Tôi quen biết chàng khi anh ấy đă là lính. Cái lon Chuẩn úy chẳng là cái thá ǵ với tôi, một người con gái đầy nam tính. Tiếng nói miền Trung lơ lớ khó nghe, mặt chẳng đẹp trai và nh́n qua là biết chẳng phải con nhà giàu. Mấy cái đó và cả con người đó đáng lư ra chẳng dính dáng ǵ với tôi. Thế nhưng, trời bất dung gian cái tên Chuẩn uư người Huế đó không biết bằng cách nào lại có thể xin vào dạy giờ ở cái trường Trung học tư tôi đang dạy. Tôi th́ phớt tỉnh Ăng lê, tới giờ dạy, hết giờ về không chuyện tṛ tào lao với người khác phái. Cái nhược của tôi bây giờ tôi mới biết là ở chỗ này. Thế là cứ tới giờ tôi đang dạy th́ hắn lại sai học tṛ sang mượn khăn lau bảng, mà dạy toán th́ lau bảng thường xuyên. Lại qua mượn phấn, hết phấn thường xuyên. Hết giờ lại tới chào và xin lỗi. Ngày khác lỗi vẫn hoàn lỗi, lại mượn phấn, mượn khăn.
Từ đó tôi ghét hắn. Mấy đứa học tṛ cũng biết tôi không thích hắn. Thế là tôi bảo học tṛ để sẳn một mớ phấn trong cái hộp và một cái khăn lau bảng. Học tṛ hắn qua mượn, tôi đưa luôn hộp và nói hăy giử lấy tôi tặng luôn, khỏi trả. Hắn t́m tôi xin lỗi và xin chở tôi về sau giờ dạy. Tôi từ chối, mặt lạnh như tiền đi thẳng. Buổi chiều, hắn t́m tới nhà để xin lỗi. Hôm sau không giờ dạy, hắn lại tới nhà mượn sách và ngồi ĺ nói chuyện không đâu ra đâu. Cứ hể có dịp là hắn tới nhà tôi ngồi đồng, hắn nói đủ thứ chuyện bằng âm hưởng miền Trung nặng tŕnh trịch. Một thời gian sau, tôi nghe miết rồi quen cái giọng khó nghe. Không tới trả sách th́ lại thấy thiếu vắng một cái ǵ không phải là sách. Cái chiến thuật “mưa lâu thấm đất”, “Nói hay không bằng ngồi dai” đă khiến tôi phải lên xe hoa về nhà hắn và làm vợ hắn cho tới bây giờ.
Ông xă tôi là con trai một trong một gia đ́nh hiếm hoi con trai. Cha chồng tôi là con trai một và đă mất sớm khi mẹ chồng tôi mới hơn 30 tuổi. Một nách 3 đứa con côi và cha mẹ chồng già yếu, mẹ chồng tôi đă ở vậy một nắng hai sương làm tṛn nhiệm vụ làm dâu và làm mẹ. Do đó cái ao ước và hoài bảo của bà là có người thừa tự. Tôi cô gái miền Nam tánh t́nh bộc trực, lại là một nữ hướng đạo hội họp, đi cắm trại liên miên, không nằm trong danh sách những người bà lựa chọn. Thế nhưng khi cậu con trai đă quyết th́ bà phải bằng ḷng. V́ trong thời buổi chiến tranh, người lính không thể biết trước ngày nào bỏ thây ngoài trận chiến. Và thế mẹ chồng tôi đă bỏ cái làng quê chôn nhau cắt rốn vào miền Nam để cưới vợ cho con, hầu mong t́m một mống cháu nội sau này.
Thế nhưng sau 3 năm cưới nhau tôi vẫn trơ trơ cho mẹ chồng tôi ngày đêm không yên giấc. Tôi biết trong tận cùng bà buồn lắm. Đôi khi bà nh́n tôi với đôi mắt thiếu tin tưởng. Câu “Cây độc không trái, gái độc không con” mà một lần tôi t́nh cờ nghe từ miệng bà khiến tôi buồn không ít. Thế nhưng là lính, vợ chồng không gần gũi nhau, làm sao có con được. Thế là bà bỏ Biên Hoà theo con trai ra Đà Nẵng và tuyên bố sắp đặt chỗ ở để tôi phải thuyên chuyển theo chồng. Kỳ nghỉ tết năm 73, sau buổi họp cuối cùng, tôi đón xe đi Sài G̣n và lên chuyến bay đi Đà Nẵng thăm chồng. Đến đón tôi không phải mẹ chồng mà là người lính tùy tùng của anh. Thế là chiều hôm đó tôi có mặt ở nơi đóng quân của anh. Một ngọn đồi cao của vùng núi Quế Sơn thuộc tỉnh Quảng Nam. Đây là lần đầu tiên tôi chính thức sống đời vợ lính nơi tiền đồn.
Chúng tôi trú ngụ trong căn hầm chỉ huy đầy súng đạn và trang bị truyền tin. Tôi đang đan dang dở một tấm khăn trải bàn. Thế là tôi phải hoàn tất gấp tấm khăn đó để làm chiếc màn cách ly. Cuộc sống vợ chồng trong đồn lính th́ có nhiều chuyện không thể cười mà cũng không thể khóc của một cô giáo kín đáo, nghiêm túc với cuộc sống xô bồ lính tráng ở đây. Tôi chỉ biết những ngày ở đó tôi thương lính hơn, tôi thông cảm nỗi cô đơn của chồng hơn và nhất là thật sự biết lo sợ cho chồng trong cuộc sống mà nơi đâu cũng có tai mắt của kẻ thù ŕnh rập. Hết ngày lễ, chồng tôi giao đồn cho Đại đội phó đưa tôi về Đà Nẳng thăm mẹ chồng và ngay chiều đó tôi lên máy bay về lại Sài g̣n v́ ngày mai đă bắt đầu niên học mới.
Thế là tôi có mang đứa bé đầu ḷng và tôi phải làm đơn xin thuyên chuyển để thật sự bắt đầu một cuộc đời mới. Mùa hè năm đó miền Trung đă thật không yên. Nhà tôi ở gần Phi Trường nên hàng đêm pháo dội về từng chập. Mẹ chồng tôi về lại Biên Hoà để lo cho con gái sinh nở. Tôi mang cái bụng bầu chui hầm thường xuyên. Mỗi lần có tin từ tiền đồn là tôi lo lắng hồi hộp. Những cuộc đụng độ xảy ra liên tiếp. Đại đội phó, Hạ sĩ Quan, rồi lính bị thương liên tục. Cuối cùng người Đại đội phó mới đổi về cũng bị thương. Tôi như ngồi trên lửa nóng. Nỗi cô đơn, lo sợ, hồi hộp, mất ngủ khiến tôi xuưt bị sẩy thai. Thế rồi mẹ chồng tôi cũng về kịp trước ngày tôi sinh nở. Con tôi mở mắt chào đời ở một nhà hộ sinh tư . Tôi mệt nhoài sau cơn vượt cạn, mẹ chồng tôi đón con bé với nụ cười gượng gạo. Bà chỉ mong là trai để nối dơi tông đường. C̣n anh, được tin tôi đă sinh con, anh về cùng người lính tùy tùng. Vào nhà thương, xoa đầu tôi, bồng con hôn vài cái là xe hậu cứ đă chờ để đưa anh lên lại đơn vị. Ngày đầy tháng con bé, họ hàng, bà con đầy nhà. Anh bươn bả bước vào, chào mọi người rồi tới bên tôi cười cười. Bồng con bé lên hỏi tôi “Sao mặt nó như dài ra” hôn con, ăn vội vă vài miếng. Xe hậu cứ trờ tới và anh lại lên đường. Tôi ứa nước mắt, không thể giận anh, mà cũng không thể không trách anh. Chẳng nói ǵ được với tôi một câu ngọt ngào khi tôi vật lộn trong cơn đau đẻ, lại chịu sự chăm sóc cực kỳ quái đản của mẹ chồng tôi trong những ngày nằm cữ. Tôi nhắm mắt lại, thương con và thương ḿnh quá đỗi.
Thế là cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt. Anh được đổi về làm ở Trung tâm Hành quân. Tôi nghe thôi chứ cũng không biết ở đâu? Chỉ biết ít nguy hiểm tính mạng hơn ở Đại đội. Chồng tôi là một người sống chân thành và tốt với bạn bè, đồng đội. Tôi nhớ có một lần anh dẫn về nhà một người lính và một người phụ nữ. Anh nói với tôi đây là lính trong đơn vị, vợ nó tới thăm. Anh cho nó nghỉ phép và nói nhỏ với tôi lo ăn uống cho tươm tất. Đến tối, anh bảo tôi ôm con xuống nhà sau ngủ, nhường giường chúng tôi cho hai vợ chồng kia. Anh nói:
- Tội nghiệp tụi nó, gặp nhau như vầy nó mừng lắm. Hăy để nó trọn vui. Đời lính không biết sống nay, chết mai.
Và như vậy, sáng hôm sau anh lên đơn vị, người lính cùng vợ có 3 ngày phép đoàn tụ tuyệt vời. Một lần thấy anh không c̣n bộ đồ civil nào cho ra hồn, tôi bảo anh đi may một bộ đồ mới. Anh vốn là người khó tính và kén chọn. Măi sau mới chọn được màu vải vừa ư mà may. Lấy đồ về chỉ một lần mặc thử cho tôi ngắm rồi măi bận hành quân không có dịp mặc. Đại đội phó của anh gia đ́nh ở tận miền Tây, anh ta lại phải ḷng cô gái Đà Nẵng. Thế là một hôm anh về bảo tôi mở tủ lấy bộ đồ mới may, tặng cho anh chàng Đại đội phó của ḿnh. Anh nói với tôi :
- Nó cũng trạc với anh. Nó mặc vừa đó em. Thôi tặng cho nó đi hỏi vợ. Hỏi vợ chỉ một lần chứ may đồ th́ ḿnh c̣n nhiều lần khác. Tội nghiệp gia đ́nh nó ở xa, không có bộ đồ civil nào mặc cho ra hồn để coi cho được trong ngày quan trọng.
Tôi vừa tiếc vừa phục tấm ḷng tốt của chồng. Không c̣n lời nào để nói tôi đành gói lại đàng hoàng, bỏ trong túi xách và bảo đem cho chú ấy. Ngày Đà Nẵng sắp mất, người người bỏ chạy ra ngoài bến tàu để thoát vào Sài g̣n. Chồng tôi ở Trung tâm hành quân, biết sự sụp đổ đă đến, không liên lạc được với đại đội cũ của ḿnh. Anh cấp tốc lên tận nơi trú đóng và kéo lính về trong làn sóng di tản khổng lồ của Đà Nẵng. Chúng tôi, mẹ già, con dại chờ đợi anh mỏi ṃn. Trông thấy anh về với đoàn quân tan tác mà muốn xỉu.
Chồng tôi ruột để ngoài da. Lúc nào anh cũng lo cho bạn bè, đồng đội, anh em, ít khi nào lo lắng chuyện nhà. Mọi thứ mẹ chồng tôi cáng đáng điều khiển và tôi là người tuân lệnh thi hành. Có lẽ nói ra không ai tin, nhưng đối với tôi, tôi chưa hề cầm trong tay một đồng lương lính. Ngày chưa theo anh, tôi đi dạy, có lương, có nghề nghiệp, tiền ai nấy xài. Mà tiền lính th́ tính liền anh cũng chẳng có ǵ dư dă. Theo chồng ra Đà Nẵng tiền lương anh có đưa cho mẹ chồng tôi không th́ tôi không biết, c̣n tôi chẳng hề nghe nói đến tiền bạc. Ngày Đà Nẵng mất lẽ dĩ nhiên anh không có lương và anh đi cải tạo suốt 8 năm trời chấm dứt một thời kỳ lính tráng.
Như vậy th́ làm vợ lính vui hay buồn, sướng hay khổ? Thưa các anh, người vợ lính chịu mọi thiệt tḥi. Có chồng mà cũng như không trong suốt thời kỳ chinh chiến cũng như hoà b́nh. Những ngày tù tội đă đành không thể trách ai. Các anh trong bốn bức vách lao tù, số phận ai cũng như ai. Nhưng người vợ lính ở nhà cái ṿng đai rộng hơn, bẫy rập nhiều hơn, con người tàn ác quỷ quyệt hơn đe doạ thân phận đàn bà. Tôi có những người bạn v́ thương chồng, lo lắng chạy chọt để lo cho chồng về, để rồi sụp bẫy. Cả cuộc đời danh tiết, hạnh phúc bị mất tất cả. Có người lạc bước khi bươn chải kiếm đồng tiền lo cho con, lo cho chồng cải tạo. Thương tâm lắm, đau đớn lắm cho những cánh hoa trong biển lửa tàn ác của chiến tranh ư thức hệ.
Xin lỗi các anh cho tôi nói thật. Khi ở tù về, các anh thật sự quên đi tất cả, đem hết sức ḿnh cùng sát vai vợ mà lo cho gia đ́nh không? Đàn bà chúng tôi, ăn trắng mặc trơn, học hành trí thức, nhưng đến lúc phải lo miếng ăn cho con, cho chồng th́ bất chấp sự cực khổ. Bán chợ trời, chạy hàng xuôi ngược Bắc Nam, Bán hàng rong, cày thuê, cuốc bẫm, bán thuốc tây, thuốc hút, làm công nhân… Bất cứ nghề nghiệp nào lương thiện để kiếm ra tiền th́ không quản ngại khó khăn. Các anh nhận những món quà đơn sơ, nhưng biết đâu rằng trong hoàn cảnh cả nước cùng đói, chúng tôi phải tính toán muốn bạc tóc mới đem được đến tay các anh một ít quà, nhưng là một biển yêu thương, một trời thương nhớ. Khi các anh được về nhà sau những tháng ngày bán đời ḿnh cho đói khát, bệnh tật. Các anh không biết là đă mang theo trong ḿnh một nỗi chán chường, một tâm hồn đầy bất măn và nghi kỵ mọi thứ. Các anh lính hào hoa, yêu đời, coi thường sinh mạng đă mất. Các anh bây giờ đă bỏ lại trên núi đồi Việt Bắc phân nửa cuộc đời hùng tráng của ḿnh. Chồng tôi cũng vậy, anh chán đời, bất măn và tự ái với vợ, với con và chính bản thân ḿnh. Tôi đă khóc nhiều đêm, nhiều ngày mà không biết làm sao kéo anh ra khỏi cái ám ảnh tàn khốc đó. Tôi công nhận CS thật quỷ quyệt, những bài học nhồi nhét cho các anh, nó như con ma kéo tŕ những chí hướng phấn đấu của chồng tôi. Người lính của tôi đă thật sự thất trận thảm thương.
Khi được sang Mỹ đinh cư, mẹ chồng tôi mang nhiều bệnh tật. Chồng tôi vui buồn, khoẻ mạnh hay suy nhược theo căn bệnh của mẹ chồng tôi. Anh có cảm giác ḿnh phải làm cái ǵ trả hiếu cho mẹ mà bất lực. Ngày mẹ chồng tôi mất, chồng tôi như thân cây không c̣n mầm sống gục xuống đau đớn. Anh bị trụy tim, bị strock và đầu óc càng ngày càng suy nhược theo căn bệnh Parkinson.
Bây giờ sau 38 năm chồng tôi không c̣n làm người lính, nhưng tôi vẫn làm người vợ lính hằng ngày theo từng sinh hoạt của chồng. Anh đang sống trong hồi ức những ngày bên anh em, bạn bè, đồng đội. Có món ǵ ngon là anh bảo kêu mấy đứa tới ăn. Đừng tưởng anh kêu bầy cháu tôi. Không đâu, bạn bè lính tráng của anh đó. Khi th́ kêu tôi chuẩn bị đồ nhậu, mấy thằng em tới chơi. Khi th́ bảo thay đồ cho anh để anh đi họp Tiểu đoàn. Khi th́ vui cười kể chuyện huyên thuyên như có người trước mặt.
Và như vậy tôi măi măi là người vợ lính, vui buồn chung với những suy tư và cảm giác của chồng. Những người chỉ huy, đồng đội của chồng dù không ở trước mặt, nhưng là những người bạn vô h́nh đem lại niềm vui cuối đời cho chồng tôi. Mỗi buổi sáng lạy Phật tôi đều nguyện cầu b́nh an cho chồng, cho con cho tất cả mọi người xung quanh tôi. Cầu nguyện cho những anh hùng chiến sĩ đă nằm xuống được nhẹ nhàng siêu thoát.
Tôi rất ái mộ những chị cầm cờ theo chồng trong
những cuộc biểu t́nh, hay sát cánh bên anh trong những lần sinh hoạt
đơn vị. Màu áo các chị tung bay xinh xắn, gương mặt các chị rạng
ngời hạnh phúc, đôi mắt các chị rực lửa đấu tranh. Những người vợ
lính ấy đă làm đẹp cuộc đời cho chồng, cho xă hội. Tôi không được
may mắn ấy, chồng tôi bây giờ là một thương binh thật sự. Anh không
thể sát cánh cùng đồng đội sinh hoạt, nhưng trái tim anh và đầu óc
anh đầy ắp t́nh đồng đội và quê hương. Và tôi dù ǵ và cho thế nào
đi chăng nữa tôi vẫn măi măi là người vợ lính không bao giờ thay
đổi.
Nguyễn thị Thêm
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Bụi đất và hư vô
Mùa Noel cũ
Cuối năm tiễn biệt Mẹ
Giọt máu rơi của
người lính chết trẻ
Chữ tín
Chọn Năm Căn
Nỗi bất hạnh đời tôi
A-1H Skyraider Tarin65
Thằng láng giềng
40 Năm tỵ nạn... Nh́n lại đoạn đường
Việt Cộng pháo kích trường Tiểu Học Cai Lậy 9/3/1974
Chuyện 10 năm trước. Ngày 3 tháng 12-2004
Bạn bè
Tấm thẻ bài
Ngôn ngữ lính
tráng Sài G̣n xưa
Tiểu Đoàn 66 Biệt Động
Quân Biên Pḥng
Hương Tràm Trà Tiên
Người cựu chiến
binh già
Tàn cơn binh lửa
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ -
Ngọn Cờ Đại Nghĩa
Chuyện một lá cờ
Cờ
vàng trong trái tim tôi
Nắng chiều
bên ghềnh thác Niagara
“Trâu Điên” Và Cố Vấn Mỹ...Muộn Vẫn Phải Nói...
V́ sao tôi là Nữ Quân Nhân?
Nhật kư trên tiền đồn Do Thái
Tảo
một mùa thu Arlington
Tướng Đỗ Cao Trí - Người chết không yên
Những người lính cùng chiến tuyến bảo vệ tự do
Mang các anh về miền đất tự do
Bầu trời đánh mất
Bằng Lăng
Như vạt nắng chiều
Đời sống người Việt tại Úc
Truyện một người lính gương mẫu
Sự thật cuối cùng đến quá trễ!
Hồi ức Sài G̣n thời lính tráng
Mẫu chuyện về Thống tướng TMT Lê Văn Tỵ
Mùi áo lính
Ôi! Chareles
Vở mănh tinh cầu
Chúng tôi mọc
rễ và yêu thương...
Thủ Đức - Một thời khó quện
Ba Tôi, Người Lính VNCH
Chuẩn Tướng Lương Xuân Việt
Thiên hùng ca dựng một ngọn cờ
Sống với đàn anh không phải dễ
Chiều lạnh giáo đường
Hoài niệm
Những v́ sao
của một thời tuổi thơ
Ngọn đuốc Lê Xuân Việt
Một chút mặt trời...
Trốn trại
Chuyến ra khơi đầu tiên
Hữu Loan và màu tím hoa
sim
Hệ thống thông tin gián điệp toàn cầu Echelon
Cho cuộc t́nh đầu
Ngày Quân Lực 19/06 tại Melbourne
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Một kỷ niệm xa xưa
Bố tôi, người
lính Việt Nam Cộng Ḥa
Điệp vụ
U2
Vụ tấn công USS Liberty
Ngày 19
tháng 6 dưới mắt một hậu duệ VNCH
Ngày Quân Lực 19 tháng 6 lần thứ 49
Cha là niềm tự
hào của Con
Vượt qua khỏi con
Trăng
Con gái của Ba
Nếu bạn
muốn thay đổi thế giới
Người
lính già trên chuyến tàu đêm
Trên đỉnh cô đơn
Một thoáng qua
hồn
Ban Mê Thuộc -
Ngày đầu ngày cuối
Mênh mang mùi
biển mặn
Rừng lá thăm anh
Vợ và những ngày
đầu đời lính
Hành quân lưu động biển LLĐN Duyên-Pḥng 213
Chị hai
Bóng ngả đường
chiều
Bài thơ t́nh
Thị Nở - Chí Phèo
Giọt nước mắt... v́ niềm kiêu hănh
Sức mạnh t́nh
chiến hữu
Những tản mạn về "Cố Vấn"
Đuờng chinh chiến
Chết tại Ban Mê Thuột
Bài t́nh ca ngày đó
Người trở lại
Pleime
Nhà thơ đi lính
Con rạch nhỏ quê ḿnh
Chuyện cái nón lá
Chuyến Taxi cuối
cùng của đời người
Chuyện của một người không có tội
Hoa Dă Qùy của anh!
Chỉ c̣n là kỷ niệm
Tháng Ba t́m về tử
lộ
Như cánh diều bay
10 tội đại ác của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản VN
Gió ơi! xin đừng thổi
Bánh ḿ và hoa
Hồng trong ước mơ của Mẹ
Những người vợ cùng
tuyến đầu
Đại Uư dũng cảm
Người Việt viết
tiếng Việt. "Người Giệc Giết" tiếng Việt
Đời Phi Công
Nợ Đời một nửa,
còn một nửa nợ ơn em
Từ trại tù ra biển khơi
Trường Phi Hành Hải Quân Hoa Kỳ Pensacola
Chỉ v́ một câu hỏi
Trại "tù" cải tạo – địa ngục trần gian ở VN
Con gái người ta
Bùi Giáng:
Diogenes thời đại !
Năm Ngọ nói
chuyện ngựa
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng