi xa xăm, lúc
chờn-vờn lung-linh trong băo lửa, lúc biến mất trong sương mù nhuộm
khói…An-Lộc ch́m ngập trong tiếng nổ và lửa cháy suốt 60 ngày như
đêm bạo chúa Neron đốt thành-tŕ, đốt cư-dân để t́m hứng thơ…
Chúng tôi đă đi qua được trận băo lửa này, trong t́nh bạn đồng-đội
và hy-sinh để đến được đồi Đồng-Long và Hớn-Quản, ngoại-biên cực Bắc
của thành-phố. Ngày 12/6/72 đồi Đồng-Long ngạo-nghễ nh́n quân
Bắc-Việt tan-tác tháo chạy dưới chân…chấm dứt tham vọng của “cáo
miền Bắc” đội lốt “chồn miền Nam” nối liền Lộc-Ninh, An-Lộc làm
thủ-phủ xâm lấn miền Nam.
Đêm nay trong cảnh rét mướt của xứ người, ḷng tôi bỗng nhớ lại
chuyện máu lửa xa-xưa. Chuyện mà mấy ai c̣n nghĩ, c̣n nhớ đến trong
cuộc sống vội vă bon chen này. Vả lại để làm ǵ, khi nó là một
kỷ-niệm không thuộc về ḿnh. “Ai dư nước mắt khóc người đời xưa”phải
không chị? Ngay chính tôi cũng vậy. Dù là người mới đến nơi đây,
chân chưa cạn vết nứt-nẻ bùn đen, mặt chưa phai màu nắng cháy
quê-hương và ḷng c̣n nặng biết bao điều nắng mưa ở Việt-Nam, cũng
đă phải theo chân bạn-bè đi trước, kề vai vào gánh vác cuộs sống,
chạy đôn chạy đáo rao đổi mồ-hôi lấy bạc cắc, không đủ thời-gian để
viết lá thư t́nh với năm ba chữ yêu-thương…Vậy mà đêm nay, quên cả
đêm dài cần-thiết để lấy sức cho ngày mai c̣ng lưng kéo cuộc sống,
lại ngồi chong đèn, bút giấy nói chuyện đời xưa với chị. Hẳn là chị
phải ngạc-nhiên? Ở đây tôi không nghĩ về chị như thế nào? Nhưng tôi
đă nghĩ nhiều đến bạn bè của tôi đă sống và chết như thế nào mà đă
gây cho chị một xúc-cảm đặc-biệt để viết thành hai câu thơ:
“An-Lộc địa sử ghi chiến-tích
Biệt-Cách Dù vị Quốc vong thân”
Tôi cũng không nghĩ đây là bản “phong-thần” mà mặc-nhiên chị đă dành
cho chúng tôi- những người lính BCD. Điều mà tôi đă cảm-nhận được ở
đây – ở chị – chị đă nh́n thấy chúng tôi đă chết từ “chiến-tích” để
được sống lại trong “sử ghi” và cũng v́ “Vị-Quốc” nên chúng tôi đă
không c̣n chọn lựa nào khác hơn là “hy -sinh” phải thế không?…Tôi
rất cảm-kích về điều của chị và có lẽ những anh-linh của bạn bè tôi
cũng vậy.
Biệt cách dù tiến vào An Lộc – 17/04/1972
Đó là chuyện “An-Lộc địa” và cô Pha ngày nào. C̣n chuyện của tôi
ngày xưa ở chiến-trường An-Lộc với chị ngày nay ở Cali – Đông có
nắng vàng ấm-áp, hè có gió mát lá bay. Nơi chị đang an vui với
gia-đ́nh và bạn bè. Tôi cũng đă được lắm bạn bè nghĩ nhớ đến tôi
cũng như tôi thường nghĩ nhớ đến họ. Những người đang sống và đă
chết. Những người bạn thân-thiết cơm gạo sấy, nước trên ngàn của một
thời chinh-chiến loạn-ly…Một Dung,Khánh, Mỹ, Thể…Một Huyên, Cường,
Châu, Chính, Khoẻ…Tên của họ như ṿng hạt chuỗi thẻ bài mà tôi đă
từng mang nó trong năm tháng đời lính để ngày nay trở thành những
mắt xích ràng buộc tôi với họ trong nỗi nhớ của tâm-hồn và vĩnh-viễn
trong mai kia, dẫu tôi có sống dư thừa trăm năm, thế-sự có trầm-luân
biến đổi đến đâu nữa – h́nh ảnh họ vẫn nguyên lành trong tôi với
những đặc-điểm ở họ tôi đă mến thương.
Ghi chú của Minh Hiếu:
-Ṭa nhà lớn 3 tầng là Trường tàu Quốc Quang
- Căn nhà 2 tầng phía bên kia đường là nhà của đại uư Hiệp hội đồng
tỉnh B́nh Long, có hai chiến xa T54 và PT76 do Đại Đội 4 Tiểu Đoàn
52 Biệt Đông Quân bắn hạ, đây là ngă tư Quốc Lộ 13 và Đại lộ Trần
Hưng Đạo c̣n dược gọi bằng một cái tên rất thơ mộng là Đại Lộ Hoàng
Hôn
Những người lính chúng tôi đă không tiếc thân ḿnh, th́ với
chiến-trường nào cũng vậy, chỉ có máu đổ chứ không có lệ rơi.Nước
mắt không c̣n rửa được hận thù và lệ rơi không ngăn được mưa pháo
đạn bay nên đă xem chuyện “tử -biệt sinh ly” như chuyện tương-lai
trước mắt. Kẻ trước người sau rồi cũng đến phiên như một phiên gác
đêm của người lính trong đời sống súng đạn mà thôi. Tôi đă từng sống
bên những xác bạn bè c̣n nóng máu chảy, và nh́n thấy khuôn mặt c̣n
tươi tỉnh, b́nh-thản tắt thở. Tôi b́nh-thản đợi chờ đến phiên ḿnh,
có lúc đă quên cả tiếng thở dài để chào người nằm xuống…
Nhưng chị có biết không? Tưởng như vậy là hết, là quên, quên người,
quên tên, quên cả kỷ-niệm và phiên ḿnh chờ măi vẫn không thấy đến.
Không được chết vinh nên tôi đă phải sống nhục trong suốt 20 năm qua
mà vẫn chưa yên…Để đêm nay lại đến với tôi, cuộc sống hiện-hữu,
những h́nh ảnh của người chết trong vọng-tưởng hư-vô. Dẫu giờ đây
cơm gạo sấy không c̣n, chiến-trận không c̣n sau 75. Bạn bè vẫn c̣n
chập-chờn trong trí tôi. Băt chợt đâu đó ở ngoại-cảnh, cũng có thể
đưa tôi trở về dĩ-văng để được gặp lại họ trong đời chiến-binh. Dẫu
là mơ màng mộng tưởng nhưng đó cũng là nơi trú ẩn b́nh-yên duy nhất
của tâm-hồn tôi giữa cuộc sống phàm-tục gian-truân này.
Những tháng ngày lưu đày, hay bên đường xuôi Bắc ngược Nam, lúc nhai
củ sắn, khi gặm củ khoai. Cuộc sống nối tiếp qua những trại
tập-trung đày ải của người anh em bắt làm thân trâu ngựa, kéo cây
đẵn gỗ trên ngàn, lặn sông, lặn suối vớt đá đắp đường. Để rồi khi
đông qua rét mướt đẫm mồ hôi, hè đến trong nắng lửa, ngất xỉu bên
luống cày cạn khô lao-lực. Họ đă lấy hung tàn để cạo rửa lư-trí, vắt
cạn sức lực con người bằng miếng ăn họng súng. Đưa con người trở về
với bản-năng sinh-tồn của một sinh-vật, và trong cuộc sống yếu đuối
tận cùng này, bạn bè như hiển-linh đến với tôi trong dáng điệu nụ
cười. Khi bên bờ suối hoặc đ́nh non cao, lúc chờn-vờn trong mây
trong gió như khuyến-khích an-ủi vỗ-về; hăy ráng lên sống với
giả-trá vinh-quang và khổ nhục để tồn tại, hăy nghĩ đến vài trăm hạt
bắp cuối ngày, thuốc cầm hơi để kéo dài kiếp sống lưu-đày mà bạo-lực
đă ban cho. Tôi đă sống qua những ngày tơi-tả trong manh áo hai màu
thay da bọc xương. Tôi đă thấy từng toán người không vải che thân,
da nhăn-nheo thiếu máu lùa xuống ao nhúng nước như những đàn dị-vật
hai chân. Tôi đă thấy tôi trong đoàn người cùng khổ đó. Chúng tôi đă
mất tất cả danh xưng làm ngựi để thấp kém hơn cả những loài thú-vật
nuôi trong nhà. Nhưng trong tôi luôn luôn vẫn c̣n niềm tự-hào của
đơn-vị, của bạn bè để làm vốn liếng cho cuộc sống tinh-thần và mỉm
cười với hai chữ “sa cơ” và “thời -thế”.
“Thập tam niên” lưu đày không là bao so với thế kỷ, với lịch sử loài
người. Nhưng cũng là một sự mất mát đáng kể cho một đời người dù là
trăm năm phải không chị? Tuy-nhiên đây không phải là một lời than –
một sự tiếc nuối cho cá-nhân tôi hay cho bạn bè cùng thời. Giá ǵ 13
năm không ra chi đó mà nhắc nhở! Nếu có chăng chúng ta hăy nghĩ giùm
đến hàng bao thế-hệ con trẻ của chúng ta đă bị tŕ trệ trí tuệ, mụ
mẫm trong kiêu-căng phi-nghĩa, phi-nhân – Quên Cha ông, Tổ-tiên,
Giống ṇi trong hai tiếng “anh ,tôi”. Để chỉ biết có loài khỉ vượn
ăn trái, ăn cây làm nên sự-nghiệp bác đảng. Con tôi không hiểu chữ
“Hiếu” chữ “Ân”chữ “Tôn”, chữ “Kính”, không học Ngũ thường của Khổng
Tử dạy làm người, mà lại thuộc ḷng năm điều bác dạy như vẹt nói
tiếng người. Tôi nh́n trong gia-đ́nh với những xót-xa đổi thay và
thấy ngoài xă-hội với những đổi mới kỳ-quặc. Tôi đơn-côi và bơ-vơ
trong cuộc sống nửa khóc nửa cười này.
Giờ đây trong đêm khuya khoắt, bên đèn chiếc bóng. Bạn bè lại đến
trong giọng nói điệu cười, cho tôi được một lần vui trong ngày, để
sau đó tôi lại trở về với lặng câm của cơn buồn cuộc sống, của
dĩ-văng một thời làm lính và một thời đi tù.
Tôi đă không nghĩ đến bà con thân-nhân hay người yêu thưở nhỏ, hoặc
cuộc sống mai đây sẽ khá hơn trong kiếp sống ly-hương này. Tôi sẽ có
“job” mong ước khiêm-nhường của kẻ mới tới – để được chút tiền sống
cho ńnh và cho người… Điều mà tôi nghĩ ở đây là những bạn bè của
tôi không c̣n trên cơi đời này, những người đă chết không đám tang,
không thay áo mới giữa chiến-trường. Họ đă trả lại cho đời sống cả
tuổi thanh-xuân lẫn gian-truân một thời. Họ đă thảnh-thơi ra đi
không bận với những ǵ c̣n lại và tiếp-diễn trên thế-gian này, dù là
đầu đạn màu đồng hay những mảnh gang thép đă gh́m sâu vào thân thể,
hay chiếc thẻ bài trắng bạc buông tḥng trên cổ khi họ tắt thở – họ
b́nh yên trong hai tiếng “trận -vong” thế là hết – một đời làm
người!.
Nợ nước, nợ đời họ đă trả. Nhưng t́nh nhà ra sao hở chị? Những mảnh
khăn tang ngày đó không đủ phủ-kín nỗi sầu-bi, tiếng nấc nghẹn-ngào
của vợ con. Những tha-thiết nhung nhớ ngày đó của người t́nh, người
yêu – bây giờ chắc cũng đă quên…Nhưng sao hôm nay ḷng tôi bỗng dưng
lại bồi-hồi xúc-động nhớ đến họ…
Hơn 20 năm qua cứ mỗi lần nghe ai đó nhắc đến An-Lộc tôi lại một lần
nhớ đến bạn bè – nhớ đến chị. Tôi nhớ đến những người đă chết nơi
này và nhớ đến chị đă sống nơi đó. Tôi nhớ đến những người đă tạo
nên chiến-tích cho đơn-vị bằng cái chết của ḿnh và nhớ đến hai câu
thơ của chị đă làm cho họ sống lại trong ḷng mọi người. Và tôi nhớ
đến ngày chị bị thương như một sự an-bài để “Ta quen nhau hề Lư-Bạch
lưu linh…” v́ “an bài” nên chị đă may mắn thoát khỏi quả pháo đến
đón chị vào số phận “hồng -nhan bạc mệnh” hay nửa đời người làm “bại
tướng cụt chân”. Đáng ra vết thương này phải là của chúng tôi –
những người trực-diện đối đầu phía trước – để cho mọi người – cho
chị tay không cầm súng được an-lành. Nhưng chị biết đó, những viên
đạn đồng đâu có hồn để biết đau thương, những viên đạn đầu đen mang
gang thép ngoại-nhập nào có biết nhân-t́nh. Dù cho một em bé tuổi
chưa thôi vú mẹ, nuôi chưa tṛn tiếng gọi mẹ cha, hay ông cụ bà lăo
tật nguyền chống gậy khấp khểnh trên đường ve”Qui-Tiên”. Ở
chiến-trường này đạn pháo của địch đă không nhân-nhượng khoan-dung
cho bất cứ một thứ ǵ. Từ một bàn thiêng trước ngơ cho đến một con
chó lạc chủ lang-thang bên đường. Tăt cả phải huỷ-diệt. Đó là điều
mong muốn của địch. Họ đă dùng pháo để băm vằm thành-phố, băm vằm
chúng tôi – những người lính đă quyết tử với họ…để giữ cho An-Lộc
được tồn tại trên phần đăt tự-do miền Nam.
Bầu trời An-Lộc xưa nay vẫn đẹp trong nắng hồng trời xanh, đều đặn
hai mùa nắng đẹp, mưa vui, cho cây lá thêm tươi và v́ là một tỉnh lẻ
địa-đầu nên một sư-đoàn cùng hàng ngàn chiến-xa. đại-bác từ phương
Bắc xuôi Nam tràn vào tàn phá chiếm giữ. Bàu trời bỗng dưng rực đỏ
mầu hồng cùng với khói đen. Tai ương đến – khu Kito nhuộm máu
giáo-dân trong buổi cầu kinh – Chúa vẫn buồn dang tay chuộc tội
thế-nhân, mà người vẫn đa mê trong tội ác. Chùa xụp đổ, chẳng c̣n
kinh mơ, Phật từ-bi rơi nước mắt khóc điêu-linh, cuộc thế trầm-luân.
Đoàn quân CS vượt sông Gianh, Bến-Hải, xuyên Trường Sơn qua
biên-giới. Ngày đêm ́-ạch khuân vác chiến-cụ ngoại-bang vào Nam.
Người anh em chỉ nhằm mục-đích “giải-phóng” san bằng tự-do
thanh-b́nh của người dân Nam để cùng nghèo đói gông cùm miền Bắc,
trong giáo-điều bạo-tàn nô-dịch dân-tộc. Chắc chị cũng đă nghĩ như
tôi, chắc chị đă không đau v́ vết thương trên da thịt mà đă ray rứt
về nỗi tủi hờn của một kẻ yếu đuối nữ-nhi, tay không cầm súng, không
quen phong-trần cùng với gió sương. Chắc chị đă tiếc ḿnh là nhi-nữ,
không là Triệu-Ẩu, Trưng-Vưong, để phải lắm phen quay quắc trong
hăi-hùng. Từ toà Hành-Chánh hay ga xe lửa, khu Kito hay trường học –
chị lang-thang không nhà trốn giặc, trốn đạn khắp thành-phố bị bao
vây nhiều ngày này và chị đă đến đây. Chị đă thấy ǵ hơn những nơi
khác? Củng đổ nát điêu-tàn, cũng pháo rơi đạn nổ vung văi khắp phố
xá nhà cửa của dân lành. Địch nhằm mục-đích gây khủng-hoảng
tinh-thần chúng tôi để chờ thời-cơ tiến đánh, nên đă ngày đêm không
tiếc đạn bắn phá chúng tôi. Nhưng chị cũng thấy đó, chúng tôi vẫn
thảnh-thơi vui cười – chờ địch đến như chờ cuộc chơi. Và với không
khí lạc-quan đó đă khiến cho chị cảm thấy dễ chịu b́nh-yên hơn, tin
tưởng hơn – dù một chút tin-tưởng đến muộn nhưng đă giúp chị thoát
khỏi sự ám ảnh nào đó của âu lo…khi nghĩ đến cảnh phải ngồi co-ro ở
một xó-xỉnh nào đó mà quyền làm người của chị lệ-thuộc vào họng súng
AK, liệu chị có c̣n dám ngước mắt nh́n thẳng mặt họ mà vui cười như
nh́n chúng tôi hay không? Hay chỉ biết cúi mặt chờ đợi – Những đầu
ngón chân đen đúa đường xa của bọn chúng, chị sẽ nh́n thấy ở đó, một
phần nào số phận của ḿnh sẽ được định-đoạt. Chị sẽ bị mang ra bắn
bỏ hay chôn sống. Có thể họ sẽ tha cho chị tội chết nhưng sẽ bắt chị
phải đền tội sống. Tội làm người ở đăt nước tự-do, tội làm một cô
giáo tỉnh lẻ hay viên-chức phụ-động ngày hai buổi đi về không biết
hoan-hô, đả đảo…Chị sẽ được giáo-dục lao-động là vinh-quang làm theo
sức trâu ḅ quên ngày, quên đêm là tiên tiến, là mũi nhọn công
đầu…Chân chị sẽ chẳng c̣n guốc hồng dép trắng – chẳng c̣n nuột-nà
gót sen và đôi tay của chị trau chuốt một thời sẽ nhăn-nheo héo úa
bởi bùn đen đăt đỏ, bởi gai đâm vết cắt…tâm-hồn chị sẽ chai ĺ trong
ê-chề buồn thảm để đến lúc chẳng c̣n biết ḿnh là ai. Năm qua tháng
lại chị sẽ trở thành một tên nô-lệ chuyên-nghiệp của chiến-trường
xuôi Bắc ngược Nam, quên cha quên mẹ, quên cả người t́nh…Ngày ngày
vác sắn,tải đạn, khiêng thương binh, chôn xác quân thù. Đêm về ngồi
xếp bằng vỗ tay ca hát như lũ con nít vừa mới lên năm. Cuộc đời rồi
cũng tàn-tạ rơi-rụng như chiếc lá úa trên rừng…Gương Mậu-Thân ngày
nào ở Huế, chắc chẳng mấy ai quên…
Sống nơi này với chúng tôi chị đă cảm thấy dễ chịu bởi chúng tôi đă
không vướng bận với cái sống, cái chết, nên chị cũng đă bỏ lo đi để
b́nh-thản. Rồi một đêm mùa hè trăng soi, chị đă quên cuộc sống dẫy
đầy chết chóc, đau thương, chị yên tâm quên pháo, nằm dưới hiên để
ngắm chị Hằng lững-lờ cùng trời mây. Chị có nhớ Lư-Bạch đă chết v́
trăng không? Tôi không hiểu Tô-đông-Pha đă chết như thế nào? Nhưng
tôi đă biết rơ chị Pha đă thoát chết trong một đêm mưa pháo của trận
chiến An-Lộc. Và chị đă không chết ngay tại chỗ nhưng với vết thương
đó liệu chị có nghĩ đến “Mỹ nhân nhân tự cổ như danh tướng. Bất hứa
dương gian…” không?
Đấy, chị đă sống gần chúng tôi bao ngày trận chiến hung hiểm. Chị
cũng đă từng thấy chúng tôi ngă gục trên chiến-hào, hay bao phen
thay phiên mang thương tích để giữ đất và giữ nước. Chị cũng đă nh́n
thấy những nấm mồ chôn vội vă bên cạnh chúng tôi. Với một nấm mồ có
ǵ để đáng nói! Nhưng với chúng tôi đó là những nấm mồ mà chúng tôi
đă đắp lên cho bạn bè bằng tất cả t́nh huynh-đệ thân thương…Chị đă
thấy, trong những đêm mưa tầm-tă lẫn lộn với pháo rơi, chúng tôi đă
phải ṃ-mẫm từng tấc đăt trong bóng đêm để bới những cái hố nhỏ chôn
ḿnh tránh pháo rồi mới đào những huyệt lớn để chôn xác bạn sau.
Chúng tôi đă xem thường cái chết trong lúc chiến-đấu một mất, một
c̣n với địch bao nhiêu, quư xác bạn bè khi nằm xuống bấy nhiêu. Đôi
khi thật vô-lư – khi một người chết lại phải mất thêm một vài người
sống chỉ v́ một cái xác không hồn. Nhưng t́nh-cảm riêng của chúng
tôi, nó có lư lẽ riêng của nó…và chúng tôi đă tồn tại được trong
gian-nguy khắp chiến-trường dạo đó, một phần cũng nhờ vào tinh-thần
đồng-đội “sống chết có nhau”. Có lẽ ở đây chị cũng đă nh́n thấy được
ở chúng tôi điều mà chúng tôi đă không thấy. Đó là thân-phận thật
nhỏ nhen của một người lính khi sống cũng như lúc chết và sự hy-sinh
hào-hùng lớn lao của họ mà thế-nhân ít kẻ thực-sự nh́n thấy. Lẽ dĩ
nhiên đôi khi chúng tôi cũng được ca tụng, ngợi khen, có lúc cũng đă
phải thẹn-thùng bởi v́ nó đă vượt quá điều chúng tôi nghĩ, chúng tôi
làm. Và, chị là một – một chứng-nhân cho sự sống chết và hy-sinh bên
nhau của chúng tôi. Nếu chúng tôi là những tên giác-đấu khô cằn sắt
đá, chỉ biết đi tới trong bước chân Robot người máy, hoặc quay lưng
lại chạy trước, quên sau, không cần biết bạn bè chiến-hữu th́ chúng
tôi cũng đă tự huỷ-diệt từ lâu. Và bây giờ cũng chẳng c̣n ǵ để nói
với nhau, với chị. trong cái nh́n của chị về chúng tôi, cũng như đă
cảm-nhận được những ǵ mà chúng tôi đă có. Cái đau hành xác của vết
thương thiếu thuốc. Cái chết lơ-lững trước mắt trong lằn đạn địch
bắn tới. Cái”lạnh cẳng” khi đôi chân vướng vít giữa những lằn đạn
bắn ngang dọc, và nhất là tiếng nổ của viên đạn pháo rơi kề cận, là
một điều thật hiếm hoi để cho chị phải nhớ măi. Bởi những trường-hợp
như thế này ít khi c̣n dịp để cho ḿnh nhớ lại cảm-giác lúc đầu. V́
ḿnh sẽ không c̣n nữa, và linh-hồn không biết có mang theo để nhớ
lại ở đâu đó không? Chị cũng đă từng chung niềm vui với chúng tôi
trong những khi chiến-thắng và cũng đă cùng buồn trong những lúc
chiến-bại. Chị là chiếc bóng kề cận, là chứng nhân, là chiến-hữu của
chúng tôi. Dù không súng đạn ba-lô, không mang cấp bậc số quân,
không ai tuyên dương chị nhưng chính chị đă tuyên-dương chúng tôi,
đă khiến cho mọi người nh́n thấy chúng tôi trên khắp chiến-trường
giông băo chống giặc Bắc-phương ngày đó qua “An-Lộc địa”của chị và
măi cho đến bây giờ hoặc mai sau.
Hơn 20 năm qua, chị nghĩ chúng tôi, những người lính đă sống và chết
trong trận mạc c̣n ǵ. Tôi không nghĩ sự hy-sinh của chúng tôi hay
Việt-Nam c̣n ǵ? C̣n chăng đó một sự mất mát không t́m lại được cùng
với những nỗi cay đắng nhọc nhằn mà người sống đă phải gánh chịu
cùng với vết tích của người chết cũng chẳng c̣n. Ngay cả những ngôi
mộ vốn dĩ đă mang tiếng là “mồ viễn-xứ”dù quanh năm nhang tàn khói
lạnh cỏ mọc mồ xanh, nó vẫn là một ngôi mộ. Tên tuổi, ngày tháng
sanh, tử vẫn in vết trên bia dẫu đă rêu phong cát phủ. Vết tích
khiêm-nhường của một người lính chừng đó c̣n lại trên cơi trần đời.
Thế mà tàn cuộc chiến mồ hoang cũng chẳng c̣n. Sự thù hận Nguyễn-Ánh
– Tây-Sơn mấy trăm năm lịch-sử được lật ngược để đào mồ, cuốc mả trả
thù. Dù là mồ mả của một người lính súng dài không quan tước, quyền
hành. Tôi chợt nhớ tới tưởng người lính màu đen bên đường xa-lộ
Biên-Hoà, mà xưa kia ai qua lại cũng phải ngó, phải nh́n với thoáng
suy-tư trầm-mặc, cũng như đă có biết bao điều hư thực được người ta
đồn đăi chung quanh tượng người lính này. Chuyện đêm đêm người lính
rời bỏ bục ngồi lang thang đi dạo dọc theo xa-lộ, vào nhà dân xin
nước, chờ khách qua đường để xin lửa hút thuốc,v.v..những câu chuyện
mà thường nhật của một người lính đang sống thường làm vô thưởng vô
phạt mà đôi khi c̣n được coi là dễ mến, dễ thương. Tôi không hề nghe
kể chuyện tượng lính đó đă gây ra những điều huyền-bí, kinh-dị, sợ
hăi cho một ai. Nay cũng được tṛng dây kéo đổ, găy cổ bể đầu lăn
lóc dưới đăt – thật khó coi – nhưng cũng thật bất-nhẫn. Cũng như
di-vật của em tôi – một phi-công – tấm thẻ bài, bộ đồ bay không
nghĩa ǵ cả – cũng được gọi là “giặc lái” mang ra xiềng xích trưng
bày, phỉ nhổ…Tôi không hiểu nổi – vật của người chết có hồn hay hồn
của người sống vô-tri…Tôi đă lang-thang qua những nghĩa-trang
Bắc-Việt, Mạc-đỉnh-Chi để nhớ lại một thưở nào kỷ-niệm học tṛ đi
t́m im vắng. Giờ đây trong nỗi buồn vô-vọng của kẻ mất cuộc sống,
tôi trở lại chỗ này chỉ thấy toàn hố trũng hoang-tàn đổ nát. Tàn
tích của một sự bới móc không khoan nhượng. Tôi cảm thấy thấm-thía
cho một sự đổi đời. Nước mất nhà tan mồ mả chẳng c̣n!
Một mai nếu có dịp trở về An-Lộc, tôi nghĩ chị sẽ thấy ḷng trĩu
buồn bởi những đổi thay mất mát không ngờ…Chị sẽ như tôi lạc lơng
lang-thang trong tiềm-thức, trong vọng tưởng để t́m lại những
tàn-tích dĩ-văng trên mănh đăt này năm xưa. Rồi một sớm mai sương mù
giăng kín không-gian hay một chiều nắng nhạt nào đó, trên đường về
quanh co nẻo vắng hay trong gió lạnh sương mai. Biết đâu chợt trong
mơ tưởng chị sẽ gặp lại những ǵ mà chị đă lăng quên trong cuộc sống
hôm nay và chị sẽ thấy thời-gian không phải là mồ chôn dĩ-văng. V́
vậy mà tôi đă sống với những kỷ-niệm đang sống trong tôi. Ngày đó,
tôi đă biết chị nhưng không biết tên. Qua câu chuyện của bạn bè nói
về một thiếu-nữ bị pháo găy chân. Chuyện đó có ǵ lạ đối với
chiến-trường này. Nhưng một chút ngạc-nhiên cũng đă đến với tôi là
từ ngày chúng tôi đến đây – trên pḥng-tuyến này – bạn bè chúng tôi
cũng đă chết nhiều nhưng chưa nghe nói một người dân nào trốn giặc
bên chúng tôi bị nạn cả. Sao lại có chuyện này. Tôi chưa kịp hỏi mà
chỉ lơ-đăng h́nh-dung về chị, về h́nh ảnh một thiếu-nữ gẫy chân.
Ḷng tôi trơ cứng như hồn đá sỏi, chẳng một chút xúc-cảm nào mang
nghĩa xót thương. Bởi ở đây tôi đă quen lắm chuyện đau thương mà
b́nh thường chắc cũng không khỏi mũi ḷng cũng như quen mùi xác rữa
của địch rải-rác trước pḥng-tuyến mà b́nh thường chắc cũng thấy hôi
tanh.
Viên đạn pháo nổ tung mái ngói trên chỗ tôi ngồi đưa tôi trở về thực
tại rời khỏi thoáng chốc vu-vơ. Tâm-trí tôi lại trở về với máu lửa
của những trận đánh kế tiếp. Tôi đă quên đi chuyện này như chuyện
chiêm-bao ngủ gật. Bởi ở đây có biết bao chuyện lạ đời để măi măi
không nhạt nhoà trong tâm-tưởng.
Ngày đầu tiên tôi vào đây. Trong căn nhà bên kia ḷ bánh ḿ, tôi đă
gặp một em chưa đầy tuổi thôi nôi, nằm giữa một chiếc giường chăn xô
gối lệch. Em đang an giấc trong lời ru của ruồi nhặng, mắt môi đầy
ắp những sinh-vật mới sinh. Tôi sững sờ không phân-biệt được em là
trai hay gái. Ḷng tôi rưng rưng lẫn buồn nôn. Tôi quay ra như trốn
chạy một điều ǵ, rồi mănh-lực nào đó đă giữ tôi lại, cúi xuống kéo
tấm chăn phủ kín người em. Đàn nhặng vù lên như một sự phản-đối
gớm-ghiếc. Vĩnh-biệt em. Một thời ngắn ngủi làm người trong
chiến-tranh ly loạn cũng như chuyện một đêm, người thiếu-phụ bật
tiếng rên la từ một góc phố cùng với trận đánh bên ngoài. Người y-sĩ
đă bỏ việc cứu thương, cứu lính để t́m người thiếu-phụ, làm việc cứu
dân. Dưới ánh sáng leo-lét của ngọn đèn dầu không đủ sáng hết căn
hầm bé nhỏ, người thiếu phụ đang chuyển bụng. Một việc bất ngờ đối
với người y-sĩ vưà mới về đơn-vị này. Xưa nay trên chiến-trường chỉ
có tử chứ nào có sinh, nhưng đây cũng là một chuyện lạ bất ngờ.
Người y-sĩ chỉ quen cứu chữa những vết thương v́ bom đạn, bây giờ
trước vết thương này – vết thương sinh-tồn của giống-ṇi, đă khiến
cho người y-sĩ phải bỡ-ngỡ và người y-sĩ đă làm hết sức ḿnh để cứu
mẹ con người thiếu-phụ thoát khỏi cơn nguy-nan của một lần “vượt
biển” đời giửa cảnh phong-ba băo lửa này. Đối với người thầy thuốc
th́ việc tận-lực cứu dân hay cứu lính không quan-trọng mà cứu người
là thiên-chức của họ. Nên đă không phân-biệt vết thương của bạn, thù
hay dân, lính. Rồi em bé cũng ra đời để mang tên của người thầy
thuốc – Ân-nhân cứu tử của mẹ con em. Tôi không hiểu em bé có cất
tiếng khóc để chào đời, chào cuộc chiến, hay đă im lặng như cảm-nhận
thảm-hoạ chiến-tranh để cùng mẹ cha nhẹ gánh chạy giặc.
Tôi cũng đă đi qua trận đánh phía Tây trong đêm tối hăi-hùng – lẫn
lộn trong điêu-tàn sụp đổ xác người, thú – những viên đạn B41 xanh
biếc, lập-loè cắt rách màn đêm như điềm báo tử-thần quanh đây cùng
với những âm-thanh đạn pháo, xé rách không gian hứa hẹn bao điều
thảm họa phía sau. Cảnh huyên-náo của chiến-trường trong đêm tối, đă
thôi-thúc chúng tôi đi tới trong thách-thức số-phận cùng với
gian-nguy, để lùa địch ra khỏi ṿng đai của thành-phố và sáng hôm
sau chúng tôi đă đổi được chỗ của kẻ chiếm đất để giữ lại đất.
Chiều ngày 18/04 chúng tôi đă đến từ ngoại-biên Đông-Nam của
thành-phố. Nh́n vào trận-địa trước mặt, như một canh bài đă được bày
sẵn trên chiếu bạc mà tẩy đôi bên là xương máu, súng đạn. Địch dửng
dưng đứng nh́n chúng tôi như một người chủ mất dạy ra tiếp khách.
Tôi nghĩ họ đă đánh giá chúng tôi như những con cừu non hiền-lành
đang dấn thân đến gần miệng sói lang. Địch quân đông, pháo nhiều lại
trong thế thủ. Chúng tôi quân ít, vũ-khí nhẹ, trận-địa không quen,
lại thêm đường xa mới tới. Địch đang trên thế thắng – chúng tôi
trong t́nh-trạng thể chất mỏi mệt. Sự tương-quan chênh-lệch giữa đôi
bên đă khiến cho địch xem thường chúng tôi. Và không cho phép chúng
tôi được quyền chủ-quan, dù bất cứ một chủ-quan khiêm-nhường nào đi
nữa – Thế yếu – chúng tôi phải đổi thắng bại bằng dũng-cảm và
hy-sinh nên đă không cho phép chúng tôi quên “Tiên hạ thủ vi cường”.
Địch không ngờ chúng tôi đă đánh sau vài tiếng đông hồ khi màn đêm
vừa buông xuống. Họ cũng không ngờ chúng tôi chúng tôi lại là những
người linh tinh-nhuệ trong bóng đêm. Một chiến-thuật đă làm cho
đơn-vị chúng tôi vang danh trên khắp chiến-trường – là khắc-tinh của
bám trụ, của kiềng, chốt mà một thời địch đă tự hào là một
chiến-thuật ưu việt của họ. Chúng tôi đi đến đâu, kiềng chốt bám trụ
của họ tan tành đến đó. Mậu-Thân 68 ở mặt trận Cây Thị Gia-Định là
một. Người ta đă biết chúng tôi qua chiến-thuật này cùng những lời
ví von biến hai chữ Biệt Cách thành “Bird cat”một loại chim mà
phương Tây đă lấy làm biểu tượng cho điều đáng kính và mang ơn – Cú
mèo – Quả thật tôi cũng không ưa. Người Á Đông vẫn cho rằng nó là
biểu hiện cho điều hung hiểm. Khi có chim cú đến nhà là điềm báo
tang tóc, bại vong. Đêm nay chúng tôi đă đến – hẳn là địch đă không
tin. Một trận đánh mà địch đă không lường trước đuợc sự thảm bại lại
thuộc về ḿnh. Để từ đó, đổi lại ưu thế tinh-thần thuộc về chúng tôi
trong các trận đánh sau này. Điều cấm kỵ trong lúc giao chiến mà nễ
sợ địch, chính đó là sai lầm của chúng.
Bóng đêm tan dần, mặt trời lên. Quang cảnh trận địa thật thê-lương
ảm đạm. Ruồi nhặng thức giấc vo ve reo mừng máu bầm, máu tươi thịt
mới, cũ la liệt khắp nơi. Ba đêm không ngủ – đôi mi trĩu nặng ngàn
cân. Tôi cố nhướng lên cùng với ư nghĩ âu lo sợ địch phản công.
Nhưng vô ích tôi đă gục xuống ở góc một hiên nhà…Tôi tỉnh dậy giữa
những tiếng pháo xa, gần quanh chúng tôi. Địch bắt đầu pháo vào trận
địa. Chỉ có đạn rơi và pháo nổ, nơi đây chẳng c̣n một ai – ngoại trừ
chúng tôi và ruồi nhặng.
Trưa mùa hè nắng hạ, mùi thịt da śnh thối quyện đặc không gian, đă
khiến chúng tôi thở tưởng như oxy cũng nhuôm máu. Và thật bất ngờ,
tôi đă gặp hai vợ chồng cụ già nơi này – ở một xó bếp. Ông cụ ngồi
dựa lưng trước cửa một cái hầm nổi bằng bao cát và thùng phi chứa
đăt. Người vợ đang ngồi nhen lửa trong bếp gần đó. Chắc họ cũng vừa
mới chui ra khỏi hầm, chắc họ cũng thức suốt đêm qua? Tôi đến gần
chào họ – vẫn im lặng. Tôi chào lần nữa, ông cụ vẫn bất động nh́n
thẳng ra trước mặt. Tôi chưa kịp thắc mắc th́ tiếng bà cụ vang ra mà
chẳng cần quay lại “Ổng mù và điếc đó” Tôi cứ tưởng là bà cụ đang
nói chuyện với ông Táo. Tôi cúi nh́n vào đôi mắt ông cụ. Đôi mắt của
người “ngủ ngày”. Thái độ và giọng nói của bà cụ, tôi hiểu họ không
muốn nh́n thấy ǵ trước mắt, không muốn nghe ǵ bên tai. Dù chúng
tôi là bạn hay thù. Dù là tiếng đạn hay tiếng bom. Họ đă tự thoát ra
khỏi trần đời, thế sự, nên con người hay sự vật chung quanh không
c̣n lệ thuộc thế-giới của họ, tôi quay ra với những ư nghĩ không
vui.
Hai tháng sau có dịp tôi đă trở lại nơi này. Chẳng c̣n một thứ ǵ
nguyên lành, ngay cả mùi hôi thúi ngày nào cũng chẳng c̣n. Căn nhà
bếp, nơi tôi đă gặp hai vợ chồng ông cụ cũng chẳng thấy. Nhưng căn
hầm vẫn c̣n đó với trăm thứ, cột kèo gạch ngói phủ lấp lên trên.
H́nh ảnh hai ông bà cụ cứ chờn vởn trước mắt đă khiến tôi chui vào
hầm. Ánh sáng không đủ cho tôi thấy rơ ḷng hầm nhưng rơ ràng hai bộ
xương một nằm, một ngồi dựa vách đă khiến cho tôi sững sờ và rờn-rợn
khắp người. Tôi cố nh́n họ một lần nữa cũng chỉ thấy hai bộ xương mà
chẳng thấy ǵ trong tâm trí ḿnh. Tôi chui ra với những ư-nghĩ ră
rời cùng với mùi hôi hăng-hắc khó chịu của xác người chết khô.
Trời chợt đổ cơn mưa, cơn mưa nhẹ của chiều tháng sáu đă làm cho
ḷng tôi càng thêm quay quắc trong nỗi buồn..
Tôi trở về chân đồi Đồng Long. Nơi đây trận đánh cuối cùng của chúng
tôi vào ngày 12 tháng 6. Địch đông gấp 5 lần. Trận đánh kéo dài từ
sáng sớm cho đến chiều, không ăn không nghỉ. Xác một Mỹ, một Cứ… nằm
dài trước mặt tôi dăm ba thước mà mới đêm qua c̣n nằm bên nhau xầm
x́ to nhỏ, chuyện không đầu không đuôi của lính, chuyện buồn vui của
gia đ́nh, của người thân, chuyện ngày qua và mai sau…Thế mà bây giờ
th́ nằm đó, giữa những họng súng địch canh giữ, ai sẽ đưa các anh
về..? Không bỏ chiến tuyến không bỏ xác bạn đó là điều khẳng định
của chúng tôi. Địch cũng hiểu rơ điều này nên đă không bỏ công canh
chừng.Trời chiều nghiêng bóng, ḷng tôi như lửa đót, cổ khô đắng bởi
mùi thuốc súng và khói bụi. Tôi nằm ngửa canh chừng những quả đạn 81
bay lên từ chợ Mới vẽ thành những đường cung mường tượng trong không
gian, khi viên đạn bay qua để xem may rủi giữa ta và địch. Khoảng
cách an toàn giửa điểm nổ và quân bạn đă không dành cho chúng tôi
trong trận đánh này, và cứ mỗi lần nh́n thấy viên đạn bay lên không
b́nh thường, tôi lại phập phồng không đoán được nó sẽ rơi vào chỗ
nào? Rồi nhắm mắt lại để tưởng tượng nó sẽ rơi ngay vào đầu
ḿnh…Chúng tôi đă chấp nhận đạn rơi cách chúng tôi đôi ba thước ở
thời điểm nổ chậm nên có thể chôn vùi chúng tôi trong cát bụi, nhưng
buộc địch phải bỏ những chiếc áo giáp chữ A, chữ Z sát cạnh chúng
tôi năm ba thước để chúng không c̣n có cơ hội kiên tŕ bám dính
chúng tôi nữa. Rồi một thể lao thẳng qua pḥng tuyến địch bắn phá,
coi đạn địch bắn ngang dọc như rơm rác, như giấy hoa. Mắt tôi mờ đi
v́ những h́nh ảnh dũng cảm của bạn bè – Một Thiện ngày nào trong
trận đánh tái chiếm khu cảnh-sát. Bàn tay phải bị bắn đứt, Thiện vẫn
tỉnh táo giơ lên để máu bớt chẩy, tay trái kẹp súng bắn trả như vừa
cầm đuốc vừa bắn giữa cảnh mịt mù khói bụi. Một Y Muih Mlor tay ướt
đẫm máu tươi đứng trên nắp hầm địch, mặt vẫn tỉnh bơ như thể chẳng
có ǵ xẩy ra trên thân thể ḿnh, và mới sáng nay Vosary bị địch bắn
bay hàm dưới vẫn đứng chỉ tay về phía hầm địch để báo cho bạn bè.
Người đen, máu đỏ đầy miệng, đă khiến cho mấy thằng Việt cộng con
không khiếp đảm cũng phải rùng ḿnh. Những h́nh ảnh đó đă thể hiện
một phần nào cái dũng của BCD mà chỉ có trong nguy nan mới thấy
được. Tôi hănh diện đă có những người bạn như thế đó đă làm rạng
danh cho đơn vị một thời. Địch cũng đă đoán được “cơn nước lũ” chúng
tôi sắp tràn qua và thể như một điềm báo trước để địch phải tháo
chạy.
Bóng chiều tắt dần – trong im lặng không tiếng súng. Chiến trường
như băi chợ chiều, ngổn ngang súng đạn cùng xác chết. Chúng tôi đă
không ồn ào ḥ reo chiến-thắng. Chúng tôi không nh́n thấy những
chiến tích trước mặt mà đă im lặng nghĩ nhiều đến những bạn bè đă
hy-sinh, đă nằm xuống trong trận đánh để đời này. Cơn gió lành lạnh
thổi qua mang theo những tia nắng cuối cùng trong ngày ch́m dần vào
màn đêm giữa sự im lặng ngẩn ngơ của chúng tôi. Một ngày đă qua với
bao nhiêu máu và mồ hôi đă đổ xuống – với địch ngày nào đă rầm rộ đi
vào, bây giờ đă phải tan tác tháo chạy t́m sống trong số phận rủi
may. Chẳng bù lại ngày 14/4 đă tràn vào thành-phố như chỗ không
người. Ngạo-nghễ, kiêu-căng trên những chiến xa, giữa sự trốn chạy
hăi hùng của người dân. Nhưng giờ đây vết tích c̣n đó. Hàng trăm
chiến xa nối đuôi nhau bị bắn hạ khắp nẻo đường phố. Họ đă mất đi sự
tự kiêu, tự măn lúc ban đầu. Giờ đây chỉ c̣n mong lấy thịt đè người,
lấy hoả lực đàn áp tấn-công. Bốn sư-đoàn 5,7,9 và B́nh-Long khoá đầu
chận đuôi tận lực vây hăm. nhưng An-Lộc đă không mất đi trong cơn
hấp hối th́ địch c̣n mong làm đuợc ǵ trong sự hồi sinh dũng mănh
của quân trú pḥng. Bọn giặc Cộng lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan
rồi tự tan ră trong sự phản công quyết định của đơn vị tham chiến.
An-Lộc đă trở thành một biểu tượng cho sự dũng cảm và hào hùng của
quân đội miền Nam.
Tôi đứng trên lưng đồi phía Bắc để nh́n ngược về phía Nam, về chợ
Mới. Dăy phố quen thuộc trong 60 ngày qua xa trông như vẫn nguyên
lành duy nhất, c̣n lại chung quanh là hoang tàn đổ nát. Một chút tự
hào đă thoáng đến với tôi. Tôi chợt nghĩ đến những thành quách xa
xưa – dăy phố chơ-vơ nhỏ bé nằm giữa hai góc đường đó như một ốc đảo
trong sa mạc khói lửa đă qua. Những vết đạn lớn nhỏ loang lỗ khắp
cùng bởi bao lần bị bắn phá, bị tấn công, nó đă trở thành một thứ
anh hùng hảo-hán thân mang đầy thương tích mà vẫn khí phách ngang
tàng đứng vững giữa trận địa. Nó không c̣n là một dẫy phố thương mại
b́nh thường của thương nhân, mà nó đă trở thành một thứ thành quách
sắt thép của 81 – chỗ dựa cho đại pháo Navaron và nó c̣n là một
chứng tích mà tự nó đă nói lên biết bao chiến tích hào hùng của
Liên-Đoàn 81/ Biệt Cách Nhẩy Dù chúng tôi.
Tôi trở về để gặp hai em bé trên dưới mười tuổi đă sống hai mươi
ngày dưới hố sâu, trong hầm tối ở chân đồi Đồng-Long. Ngày ngày
không cơm gạo, không nước uống, giữa vùng đăt địch đóng quân. Em kể
đêm đêm đă lén ḅ ra ăn cỏ, uống nước hố bom. Nh́n hai em nửa người
nửa vật, nữa trẻ, nửa già – nh́n hai em như tượng đồng đen thời cổ,
như tranh vẽ trừu tượng thời nay. Hai em nh́n chúng tôi trong hố mắt
lạc lơng xa lạ. Chúng tôi nh́n hai em với nỗi buồn xót xa…
Lần cuối cùng tôi gặp chị, nhưng nay vẫn khó quên. Thật ra th́ tôi
chẳng nhớ ǵ về chị cả, nhưng tôi đă khó quên v́ cảnh gặp chị. Ngày
đó tôi đi giữ băi tải thương ở Xa-Cam, và được lệnh phải để ư đến
chị. Tôi đă không vui với điều này bởi chị không là ǵ cả. Không
bạn, thù, chiến hữu. Tôi muốn dành chỗ của chị cho một thương binh.
Dù là một ư nghĩ hẹp ḥi, nhưng đó là sự thật ở ḷng tôi lúc bấy
giờ. Tôi lơ đăng nh́n chị để xem người thiếu nữ bị thương đêm nào mà
tôi đă từng nghe bạn bè nói đến. Chị mặc quân phục của đơn vị chúng
tôi nằm dài trên một cái ghế xếp thay băng ca. Tôi thoáng thấy sắc
diện chị lợt lạt trong nắng vàng lẫn bóng lá xanh của cao su. V́
không ưa nên tôi cũng không nh́n nhiều để biết chị đẹp hay xấu mà
tôi chỉ nghĩ đến chị nằm đó đang nghĩ ǵ? Chị có hiểu không, khi
trực thăng tới sẽ “chở” theo đạn pháo của địch tới. Chị hớ hênh chân
co chân duỗi nằm đó! Chung quanh không bờ đất che chở, không gốc cây
ẩn nấp. Liệu chị có thoát khỏi một lần nữa bị thương hay làm “danh
tướng” không? Và thần thánh nào sẽ che chở cho chị qua cơn mưa pháo
này? Tôi đă hồ đồ nghĩ về chị trong cái nằm của một người lính ngoài
trận địa. Giá mà biết được ư nghĩ của tôi ngày đó – nếu không giận
chắc chị cũng kém vui, phải thế không? Có thể chị đang âu lo về
những điều tôi đang nghĩ, cũng có thể chị đang bận nghĩ đến một viễn
ảnh vui hơn – đuợc đưa lên tàu đáp xuống ở Lai-Khê. Chị sẽ thoát nạn
– về Sài-G̣n vào bệnh viện, chị sẽ b́nh phục lại như xưa – Rồi chị
sẽ mặc áo mới màu thiên-thanh cùng bạn bè lang thang dạo phố
Bonnard, qua Pasteur ăn fá lấu, uống nước mía Viễn-Đông, về xem TV
chiếu chuyện chiến-sự…Đời lại tiếp nối nỗi vui tươi trong tiếng cười
rộn ră…Chị sẽ quên đi những tháng ngày dài bầm dập ở địa ngục
An-Lộc, như quên một giấc mộng hăi hùng trong đời. Hay có nhớ, những
muỗng cháo cơm nặng ân-t́nh của anh Kiên. Hay có nhớ một thời lộng
lẫy đón đưa của chị ở An-Lộc trước chiến-tranh? “An-Lộc địa” của chị
rồi cũng sẽ qua đi trong xa cách ngàn trùng, mà bất cứ ai dù lính
hay dân cũng đều muốn thoát chạy, rời bỏ…Chúng tôi cũng vậy- cũng
chỉ mong cho tất cả mọi người dân nơi đây được b́nh yên rời khỏi nơi
đây. Bởi ở lại cũng chỉ chuốc lấy thêm phần thương đau mất mát trong
bom đạn vô t́nh may rủi mà thôi.
Tôi đứng dựa lưng gốc cao su chờ đợi tàu đến cùng vẫn vơ với những ư
nghĩ không đầu không đuôi về chị, về tha-nhân, mà quên ḿnh cũng chỉ
là một con người – như mọi người, đang sống trên cơi đời này -ḷng
cũng đầy những vướng mắc bận bịu bởi những tham sân si, hỉ nộ ái
ố…cùng với bản năng sinh tồn của một sinh vật nên hẳn chị đă không
tin khi tôi nói; chúng tôi đă không bận tâm đến hai chữ sống chết
khi đối diện với họng súng của địch. Nhưng nếu không xem thường cái
chết để chờ “sung rụng” chờ “bất chiến tự nhiên thành” chúng tôi khó
mà có chiến tích để chị viết thành thơ…Tôi mơ màng trong thực và
mộng để rồi chợt tỉnh trong âm vang tiếng động cơ con tàu cùng với
âm thanh bắt đầu của pháo đưch bắn đi. Tôi nh́n về phía chị, về phía
bạn bè của chúng tôi với ư nghĩ chợt đến: trận mưa này liệu có
“rước” ai không? Rồi quên đi chị nằm đó trong cảnh hỗn loạn của băi
đáp – vừa chặn bạn, vừa pḥng thủ.. tôi không nghĩ ǵ hơn là phản
ứng với những điều chớp nhoáng đến với tôi trong đầu. Tiếng trực
thăng lớn dần từ trời cao – cây rừng xôn xao găy đổ trong tiếng đạn
nổ. Đoàn tàu răi dài trên khúc quanh con đường, hai bên ngổn ngang
đầy dẫy xác người và chiến cụ…phút chốc rồi lại nối đuôi lên cao…
chẳng c̣n ồn ào trên băi đáp, chẳng c̣n lo lắng ở ḷng tôi. Tôi nh́n
theo đoan tàu xa dần vào chân mây…
Rồi ngày tháng qua đi chị cũng xa vắng trong tâm tưởng chúng tôi.
Chúng tôi không c̣n dịp nghĩ nhớ đến chị ở những chiến-trường nối
tiếp. Dẫu chị mới đó đă từng sống chết bên chúng tôi, dẫu chị mới đó
đă từng giúp chúng tôi đôi lời ghi dấu tích đơn vị trên đài chiến-sĩ
trận vong. Ai qua An-Lộc, khi về chắc cũng không quên những lời này,
mà chị đă để lại cho chúng tôi sau trận chiến. Người đời sẽ nhắc đến
chị hay chúng tôi cũng chỉ là một – nếu người ta để chút thừa hơi
thở mà nói đến hai câu thơ này – người lính BCD và thiếu nữ tên Fa –
một bóng kiều diễm – mà một thời chị đă tự măn với hai tiếng “dáng
tiên”, một thời có lắm kẻ quên ăn mất ngủ v́ chị, có đúng không?
Sau đó, ngày về của chúng tôi từ An-Lộc – rượu uống chưa kịp say đă
phải ra đi. Hết Quảng-Trị, Cổ Thành, Thạch-Hăn đến Cao-Nguyên “gió
núi mây ngàn”, khi miền Tây Bà Đen, Suối Đá, lúc miền Đông rừng Lá,
Phước-Long, chúng tôi đi không nghỉ- mặc cho tháng năm vợ đợi, con
chờ, mẹ ngóng cha trông…mặc cho người t́nh cô đơn dạo phố mùa đông.
Chị thấy đó, trước mặt chúng tôi là sông, là núi, là địch là thù,
sau lưng là nợ là t́nh. Chúng tôi quay cuồng trong cuộc sống
chiến-chinh với tháng ngày qua mau. Chúng tôi nào biết mùa Hè nắng
lửa ve kêu, mùa Thu ru lá ngủ trên cành, Đông tàn rồi lại sang Xuân.
Nếu có chăng khi lên đỉnh Birgmama ngồi ngắm B52 thả bom chặn địch,
lúc xuống Charlie nghe âm vang quân bạn ḥ reo giết giặc, hay qua
Chu-Dao ngậm ngùi nhớ núi nhuộm màu khăn tang. Rồi ra Quảng-Trị, vào
Cổ-Thành…ngày ngày đội pháo thay mưa, đêm đêm chiêm bao vua Chiêm về
đ̣i Ô-Lư…Đời sống của người lính BCD là vậy đó, chị thấy không?
Chắc chị c̣n nhớ “cư an tư nguy” mà!Nên chúng tôi đă không bận tâm
cho tương lai trên đường chinh chiến mà chỉ mơ một mai được sống
trong cảnh thanh-b́nh của đất nước.
Chiến trường rồi cũng qua đi trong giông băo. Ngày tàn cuộc chiến,
chúng tôi vẫn chưa được sống với ước mơ. Chúng tôi lại phải ra đi để
vào cuộc chiến mới. Cuộc chiến của khổ nhục và lưu đày. Sau bao năm
sống trong từng ngày; đói trong hơi thở, ăn trong giấc mơ và nhục
chung tên cùng “tội phạm” đó.
Ngày được thả về tôi lại phải vác cuốc đi đào mả con, mả anh để trả
đất cho người ta cất nhà, cất chợ…Bây giờ trên đường lang thang,
kiếp sống nương nhờ…dù không lo đói, mặc, nhưng ḷng tôi vẫn thấy
lạnh khi Xuân tàn. Con đường không chọn lựa mà phải đi – cuộc sống
không mơ ước mà phải sống, nên tôi vẫn thấy nhớ Nước lạ lùng! Chị
biết không: “Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn…”. Xưa kia tôi vẫn
thấy dửng dưng với câu hát này, mà nay, có đôi khi tôi đă sợ không
dám nghe. Tôi đă giận tôi, giận sự yếu mềm ở ḷng ḿnh. Nhất là
trong những khi lang thang lạc lỏng trên đường vắng – tiếng vọng
chân đi mà cứ ngỡ bước chân người thân, hay trong những đêm giá buốt
như đêm nay đă có biết bao điều đến với tôi – để rồi dù có muốn chối
bỏ đi những ǵ không hợp lư, không thực tế trong thực tại tôi vẫn
không ngăn được tiếng thở dài.
Ở đây như một thiên-đàng cho bao kẻ nghèo đói của các dân tộc sống
trong chiến tranh và áp-bức. Tôi là một – đến từ chế độ cộng sản,
đến từ nghèo đói miếng ăn và nhân-quyền, tự do, mà cho rằng không
thoả-măn hạnh phúc, không vui…th́ thật không thực tế chút nào phải
không chị?
Ở Việt-Nam rồi cũng chẳng c̣n ǵ. Nhưng với những h́nh ảnh thật tầm
thường – có lúc ta như muốn chối bỏ, lăng quên khi nh́n vào cuộc
sống văn-minh tiến-bộ của nước người…có lúc ta thực sự đau ḷng cho
sự nghèo nàn sơ xác của một dân-tộc – của một đăt nước – của
Việt-Nam ḿnh. Có nghĩa ǵ “chiếc cầu tre chênh-vênh nhỏ bé” hay
“căn nhà tranh mặc gió lung lay…”Nhưng nó đă không có trên đất nước
nầy. Trong đời sống văn-minh tiến-bộ của người ta, mà nó lại tồn tại
vĩnh-viễn ở trong tôi. Nên nó đă khiến cho tôi dễ bị cảm-xúc hơn là
đi qua Golden Gate hay vào Sear Tower là những kỳ-quan của thế-kỷ.
Tôi đă đến những nơi nầy để chiêm-ngưỡng – nhưng cũng chính là để
vọng tưởng nhớ nhung, tôi cũng đă nh́n tượng Nữ Thần Tự Do, để thấy
ḿnh cũng tự do thế thôi. Không hiểu một mai sẽ có ǵ thay đổi trong
tôi? C̣n với hiện tại tôi đă nghĩ: Giá Việt-Nam không c̣n chế-độ
cộng-sản – không c̣n những tên Việt-Cộng ngu dốt và ác độc – không
c̣n bất-công và áp bức – Có lẽ tôi sẽ trở về dù chỉ để làm một ông
câu nghèo nàn, sáng cơm chưa no đă lo chạy gạo tối. Hay cùng lắm làm
một con chim cú già hèn mọn để được đậu cành tre trên quê-hương
ḿnh.
NGUYỄN SƠN
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Bụi đất và hư vô
Mùa Noel cũ
Cuối năm tiễn biệt Mẹ
Giọt máu rơi của
người lính chết trẻ
Chữ tín
Chọn Năm Căn
Nỗi bất hạnh đời tôi
A-1H Skyraider Tarin65
Thằng láng giềng
40 Năm tỵ nạn... Nh́n lại đoạn đường
Việt Cộng pháo kích trường Tiểu Học Cai Lậy 9/3/1974
Chuyện 10 năm trước. Ngày 3 tháng 12-2004
Bạn bè
Tấm thẻ bài
Ngôn ngữ lính
tráng Sài G̣n xưa
Tiểu Đoàn 66 Biệt Động
Quân Biên Pḥng
Hương Tràm Trà Tiên
Người cựu chiến
binh già
Tàn cơn binh lửa
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ -
Ngọn Cờ Đại Nghĩa
Chuyện một lá cờ
Cờ
vàng trong trái tim tôi
Nắng chiều
bên ghềnh thác Niagara
“Trâu Điên” Và Cố Vấn Mỹ...Muộn Vẫn Phải Nói...
V́ sao tôi là Nữ Quân Nhân?
Nhật kư trên tiền đồn Do Thái
Tảo
một mùa thu Arlington
Tướng Đỗ Cao Trí - Người chết không yên
Những người lính cùng chiến tuyến bảo vệ tự do
Mang các anh về miền đất tự do
Bầu trời đánh mất
Bằng Lăng
Như vạt nắng chiều
Đời sống người Việt tại Úc
Truyện một người lính gương mẫu
Sự thật cuối cùng đến quá trễ!
Hồi ức Sài G̣n thời lính tráng
Mẫu chuyện về Thống tướng TMT Lê Văn Tỵ
Mùi áo lính
Ôi! Chareles
Vở mănh tinh cầu
Chúng tôi mọc
rễ và yêu thương...
Thủ Đức - Một thời khó quện
Ba Tôi, Người Lính VNCH
Chuẩn Tướng Lương Xuân Việt
Thiên hùng ca dựng một ngọn cờ
Sống với đàn anh không phải dễ
Chiều lạnh giáo đường
Hoài niệm
Những v́ sao
của một thời tuổi thơ
Ngọn đuốc Lê Xuân Việt
Một chút mặt trời...
Trốn trại
Chuyến ra khơi đầu tiên
Hữu Loan và màu tím hoa
sim
Hệ thống thông tin gián điệp toàn cầu Echelon
Cho cuộc t́nh đầu
Ngày Quân Lực 19/06 tại Melbourne
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Một kỷ niệm xa xưa
Bố tôi, người
lính Việt Nam Cộng Ḥa
Điệp vụ
U2
Vụ tấn công USS Liberty
Ngày 19
tháng 6 dưới mắt một hậu duệ VNCH
Ngày Quân Lực 19 tháng 6 lần thứ 49
Cha là niềm tự
hào của Con
Vượt qua khỏi con
Trăng
Con gái của Ba
Nếu bạn
muốn thay đổi thế giới
Người
lính già trên chuyến tàu đêm
Trên đỉnh cô đơn
Một thoáng qua
hồn
Ban Mê Thuộc -
Ngày đầu ngày cuối
Mênh mang mùi
biển mặn
Rừng lá thăm anh
Vợ và những ngày
đầu đời lính
Hành quân lưu động biển LLĐN Duyên-Pḥng 213
Chị hai
Bóng ngả đường
chiều
Bài thơ t́nh
Thị Nở - Chí Phèo
Giọt nước mắt... v́ niềm kiêu hănh
Sức mạnh t́nh
chiến hữu
Những tản mạn về "Cố Vấn"
Đuờng chinh chiến
Chết tại Ban Mê Thuột
Bài t́nh ca ngày đó
Người trở lại
Pleime
Nhà thơ đi lính
Con rạch nhỏ quê ḿnh
Chuyện cái nón lá
Chuyến Taxi cuối
cùng của đời người
Chuyện của một người không có tội
Hoa Dă Qùy của anh!
Chỉ c̣n là kỷ niệm
Tháng Ba t́m về tử
lộ
Như cánh diều bay
10 tội đại ác của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản VN
Gió ơi! xin đừng thổi
Bánh ḿ và hoa
Hồng trong ước mơ của Mẹ
Những người vợ cùng
tuyến đầu
Đại Uư dũng cảm
Người Việt viết
tiếng Việt. "Người Giệc Giết" tiếng Việt
Đời Phi Công
Nợ Đời một nửa,
còn một nửa nợ ơn em
Từ trại tù ra biển khơi
Trường Phi Hành Hải Quân Hoa Kỳ Pensacola
Chỉ v́ một câu hỏi
Trại "tù" cải tạo – địa ngục trần gian ở VN
Con gái người ta
Bùi Giáng:
Diogenes thời đại !
Năm Ngọ nói
chuyện ngựa
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng