Tập Truyện Thuyền Đời
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Vương Trùng Dương
Nhà thơ Quách Thoại (1930-1957) với thi phẩm Giữa Ḷng Cuộc Đời và
Thanh Tâm Tuyền rất thân nhau. Tập thơ duy nhất từng in của Quách
Thoại, được Thanh Tâm Tuyền viết tặng: “Xin trao thi sĩ ṿng hoa
tặng. Chúng ta đă thắng giữa cuộc đời". Hai câu này ở trong tập Tôi
Không C̣n Cô Độc, c̣n trong Liên, Đêm Mặt Trời T́m Thấy và cũng có
bài thơ Thanh Tâm Tuyền tặng Quách Thoại, trong đó có câu “Người thi
sĩ bay vào miền đất lạ”.
Bài ai điếu tưởng niệm - khóc bạn của Thanh Tâm Tuyền:
“Thoại ơi! Thoại ơi! Không biết khóc
… Ngày tôi gặp Thoại, chúng tôi - Doăn quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần
Thanh Hiệp và tôi - đang làm những số Người Việt đầu tiên. Thoại
trao cho tôi tập thơ dày của Thoại để tôi giới thiệu trên báo.
… Cái chết của Thoại không những chỉ làm đau đớn bằng hữu của chàng
là chúng tôi mà c̣n là một cái tang lớn cho văn học trong mười năm
trở lại đây!”
Thanh Tâm Tuyền có bài thơ Gửi Quách Thoại với cả chân t́nh. Quách
Thoại ra đi đă để lại Giữa Ḷng Cuộc Đời. TTT cũng đă ra đi để lại
t́nh bạn cao quư. Bài viết mang tựa đề nầy với h́nh ảnh đẹp trong
ḷng mọi người với sự ngưỡng mộ và quư mến. Bài viết nầy nhân ngày
giỗ thứ 12 của TTT - VTrD
*
Thanh Tâm Tuyền qua đời vào sáng Thứ Tư, 22 tháng 3 năm 2006 tại
thành phó Saint Paul, tiểu bang Minnesota, thọ 71 tuổi. Định mệnh
nhà thơ trong chu kỳ đặc biệt, sinh tháng 3 năm 1936 (?) và mất cũng
vào tháng 3 năm 2006.
Để tưởng niệm nhà thơ quá cố, các thân hữu nhà văn nhà thơ nhà báo
cùng thời với Thanh Tâm Tuyền tổ chức Lễ Tưởng Niệm vào tối Thứ Năm
22-3-2007 là ngày giỗ đầu của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền (1936- 2006)
tại hội trường nhật báo Việt Báo, TP Westminster.
Nhiều văn hữu và thân hữu đă đóng góp vào chương tŕnh tưởng niệm đă
chia sẻ với những kỷ niệm, những “giai thoại” về Thanh Tâm Tuyền thể
hiện sự thân mật và ngưỡng phục.
Trong những ḍng chia sẻ đó, nhà văn Đỗ Quư Toàn, cùng Thanh Tâm
Tuyền với tạp chí Sáng Tạo thời ấy tiết lộ: “Chuyện đă xưa nhắc lại,
xin chị Tuyền cho phép. V́ sao có bút hiệu là Thanh Tâm Tuyền? Vâng,
chả là hồi niên thiếu nhà thơ có yêu một người con gái tên Thanh
Tuyền và chàng th́ tên Tâm, nên ghép lại để những tưởng...”
*
Inline image
Tên thật là Dzư Văn Tâm, sinh ngày 13 tháng 3 năm 1936 tại Vinh.
Thân phụ Thanh Tâm Tuyền, dạy học và viết báo La Volonté
Indochinoise, qua đời lúc ông mới 5 tuổi. Thanh Tâm Tuyền rất thông
minh. Năm 16 tuổi (1952) phải xin miễn tuổi và đỗ tú tài I, dạy học
ở trường Minh Tân, Hà Đông, đăng truyện ngắn trên tạp chí Thanh
Niên, Hà Nội. Năm 17 tuổi, truyện ngắn Viên Đạn Cuối Cùng của TTT đă
đoạt giải nhất trong cuộc thi do báo Thần Chung tổ chức.
Năm 18 tuổi, TTT cùng các bạn chủ trương tạp chí Lửa Việt, hoạt động
trong Tổng Hội Sinh Viên. Năm 1954, di cư vào Nam và bước vào con
đường văn nghệ với ḍng thơ tự do.
Vừa mới di cư vào Nam, TTT cùng họa sĩ Ngọc Dũng dạy học ở tư thục
Nguyễn Trăi tại B́nh Dương. Kiệt Tấn viết rằng nơi đây thầy giáo gặp
người đẹp ở miệt Búng, trở thành người bạn đời. Nhưng theo Du Tử Lê
“Thưa ông Kiệt Tấn, người bạn cũ năm ngoái từ Paris sang đây chơi,
chúng ta không có dịp nào nhắc đến TTT; không biết ông dựa vào nguồn
tin nào mà ông nói bà TTT là người ở Búng. Theo chỗ tôi được biết,
ông thân với Cung Tiến, gần với Nguyên Sa mà khá xa với TTT. Bà TTT,
không phải "người đẹp B́nh Dương' mà là "tiểu thư Hậu Giang' lên Sài
G̣n học, tôi không c̣n nhớ tại trường Nguyễn Bá Ṭng hay Trường Sơn.
Nhưng đă là học tṛ ông TTT th́ theo như ông Vơ Kỳ Điền (học tṛ của
TTT ở B́nh Dương), từ sự cảm phục chuyển sang sự say mê là một
chuyện rất gần. Vả chăng bà TTT luôn luôn có một sự trân trọng đối
với nghề dạy học. Tôi c̣n nghe kể bà chọn trường cho cậu con trai
lớn Dzư Minh Trí khi Trí vừa học xong trung học lúc TTT chưa được
tha về. "Bây giờ con học cái ǵ hở mẹ?" - "Ngày xưa ông nội con làm
nghề dạy học, bố con cũng thế th́ bây giờ con vào trường Cao đẳng Sư
phạm đi" (Sở dĩ phải vào Cao đẳng mà không vào Đại học v́ "con ngụy"
lư lịch kém không được vô đại học)…”.
Ninh Hạ Nguyễn Đức Tâm trong bài viết Thanh Tâm Tuyền - Những Điều
Nhớ cho biết:
“Chị Thanh Tâm Tuyền, tục danh là Cao Thị Mai Hoa, người gốc Cần Thơ
theo gia đ́nh lên Sài G̣n. Chưa ở B́nh Dương ngày nào. Học trường
Tây Michelet. Ông Diệm dẹp trường Tây. Chị vào trung học Nguyễn Bá
Ṭng, học đệ tứ chương tŕnh Việt. Gặp thầy dạy Việt văn Dzư Văn
Tâm. Bị thầy đ́ v́ không rành văn chữ Việt. Ư th́ có mà chính tả quá
bết. Lúc đó cô nữ sinh Mai Hoa mới tṛn trăng mười sáu. Thầy hơn tṛ
đến mười tuổi. Với tuổi đó và tŕnh độ Việt ngữ như thế, chắc không
cách nào mê được thơ đếm số cửa sổ “Một cửa sổ, hai cửa sổ...” (Tôi
Không C̣n Cô Độc) của thầy Tâm. Sau đó thầy dần dần mê tṛ. Câu
chuyện t́nh đẹp này, đầu đuôi có một người biết rất rơ: nhạc sĩ Cung
Tiến.
Liên, Đêm, Mặt Trời T́m Thấy, tác phẩm xuất bản đánh dấu ngày vui
này. Có người quyết đoán Liên là tên một người yêu của nhà thơ. Theo
Thanh Tâm Tuyền giải thích, Liên chỉ có nghĩa là liên khúc của thơ
và thơ xuôi trong tác phẩm. Ngày cưới vợ mà lấy tên người yêu cũ đặt
cho quà cưới của ḿnh th́ có nước... đi thăm Bùi Giáng. Theo chị Mai
Hoa, anh là mẫu người chồng, người cha lư tưởng. Dạy con rất nghiêm.
Không nịnh vợ. Đúng sai rơ ràng. Điều này chắc chúng ta, những ông
chồng, khẩu phục, tâm phục! Như bao nhiêu gia đ́nh khác, anh cũng
mất một đứa con trai trên đường vượt biên…”
Tập thơ đầu tay là Tôi Không C̣n Cô Độc vào năm 1955 đến năm 1964
mới xuất hiện thi phẩm Liên, Đêm Mặt Trời T́m Thấy và Thơ Ở Đâu Xa
được ấn hành năm 1990 tại Hoa Kỳ.
Inline image
Về văn, Thanh Tâm Tuyền có nhiều tác phẩm như Bếp Lửa (1957), Khuôn
Mặt (1964), Dọc Đường (1966), Ba Chị Em (Kịch, 1967), Cát Lầy
(1967), Mù Khơi (1970), Tiếng Động (1970), Tạp Ghi (1970)…
Thanh Tâm Tuyền được nổi tiếng về thơ hơn văn v́ ông là người làm
sống lại thơ tự do được h́nh thành từ những thập niên về trước và
mang làn gió gió mới trong thi ca Việt Nam hiện đại.
Ông dạy Việt Văn tại trường trung học Trường Sơn (Nguyễn Sỹ Tế, Hiệu
Trưởng), năm 1962 nhập ngũ Khóa 14 Sĩ Quan Thủ Đức. Ông được thuyên
chuyển về trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt, phụ trách tờ Đa Hiệu và sau
đó phụ trách nguyệt san Quốc Pḥng.
Bắt đầu con đường văn nghệ khá sớm, cùng bạn Doăn Quốc Sỹ, Trần
Thanh Hiệp... chủ trương nguyệt san Lửa Việt năm 1954. Một trong
những cây bút ṇng cốt của nhóm Sáng Tạo từ năm 1956 đến năm 1960.
Nhập ngũ năm 62, giải ngũ năm 66, rồi tái ngũ năm 68. Sau 75 bị bắt
đi tù “cải tạo” ở Việt Bắc.
Sau năm 1975, ông trải qua 7 năm tù. Được định cư tại Minnesota, Hoa
Kỳ trong suốt mười mấy năm qua.
Tháng 4 năm 1990, định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO, lúc đầu ở tiểu
bang Louisiana, sau định cư ở Roseville, tiểu bang Minnesota. Theo
học Điện Toán và làm việc tại St. Paul Technical College đến khi về
hưu năm 2001. TTT sống như người ẩn dật, viết rất ít, chỉ khi nào
thật sự cần thiết mới viết, như dịp tưởng niệm các bạn ông: Mai
Thảo, Ngọc Dũng, tuyên dương Doăn Quốc Sỹ... Theo lời người bạn thân
Trần Thanh Hiệp, TTT cho rằng "Nếu không t́m được ǵ thật mới th́ sẽ
thôi hẳn không viết nữa".
Bài viết Nh́n Lại Một Thời của nhà văn Doăn Quốc Sỹ vào tháng 5 năm
2005, đề cập đến giai đoạn h́nh thành của nhóm Sáng Tạo và sự hiện
diện của Thanh Tâm Tuyền:
“Năm 1954 hai vợ chồng tôi cùng hai đứa con gái đầu long và cô em
gái - năm người cả thảy - ra phi trường di cư vô Nam. Danh từ thời
thượng mệnh danh là Bắc Cờ Năm Mươi Tư.
Thuở đó tôi c̣n là sinh viên, gặp Trần Thanh Hiệp - sinh viên Luật
Khoa - chúng tôi bèn thành lập đoàn thể Đoàn Sinh Viên Hà Nội Di Cư,
Trần Thanh Hiệp đứng ra làm chủ tịch.
Để giới thiệu ĐSVHNDC nhân dịp chào mừng mùa Xuân năm đó, chúng tôi
cho in tập Xuân Chuyển Hướng. Tôi c̣n nhớ trước 1954 - thuở c̣n ở
ngoài Bắc - tôi sớm có khuynh hướng viết văn, hoàn tất được một
truyện ngắn đầu tay dưới dạng một truyện cổ tích mang tên là “Sợ
Lửa”. Di cư vô Nam năm 1954, may sao tôi có mang theo bản thảo Sợ
Lửa và cho đăng vào tập Xuân Chuyển Hướng này! Thế là như lửa gặp
gió, tôi tiếp tục... tiếp tục sang tác để chính thức đi vào nghiệp
cầm bút của nhà văn bên cạnh sự nghiệp cầm phấn của nhà giáo sau
này.
... Vào năm 1956 - cách đây đúng nửa thế kỷ - khi tập truyện cổ tích
Sợ Lửa của tôi ấn hành lần đầu, ông bạn Nguyễn Sỹ Tế của tôi viết
Tựa và Thanh Tâm Tuyền viết Bạt. Với tinh thần tri âm tri kỷ, ông
bạn Thanh Tâm Tuyền qua bài thơ mang tên “Nhịp Ba” đă nêu lên long
ước muốn thường xuyên nóng bỏng trong tâm tư thầm kín của tôi: đó là
ước muốn sao cho đất nước sớm được thống nhất tự do!...
… Thanh Tâm Tuyền suốt thời kỳ 54-75 vẫn trung thành với sự đề xướng
lúc đầu: thơ tự do. Nhưng sau 1975, trong cảnh lao tù ông có nhiều
bài thơ hay viết theo các thể truyền thống... Thanh Tâm Tuyền là
người đề xướng thơ tự do. Bênh vực chủ trương của ḿnh, ông cho rằng
nhịp điệu trong thơ cũ “đơn giản”, “nghèo nàn”; nhịp điệu trong thơ
tự do là “một nthứ nhịp điệu rộng răi phức tạp, ở một tŕnh độ nghệ
thuật cao”. Ông bảo thơ tự do “không gieo vần lối đồng âm đồng
thanh, vần của nó là vần ẩn dấu cách xa (có thể đi tới khác âm,
nghịch thanh), nhịp điệu của nó là sự phối hợp của một toàn thể
không khuôn trong một số câu nhất định khiến cho hơi thơ tự do dễ
kéo dài hơn các câu thơ khác”. Trong thơ tự do, ông lại c̣n t́m thấy
một thí nhịp điệu gọi là “nhịp điệu của h́nh ảnh”, rôi ông lại “t́m
đến một thứ nhịp điệu của lư tưởng, cả hai thứ “là sự thể hiện của
nhịp điệu của ư thức”.
Trong tập thơ Liên, Đêm Mặt Trời T́m Thấy, TTT cho rằng: “Tôi không
ngợi ca t́nh yêu, tôi nguyền rủa t́nh yêu.... Trong thơ tôi không hề
có t́nh yêu, cái báu vật mà tôi mơ ước và tưởng rằng cùng với tự do
là những hy vọng cuối của đời tôi... Thơ hôm nay không cần đến t́nh
ái và khi t́nh ái đến với thơ hôm nay cùng với vẻ tiều tụy khốn khổ
chịu đựng hất hủi như cả một cuộc đời... Trong thơ hôm nay hoặc là
thiên nhiên không được nhắc đến nhường chỗ cho những vỉa hè, cột
đèn, gạch ngói, khối sắt khối thép, da thịt, tay chân, mắt mũi hoặc
là hiện ra thản nhiên lạnh lùng khó chịu nếu không muốn nhập một với
ư thức”.
Theo TTT: “Bởi vậy tôi rắp toan bày ra một lối thơ mới này ra. V́ nó
chưa thành thực nên chưa có thể đặt tên kêu là lối ǵ được song có
thể cử cái đại ư của lối thơ mới này ra, là: Đem ư thật có trong tâm
khảm minh tả ra nbằng những câu, có vần mà không bó buộc bởi những
niêm luật ǵ hết...
… Thơ tự do chỉ là một phần nhỏ trong thơ mới. Phong trào thơ mới
trước hết là một cuộc thí ngiệm táo bạo để định lại giá trị nhựng
khuôn phép xưa…”…”
Bài viết của Thụy Khuê vào năm 2006: Thanh Tâm Tuyền (1936-2006) với
đoạn kết:
“Thanh Tâm Tuyền là nhà thơ toàn diện, total, chữ của Curtius. Chỉ
những nghệ sĩ toàn diện mới có khả năng nhấc dân tộc ra khỏi sự độc
tôn, kỳ thị. Thanh Tâm Tuyền đi từ nỗi đau cá nhân để đạt đến nỗi
đau nhân loại. Bằng cái đau nhỏ cấu xé giữa anh em trong nhà, đau
chia đôi đất nước "nói thầm với nhau, dù vỹ tuyến" (bài Vỹ Tuyến),
bằng giọt lệ khóc chung các dân tộc bị xiềng xích "Hăy cho anh khóc
bằng mắt em những cuộc t́nh duyên Budapest", để đến với cái đau lớn:
đau mầu da, đau thân phận nhược tiểu của con người:
“Một người da đen một khúc hát đen
Bầu trời đen sâu không cùng
Những gịng nước mắt
Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng…”
… Nỗi đau đen không chỉ là nỗi đau của người nghệ sĩ kèn đồng đêm
ấy, nó là nỗi đau của nhân loại, tiết ra từ xương, từ tủy, từ gịng
máu đen khốn nạn trong mỗi chúng ta với những ác tâm, kỳ thị, phân
biệt chủng tộc. Chính ḍng máu đen ghê gớm ấy đă xé nát thân thể, đă
cào cấu huyết mạch những tâm hồn không được quyền chọn mầu da của
ḿnh. Ḍng máu đen "vô tội" của mỗi người được dấu kín trong tiềm
thức, giả đ̣ quên đi trong vô thức, nhưng luôn luôn chẩy ngầm trong
huyết quản mà chỉ những nghệ sĩ đích thực mới cả gan đào sâu, cắt
mạch cho nó tóe ra trong địa ngục con người. Họ là tự do. Họ là sự
thật…”.
Ngày 1-11-1956, 3000 xe tăng Liên Xô vượt biên giới tiến vào Hung
Gia Lợi cùng với 11 sư đoàn. Ngày 4-11, đại pháo Xô Viết khai hỏa và
xe tăng Liên Xô ào ạt xông vào thủ đô Budapest.
Nhân dân Hung Gia Lợi vô cùng dũng cảm chiến đấu chống lại cuộc xâm
lược của Hồng Quân Liên Xô. Nhưng lực lượng hai bên quá chênh lệch
nên chỉ sau ba ngày quyết tử cho tự do, dân chủ, độc lập dân tộc,
thủ đô Budapest bị d́m trong máu lửa và chết chóc.
Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền đă phẫn nộ, đau đớn, mong được khóc la, được
run giận... bằng chính thể xác của những cặp uyên ương trong thành
phố Budapest để thông cảm đến tận cùng những nỗi thống khổ vô biên
của họ:
“Hăy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc t́nh duyên Budapest
Anh một trái tim em một trái tim
Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác
… Hăy cho anh la bằng cổ em
Trời mai bay rực rỡ
Chúng nó say giết người như gạch ngói
Như ḷng chúng ta thèm khát tương lai
… Hăy cho anh chết bằng da em
Trong dây xích chiến xa tội nghiệp
Anh sẽ sống bằng hơi thở em
Hỡi những người kế tiếp”
(Hăy cho anh khóc bằng mắt em những cuộc t́nh duyên Budapest)
Bài thơ nầy ra đời tháng 12-1956, “Lời thơ giản dị nhưng cách diễn
tả mới lạ, vần điệu biến mất chỉ c̣n là h́nh ảnh, những câu thơ dài
ngắn khác nhau hầu như được sắp xếp theo những ảnh tượng và cảm xúc
trào dâng trong tâm hồn tác giả mà tác giả cho đó là loại nhịp điệu
của ư tưởng, của h́nh ảnh. Đây là bài thơ tự do thật hay, gây xúc
động mạnh và được nhiều người yêu thơ thời đó truyền tụng, đọc
thuộc”.
Inline image
Theo Nguyễn Xuân Hoàng viết trên báo Văn: “Riêng với Thanh Tâm
Tuyền, bài thơ Budapest mà tôi đọc được, đă trụ lại trong tôi suốt
từ bấy đến nay. Biến cố bi thảm ở Budapest năm 1956 mà truyền thông
khắp thế giới đă nói đến rất nhiều bằng những từ ngữ rất mạnh mẽ,
th́ nhà thơ của chúng ta đă chỉ dùng h́nh ảnh của đôi trẻ để mô tả
cuộc đàn áp dă man tàn nhẫn đó”.
Trong bài viết của Đặng Tiến về TTT: “Mười lăm năm sau, tháng
11-1973, khi sự nghiệp thơ văn Thanh Tâm Tuyền đă an vị, báo Văn đă
ra một số đặc biệt về đề tài này, ngày nay là tư liệu hiếm quư. Trên
báo này, Lê Huy Oanh, nhà biên khảo chuyên về thơ, đă có hai bài:
một bài kể lại quá tŕnh tiếp xúc thơ Thanh Tâm Tuyền, từ chỗ ghét
bỏ đến yêu thích; một bài giải thích “lối thơ Thanh Tâm Tuyền” qua
bài Phục Sinh nổi tiếng trong sự khen chê, với những câu: Tôi buồn
khóc như buồn nôn... Tôi buồn chết như buồn ngủ…
… Bếp Lửa là một truyện vừa, vừa một trăm trang. Thanh Tâm Tuyền
viết liền mạch, rất nhanh, trong vài tháng, xong tháng 10-1956, đưa
đi kiểm duyệt và xuất bản ngay. Không có độ lùi để sửa chữa. Sau
này, khi tái bản, ông muốn sửa chữa, nhưng không làm được và viện
dẫn Malraux: người ta không viết lại được một cuốn sách. Nhưng có
một truyện ngắn Đại Lộ, nội dung na ná, in lại trong tập truyện
Khuôn Mặt, 1964.
… Tuy nhiên Bếp Lửa không phải là tự truyện, đại khái như tác phẩm
Kẻ Dưng, L' Etranger,1942 của Albert Camus, bắt đầu bằng câu nổi
tiếng: hôm nay mẹ tôi mất, nhưng chính bà mẹ Camus lại sống lâu hơn
tác giả. Trong Bếp Lửa, Tâm mồ côi bố từ nhỏ, sau đó mồ côi mẹ,
trong khi bà cụ tên thật là Thạch Thị Kim, ngày nay c̣n sống, ở Long
Khánh. Tính cách mồ côi ở đây là một ẩn dụ, như ở Kẻ Dưng hay Cũng
Đành của Dương Nghiễm Mậu sau này.
Không phải là tự truyện, nhưng Bếp Lửa phản ánh tâm trạng tác giả,
và một số thanh niên đồng lứa vào thời điểm trước hiệp định Genève,
1954, tại Hà Nội, và vùng phụ cận dưới sự kiểm soát của Pháp. Chủ
yếu là những nét chấm phá nhẹ nhàng, nhưng rất sắc về tâm thức chính
trị của con người lúc đó qua những nhân vật: ông Chính, đảng viên
Quốc Dân Đảng, c̣n hoạt động; Bảo có tham dự phong trào Ngũ Xă nhưng
nay đă tuyệt vọng; Đại say đắm chủ nghĩa mác xít và chuẩn bị ra khu;
Ḥa nhân viên pḥng nh́; Ngọc hoàn toàn hư vô và chối từ tổ quốc...
Giữa họ là những nhân vật nữ, hiền lành, vô tội, như chị em Thanh và
Minh, em họ Tâm; Hạnh; Thịnh vào ra giữa hai vùng... C̣n Tâm? anh xê
dịch giữa đám người đó, không thân không sơ, và nói như Meursault,
nhân vật Kẻ Dưng: không biết rơ ḿnh muốn ǵ, nhưng biết rơ những
điều ḿnh không muốn. Khi Tâm bị ông hiệu trưởng cho thôi việc, ngạc
nhiên một chút rồi rửng rưng ngay. Tôi không hỏi v́ cớ ǵ ông muốn
tôi nghỉ việc cũng như ông đă quên không nói cho tôi biết... Tôi
cũng chẳng buồn quan tâm. Tôi nhẹ nhơm vô cùng và ngủ một giấc rất
say”
*
Thanh Tâm Tuyền – Người Tù
Ninh Hạ Nguyễn Đức Tâm ghi lại h́nh ành người bạn tù với TTT:
“Tôi gần anh, chơi thân với anh. Một con người b́nh dị, chí t́nh
trước hơn một thi sĩ, văn sĩ… Nhờ cơ duyên, gia đ́nh tôi được gần
gũi các anh chị giới cầm bút, ngoài và trong Sáng Tạo. Các anh chị
trưởng thượng như Doăn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Thái Tuấn... th́ coi
tôi như người em. Riêng Thanh Tâm Tuyền trẻ tuổi hơn quư vị kia, sau
này gần gũi trong lao tù và sau lao tù, cho đến những ngày trên đất
Mỹ, hiểu được nhau, tôi được anh xem như người bạn trẻ tuổi hơn, rất
thân thiết.
… Miền Nam sụp đổ. Tôi với Thanh Tâm Tuyền đi tù cùng ngày, cùng
chỗ. Nhà tôi, nhà anh gần nhau. Đi bộ năm mười phút. Tôi ở hàng Keo,
gần trường Mỹ Thuật. Anh ở xóm Gia, ở gần bệnh viện Ung Thư Gia
Định.
Năm đầu cùng chung trại Long Giao. Anh lán 9. Tôi lán 6. Lán là nhà
mái tôn dài, trại lính cũ. Gặp tôi, anh mừng rỡ. Năm đầu ở đây, chưa
phải lao động nhiều nên có th́ giờ nhàn rỗi. Tôi thường đến chơi với
anh và nói mọi thứ chuyện.
… Năm 1976, tù cải tạo chuyển ra vùng thâm sơn Việt Bắc. Anh bị đày
ải Yên Báy, Lào Cay. Tôi bị đẩy lên vùng Sơn La nước độc. Năm 1979,
Trung Quốc vượt biên giới đánh người anh em một thời môi hở, răng
lạnh. Các trại tù dọc biên giới Hoa-Việt chuyển về Vĩnh Phú. Trong
thung lũng hẹp, trại được phân phối thành năm phân trại.
Tôi ở K5 với Mai Trung Tĩnh. Một sáng mùa xuân nắng đẹp. Tôi theo xe
trâu lên K2 nhận đường mía. K2 là trại trồng nhiều mía. Trên đường
làng sỏi đá. Vượt qua suối cạn. Sau khoảng hai giờ th́ đến nơi. Một
toán anh em đói mệt ră rời, áo đẫm mồ hôi, trên đường về, sắp vào
trại. Trong đoàn người đó, tôi chợt nhận ra anh. Với dáng người và
dáng đi đó, không thể ai khác. Quá mừng không ḱm hăm. Nhảy vội
xuống xe trâu. Chạy nhanh về phía anh. Gọi lớn. Anh Thanh Tâm Tuyền.
Mọi người quay đầu nh́n tôi. Anh mừng nhận ngay ra. Chú Tâm. Anh
cười. Chú đang ở đâu? Em ở K5. Chỉ bấy nhiêu lời. Anh qua khỏi cổng
giam c̣n cười mừng ngoái nh́n trở lại.
Hai năm sau, Thanh Tâm Tuyền chuyển về K5 cùng trại với tôi. Có khi
lại được ở chung buồng giam. Khác đội. Ngày lao động đói lả. Tối
ngồi chầu kiểm điểm. Tố ḿnh và tố người. Cũng ít có khi rỗi rảnh
chuyện tṛ. Ăn cơm chung với nhau trưa chúa nhật. Sau này anh cười
nói. Tớ khai là Dzư Văn Tâm, đại úy bộ binh. Chú lại la toáng lên
Thanh Tâm Tuyền. Từ đó tớ bị lộ tẩy!
Một chiều mùa đông lạnh. Tôi đang ở đội nhà bếp. Anh nhắn ra gặp. Tớ
mới được quà, đem chú ít dầu bơ, bồi dưỡng lấy sức. Anh đưa tôi lon
gô đựng đầy. Cần cho anh hơn. Giúi vào tay tôi, anh nói. Tôi c̣n
nhiều. Chưa kịp cám ơn, anh quay đi. Ai đă qua tù đày của cộng sản,
đă qua cái đói dai dẳng hành hạ năm-năm-tháng-tháng-ngày-ngày, mới
cảm được cái to lớn của miếng ăn. Chờ cơm bụng lép đo giường. Cái
đói đă đưa con người trở về với bản năng sinh tồn của muông thú. V́
miếng ăn có người lừng lẫy, nhân cách một thời đă trở thành ti tiện.
Rất đáng thương và thông cảm. Đừng chê trách. Trong hoàn cảnh đó,
Thanh Tâm Tuyền, với một gô dầu bơ vàng sệt hấp dẫn, thơm rực, chia
cho tôi trong một chiều âm u lạnh đói. Nghẹn ngào. Nhớ măi.
Tết 1981. “... Nguyên đán bước ngây ngây vất vưởng. Ngoài tường,
ngọn ngô đồng trơ trọc. Lắng buốt tiếng gặm ṃn thịt xương. Lây xót
xa núi rừng điêu đứng ("Nhớ Xuân"). Hẹn với anh cùng ăn trưa đầu
năm. Bữa cơm ngày Tết hiếm có quanh năm, có thịt trâu và canh, xào
“... Nhồi như nhồi vịt, nước mắt rơi. Giao thừa tối câm gió ỉ ôi. Ta
vẳng nghe chú bỡn cợt. Tết ngày ăn, Xuân mùa vui chơi...”. Tôi quá
bận ở nhà bếp, xong việc th́ đă quá trưa. Xuống buồng giam của anh,
một số anh em đă trùm chăn ngủ cho quên ngày tháng hay khóc thầm nhớ
vợ con. Anh vừa ăn xong. Chúc anh sức khỏe. Anh thường nói. Vợ dại
con thơ. Bằng cách nào, cố sống mà về. Dù ngày về mù tịt. Tôi nh́n
trước sau, len lén đưa cho anh một chai nhỏ. Ǵ thế? Thuốc ho. Xuống
giọng rầm ŕ. Chú liều thế. Tết tù mà như thế này là nhất! Ở tù khó
nhất là đem rượu vào trại. Bị bắt th́ cùm ngay… Quí ông anh, biết
ông anh xưa vốn ṇi Lệnh Hồ Xung, ngày Tết lén cắp rượu đem vô. Tôi
chia cho TTT một nửa. Anh không uống được nhiều rượu. Một hai chung
như thế cũng đủ cho thi sĩ của chúng ta có hứng khởi làm những câu
thơ về xuân về Tết trong tù tuyệt vời. “... Trời có mấy độ xuân? Đất
bao nhiêu miền lạ? Chưa ngấy tiệc trần gian. Hồn run xanh búp lá.”
Tôi bị hớp hồn về ư và từ thơ xao xuyến “Hồn run xanh búp lá”. Một
câu thơ xuân khác kỳ lạ không kém. Đơn giản mà âm vang đến sững sờ.
“...
Vang vang trời vào xuân. Ta bật kêu mừng rỡ...” Ở tù khổ sai mà làm
thơ sảng khoái như thế, đúng là thứ thiệt.
Ghiền nặng thuốc lá. Vào trại anh là đệ tử của thần thuốc lào. “Bạn
tù ơi lửa châm rồi. Rít cho ṛng ră mê tơi cơi ḷng. Tựa lưng nhả
khói thong dong. Tít say lú lấp cả mong với chờ...”. Anh làm cỏ sắn
ở gần nhà bếp đội chăn nuôi. Giờ nghỉ mệt, theo bạn lén vào bếp hút
vố thuốc lào. Nhà bếp, nơi nấu cám heo là nơi cấm. Sợ tù đói kinh
niên vào đây ăn vụng cám lợn. Nghe kể lại, Thanh Tâm Tuyền đang phê
thuốc, không kịp đi ra đă bị tay đội trưởng HĐĐ bợp tai. Tin này
truyền nhanh vào trại. Tôi lấy cớ đi lấy củi đốt cho nhà bếp. Đánh
xe trâu ra tận nơi. Không gặp HĐĐ ở đó. May cho hắn mà cũng hên tôi.
Suốt những năm tháng tù đày, anh là một người tù b́nh thản đến lạ
lùng. Không chống đối, than trách. Không tham gia hợp tác văn nghệ,
văn gừng. Mùa xuân trước khi được tha, tay Bích tù h́nh sự làm trật
tự, uy quyền trấn áp, buộc anh đưa thơ đăng bích báo Tết. Chẳng thể
chối từ anh đưa bài “Ngày xuân trên cánh đồng mua”. Bài thơ có những
câu tuyệt. Bích không đăng, cho là anh chửi xéo. Với những câu:
“Trên cánh đồng nhàm mắt ngày tháng” hay “Ngày tẻ lạnh đ́u hiu nhớ
nắng”.
… Một ngày trước khi tha, tôi và Thanh Tâm Tuyền cùng một người bạn
trẻ rất khí khái, vốn là học tṛ, có bữa ăn đạm bạc chia tay. TTT
lại giao thêm cho tôi một trách vụ hiểm nghèo khác là đem ra những
bài thơ của anh sáng tác trong thời gian ở tù, viết trên những dung
giấy nhỏ (TTT trước ngày đọc lệnh tha hoàn toàn không biết có tên
ḿnh nên mới nhờ tôi lén mang những bài thơ về). Nhiều bài thơ này
đến với những người hâm mộ trong thi tập Thơ ở Đâu Xa đă được cơ sở
Văn xuất bản tại Mỹ năm 1999. Đem lén cả hàng chục lá thư gửi về gia
đ́nh lại thêm thơ lậu của TTT, qua mặt cán bộ ra khỏi trại là một
“điệp vụ” căng thẳng. Có kẻ lén báo, cán bộ nhân lực, tức là an ninh
trại, chặn xét tại cổng nhưng tôi đă chuyển giao cho anh bạn trẻ
Phan Cảnh Phùng trước đó không lâu. Thoát hiểm trong đường tơ kẽ
tóc.
Lúc ngồi với nhau, Thanh Tâm Tuyền cười nói. “Biết đâu ngày mai
không phải là chú mà là tôi”. Không phải Nguyễn Đức Tâm mà là Dzư
Văn Tâm. Lời nói ỡm ờ này không ngờ lại đúng một phần. Nếu đúng thật
th́ quá tội cho tôi. Lúc đọc lệnh tha, cả hai Tâm đều trúng số và
thêm Nguyễn Thiệu Hùng, Mai Trung Tĩnh.
Một buổi sáng cuối năm lạnh nhẹ và sương mù, bên bờ nhánh sông
Thương hiền ḥa, chúng tôi, có cả Mai Trung Tĩnh và Thanh Tâm Tuyền,
ngồi tụm hút thuốc. Uống chia nhau gô trà mộc nóng đậm. Ôi tuyệt vời
những giây phút đầu tiên, tạm gọi là tự do, sau bao nhiêu năm tù
đày. Chúng tôi ngồi chờ ca nô xuôi sông Thương, vượt sông Hồng chở
về trại chuyển tiếp Ấm Thượng, xóm nhỏ bên bờ sông Hồng. Để sáng hôm
sau đáp tàu hỏa xuôi về Hà Nội. Ngày mai ra sao? Dẹp qua một bên.
“Sung sướng quá giờ cuối cùng đă hết” ("Xuân Tâm").
Mấy toa tàu cũ kỹ lắc lư chở hơn bốn mươi người được tha từ ga Ấm
Thượng về đến ga Hàng Cỏ, Hà Nội. Tất cả được lùa nhốt trong nhà
đợi. Đi tiêu tiểu phải xin phép. Chuyến tàu thống nhất tám giờ tối
nay sẽ trả chúng tôi về miền Nam yêu dấu nay đă đổi chủ thay ngôi.
“Hương âm vô cải mấn mao thôi”. Ngày về tóc đă bạc phai mái đầu. Tôi
được giao nhiệm vụ sắp hàng anh em, điểm số.
… Thanh Tâm Tuyền hóa xác. Thường ngày thong thả chậm chạp, giờ đi
như chạy. Đường phố dường như quá quen thân cho dẫu bao tang thương
biến đổi. Ông bươn bả đi trước, tôi chạy theo. Không nói với nhau
nhưng tôi biết ông đang xúc động khi trở về nơi chốn cũ. Tấp vào một
quán phở bên kia đường để thưởng thức tô phở Bắc chính hiệu. Gọi mỗi
đứa một cốc cà phê. Thế là nhất. Mấy năm đói khát thèm ăn, tô phở
làm chúng tôi thất vọng đă đành mà ông chủ quán, thuộc loại bộ đội
giải ngũ, trong bộ đồ lính cũ, lại càng làm cho tôi phát ngấy. “Phở
ở đây mới là phở. Trong Nam các anh nàm sao sánh được”. Tô phở phất
phơ hai lát thịt nhỏ, mỏng dính. Nước dùng bột ngọt đậm chát. “Phét.
Chúng mày lấy đâu ra thịt. Bố khỉ!” Tôi chửi thầm. “Ông đói dài mấy
năm c̣n chả thấy ngon huống hồ...!”. “Các bác được Đảng khoan hồng
nhớ về lao động...” Tôi nói đểu: “Thôi nhờ ông anh tốp lại! Mấy năm
nghe chán rồi. Biết rồi khổ lắm nói măi! Vào đây đớp phở ḿ chính
(bột ngọt) chứ không phải nghe ông lên lớp. Tính tiền!”. Ông Thanh
Tâm Tuyên thấy tôi sửng cồ vội vàng đứng dậy ra khỏi quán. Bác
Nguyễn Tuân ơi! Chúng bán phở Bắc như thế này là chúng nó làm nhục
bác rồi!
Chúng tôi, những thằng tù khổ sai biệt xứ mới được thả, đi giữa
đường phố Hà Nội trong túi cũng xu hào rủng rỉnh. Đă gần mười năm
toàn thắng, thế mà những bộ đồ lính, tấm vải dù làm vơng của chúng
tôi đem theo từ ngày Sài G̣n thất thủ vẫn c̣n là món đồ đắt giá hợp
thời trang. Dân Hà Nội chen lấn qua song cửa nhà ga tranh nhau mua.
So với tô phở giá năm đồng, chiếc áo lạnh áo jacket nhà binh tôi bán
bảy trăm. Miếng vải dù tưởng vất đi cũng có người mua đến chín chục.
Ông TTT dẫn tôi đi như chạy trên Phố Thuốc Bắc rực mùi cao đơn hoàn
tán, lần đến ngôi nhà cũ nát tường vôi loang lổ. Căn phố hẹp tối
tăm, nhiều gia đ́nh cùng ở, ngăn chia nhau bởi những tấm màng vải
nhàu bẩn. Người cô già mù ḷa vẫn nhận ra tiếng nói của đứa cháu sau
bao năm trời chia cách. Ôm chầm. Cô khóc, cháu sụt sùi. Và tôi,
người chứng kiến những giây phút cảm động nhất của một cuộc kỳ ngộ,
bước ra hàng hiên lau vội nước mắt…”.
Cùng bạn văn, bạn tù với nhau, Thảo Trường nhắc đến h́nh ảnh TTT:
“Mấy năm sau ở Vĩnh Phú, nhưng mỗi người mỗi trại giam khác nhau,
chỉ thỉnh thoảng có tin tức nhau qua những bạn tù. Tôi nhận được mấy
câu thơ của Thanh Tâm Tuyền vịnh củ sắn sống. Thời gian này tù binh
bị bỏ đói sức tàn lực kiệt, nhiều anh em đă bị chết, chôn kín cả
sườn đồi gần trại, cho nên có khi kiếm được củ sắn sống tù binh cũng
dấu đi ăn cho dạ dày bớt thèm thuồng.
Lạ lắm, củ sắn bóc vỏ ngoài để lộ ra một thân h́nh tṛn lẳn, trắng
tinh, trắng nuốt, trắng như không có ǵ trắng thế, mịn như không có
ǵ mịn thế, xinh đẹp như không có ǵ xinh đẹp thế, gợi cảm như không
có ǵ gợi cảm thế, hấp dẫn như không có ǵ hấp dẫn thế… Nhưng sắn
sống có nhiều độc tố, bập vào là say. Trắng trẻo, xinh đẹp, nơn nà…
dễ làm cho anh hùng gục ngă! Loại sắn vỏ màu hồng nhạt (gọi là sắn
tầu) th́ c̣n có thể nhưng phải ngâm nước rồi luộc kỹ thải chất độc
ra mới có thể ăn được, nhưng loại sắn kỹ nghệ vỏ trắng (chắc là sắn…
Mỹ) th́ tuyệt đối không ăn được.
Say sắn cũng lắm chuyện kinh hoàng. Ăn vào chỉ một phút sau là ói
mửa ra “mật xanh mật vàng”, tiêu chảy, người sẽ gầy ruộc đi, mắt sâu
hoắm. Cũng không đến nỗi chết ngay, nhưng từ đó mất sức dễ bị những
chứng bệnh hiểm nghèo. Tôi đă thấy một ông trung tá liên đoàn trưởng
biệt động quân, cùng khoá 6 sĩ quan trừ bị với tôi đă bỏ ḿnh v́ say
sắn ở K1 Vĩnh Phú.
Núi rừng Việt Bắc c̣n có nấm độc, trái vải guốc, cũng gây ngộ độc
chết người. Ăn nhầm mấy thứ này người ta thường vặt một nắm lá nhớt
như lá khoai lang bỏ miệng nhai nuốt tí nước cho buồn nôn tống ra
hết những thứ trong dạ dày để giảm thiểu chất độc trong người.
Củ sắn ghê gớm. Nó bao vây trùng trùng điệp điệp các trại tù. Nó
chất chứa trong các kho nhà bếp dưới dạng sắn sống, sắn khô (c̣n gọi
là sắn nút chai, sắn “dui” (không rơ ư nghĩa tên này). Nó bám trụ
trong bao tử, trong cơ thể tù binh. Không ăn th́ nó đói, nuốt nó vào
thực quản nóng ran và dưới hai màng tang mỗi tù binh nổi lên hai cục
trông như hai cái bứu nhỏ, hai cái bứu này chỉ mất đi khi cả tháng
không ăn sắn nữa. Hàng triệu tù binh miền nam, kẻ nào lỡ sống sót
sau tù đày, ít ra cũng phải hội nhập chung vào với cả một thế hệ c̣i
cọc miền bắc, để công cuộc thống nhất đất nước mang trọn vẹn ư nghĩa
của nó! Trước cái đói ngơ ngác chết người đang đe doạ và h́nh tượng
củ sắn chiến lược xă hội chủ nghĩa “vĩ mô” như thế, nhưng thi sĩ của
chúng ta vẫn b́nh thản mô tả nó một cách lạnh lùng, có pha chút lăng
mạng bỡn cợt:
“Thoát xiêm y, trắng nơn nà,
Lửa ḷng bốc cháy ai mà chẳng say”…
… Tôi nghĩ chế độ cộng sản chỉ giam giữ và bỏ đói đươc ông đại úy
Dzư Văn Tâm, họ không, và không bao giờ, bỏ tù được thi sĩ Thanh Tâm
Tuyền. Thi sĩ đă nh́n củ sắn độc trồng lền khên khắp núi đồi xung
quanh trại giam bằng cái nh́n của ca dao, bằng cái nh́n của thi ca,
bằng cái nh́n riêng của thi sĩ, mà không anh cai tù cộng sản nào
nh́n thấy được. Cộng sản ở Liên Xô, cộng sản ở Budapest, cộng sản ở
Âu Lâu - Vĩnh Phú, hay cộng sản ở bộ chính trị… chẳng thể làm ǵ
được thi sĩ. Họ cũng không được phép xách dép cho nhà thơ tự do”.
Họa sĩ Nguyễn Thuyên - người bạn thân cùng khóa với tôi - vẽ phác
họa trong trại tù về Thảo Trường, khi gặp tôi ở Cali TT cho biết rất
thích bức vẽ nầy để in vào sách và trong tang lễ của ông cũng chân
dung nầy. NT viết về TTT kèm theo chân dung của TTT:
“Anh không phải là người đàn ông đẹp trai, nhưng đầy nam tính, dù
mảnh khảnh yếu ớt, và đôi mắt anh, không thể quên được. Hàng mi rợp
bóng và cái nh́n, lúc nào cũng xa xăm, đầy hoài cảm, tôi cho rằng đó
là đôi mắt thi sĩ nhất trong các người làm thơ. Nhưng điều tốt đẹp
nhất ở anh là phẩm cách, anh thẳng thắn, không thể bị khuất phục bởi
cái ác, và anh không thỏa hiệp. Có lần khoảng năm 1983, anh đạp xe
đi chơi cùng mấy người bạn trên đường Duy Tân ("cây dài bóng mát"
như lời bài Trả Lại Em Yêu, tôi không thích dùng tên mới của con
đường này) họ rẽ vào con hẻm của một nhạc sĩ nổi tiếng mà anh không
biết là nhà ai, nhưng khi thấy người này mừng rỡ ra đón, anh quày xe
bỏ đi. Người này la lên:" Anh Tâm! Tôi có làm ǵ anh đâu mà anh làm
vậy?" Anh vẫn lặng lẽ bỏ đi.
Bên nhau, tôi đă vẽ anh khoảng bốn chục bức, đa số bằng ch́ trên tập
vở, v́ hồi đó chỉ có vậy. Sau này được ba bức bằng sơn dầu và
acrylic là có màu th́: một bức hiện treo ở nhà anh, chị và cháu
Trinh Thảo giữ, một bức treo ở nhà thầy Nguyễn Ngọc Diễm (thầy Pháp
văn của tôi) bạn thân của anh, là một trong vài người khiêng quan
tài anh, và bức cuối cùng (đăng trong bài viết nầy), tôi giữ. Nhưng
tôi vẫn tiếc nuối những bức vẽ ở Yên Báy và Lào Kay v́ chúng nắm bắt
được anh qua nhiều tâm trạng. Lần cuối gặp lại năm 2005 ở Hoa Kỳ khi
được hỏi những tranh ấy hiện ở đâu, anh bảo: “Do một người thân giữ,
tôi đă dặn chỉ công bố sau khi tôi chết”. Cho đến bây giờ vẫn không
biết ai giữ.
Sau bao nước chảy qua cầu, tôi hiểu rằng muốn giữ tâm được trong
sáng, phải gột bỏ quá khứ đi, nhưng đến ngày giỗ anh, cũng không thể
không nao ḷng”
(NT, 22-03-2018).
Ngô Thế Vinh phác họa h́nh ảnh TTT sau khi ra tù: “Năm 1982, khi mới
ra tù, không sao quên được h́nh ảnh một TTT tiều tuỵ, trông anh già
đi, da sậm đen sắc diện của một người bị bệnh sốt rét kinh niên. Khó
có thể tưởng tượng với vóc dáng mảnh mai ấy anh sống sót qua suốt
bảy năm tù đầy ngày nào cũng đói lạnh nơi những vùng sơn lam chướng
khí ấy ở các trại giam Miền Bắc. Bảy năm đốn tre trảy gỗ trên ngàn,
bị tre nứa đâm xuyên đùi không giải phẫu thuốc men nhưng anh vẫn
sống sót, trong tù chống rét anh tập hút thuốc lào, không giấy bút
anh vẫn làm thơ qua trí nhớ…”.
Qua những ḍng trích dẫn ở trên thể hiện nhân cách, ngoài tài hoa…
Thanh Tâm Tuyền.
*
Kinh Nghiệm Sáng Tác Trong Tù
Thanh Tâm Tuyền
Ở lại, tôi chấp nhận số phận dành cho kẻ bại. Không chút tiếc rẻ
quăng đời cũ, cũng không ảo tưởng về những ngày sắp tới với ḿnh.
Năm 74, trả lời một người bạn đă ra khỏi nước viết thư về hỏi thăm
“cớ sao hạ sơn?”, tôi viết cho anh:
… Ta nhớ rằng ta không nhớ nữa
Như cây trút lá mùa hưu miên.
… Như thân gỗ nặng thả theo nước
Bập bềnh trôi nổi ta về xuôi.
Như lau lách mọc bên bờ băi,
Phất phơ tóc trắng lả theo trời.
Trước cái hỗn độn mờ mịt mở ra sau 73, tôi kể như ḿnh đă sống hết
đời ḿnh, những ngày c̣n lại thừa dư không đáng bận tâm. Tôi vô vọng
hoàn toàn. Bởi thế sau 75, đi cải tạo, tôi lại cùng những kẻ “đồng
hội đồng thuyền” từ miền xuôi lên mạn ngược, phần nào thản nhiên
rửng rưng – không tuyệt vọng cũng không hy vọng.
Tôi nghĩ trong chuyến đi này tôi sẽ “mất hút” không trở lại như từng
ao ước, không như lần “tiền cải tạo” đi rồi về v́ thấy “đâu ngọn núi
nào của riêng ta?” Lần này đi “tự nhiên” hơn, không kênh kiệu lớn
lối, chỉ như “rác rưởi bị cuốn trong gịng lũ của lịch sử”.
Nhưng đă không như tôi tưởng.
Khi ra Bắc, đến những vùng rừng núi hẻo lánh cách biệt thế giới bên
ngoài, và trong khi c̣n được thả lang thang “chém tre đẵn gỗ trên
ngàn” miễn đạt chỉ tiêu trong ngày, tôi đă “leo núi” rồi “tuột núi”
không biết bao lần, và vẫn t́m đường về trại giam.
Cái ǵ gọi tôi về?
Có phải “L’espoir pour rien” như lời của René Char, “Nous touchons
au temps du suprême désespoir et de l’espoir pour rien, au temps
indescriptible”. Có phải đến lúc ấy tôi mới quả thật là “vô vọng”
như lời Héraclite, “L’homme qui ne s’abandonne pas à l’espoir
n’atteindra jamais l’inespéré, qui est impénétrable et
inaccessible.” Có đúng là tôi đă tuyệt vọng đến cực điểm, đă đánh
đắm ḿnh trong “hy vọng như không” và tới được chốn “bất khả xâm
nhập”, “bất khả giao tiếp”?
Thú thật, tôi không rơ.
Chỉ biết tôi thấy ḿnh “phục sinh”, nghĩa là tôi thấy ḿnh làm thơ
và “sung sướng” cùng “mắc cở” khi làm xong một bài, giống hệt lúc
trẻ – khi làm được những bài thơ đầu tiên, giấu giếm không dám khoe,
kể cả với bạn.
Khi anh sống buông trôi qua ngày, không màng tưởng tương lai, không
đoái hoài quá khứ, không đếm xỉa hiện tại, th́ anh c̣n ǵ? C̣n. Anh
c̣n những cái anh có, ở trong anh, và cái “ở đấy”, ở ngoài anh.
Để đi qua những ngày đêm, nắng mưa, nóng lạnh, gió băo, xuân hạ thu
đông… tôi t́m “sinh thú” ở những “cái ở đấy” và ở những ǵ mang theo
trong ḿnh.
Trong tôi bấy giờ có ǵ? Gia đ́nh, bè bạn, thơ đă đọc và nhập tâm.
Lúc cần bắt tâm trí bận rộn, tôi lục kư ức ôn lại những ǵ nằm ḷng,
đọc cho riêng ḿnh lắng nghe. Ôn nhớ thơ yêu thích là một kinh
nghiệm mà người làm thơ nên từng trải – nếu chưa. Anh có thể bắt gặp
thứ ánh sáng lạ lùng của thời gian tích đọng trong thơ, đúng như ư
kiến của Borges: Thời gian hủy hoại cung điện đền đài nhưng lại bồi
đắp cho những câu thơ.
Đầm ḿnh trong cái thời gian “không lịch sử” – “sử ngoại” đúng hơn –
ngày tháng tự nhiên theo cuộc xoay vần không đi đâu chẳng về đâu,
trong một đời sống trần trụi đến độ kỳ cùng với một số nhu cầu sơ
đẳng của sự sống, tôi nghĩ tôi hiểu được cái nền minh triết (la
sagesse) của cổ nhân – với “vô vi” và những cái “vô” khác. Điều mà
phương Tây gọi là “vô vọng”, Trung Hoa và Việt Nam coi là “tự tại” –
“Thực tại”, không phải “hiện tại”, là cái tự nhiên có, không cần chỗ
bấu víu, hay nơi nương tựa, để tồn tại. “Thực tại” đời sống là “tự
tại”, đến và đi theo lẽ tự nhiên ngoài “vọng tưởng” của người ta –
“hy” hay “tuyệt” cũng thế thôi.
Và tôi bỗng thấm thía cái khí vị đặc biệt của những bài Đường Thi
sực nhớ. Bằng một ngôn ngữ đơn giản, từ vựng giới hạn (người ta có
thể học chữ Hán qua Đường Thi và chỉ để đọc Đường Thi), mỗi bài thơ
là sự hiển hiện của một thời gian khép kín, tách ĺa “ḍng” thời
gian. Phải chăng đó là một vài biểu hiện của thứ “méta-langage” mà
thơ Đường đạt được? Buổi sáng mưa bụi, quán rượu bên đường và cuộc
chia tay của hai người bạn. Đêm mưa núi trút như thác, chong đèn
ngồi bên cửa sổ nghe mưa, nhớ bạn. Thời gian trong bàng hoàng lặng
lẽ ngưng tụ từ bao giờ chẳng cần tiếng kêu gọi của người: Oh Temps,
suspends ton vol!
(Trong thơ Pháp thời hậu chiến, thỉnh thoảng anh cũng gặp được cái
khí vị “lạ lùng như không” ấy, tỷ như hai câu của Yves Bonnefoy:
Elle a pris la lampe et ouvre la porte.
Que faire d’ une lampe. Le jour se lève. Il pleut
Làm thơ ở trại cải tạo là sự trở về
với truyền thống thơ dân gian.
Sống dưới chế độ lao động ngày tám tiếng, kể cả Thứ Bảy (thường khi
luôn sáng Chủ Nhật, lao động XHCN) giang sơn của mỗi người là một
khoảnh chiếu rộng 50 – 60 cm trên một mặt sạp (hai tầng) trong một
gian lán lúc nhúc hằng trăm nhân mạng, anh không thể viết văn, giả
như anh có muốn. Việc viết lách đ̣i hỏi anh một số điều kiện tối
thiểu: một chỗ để ngồi, th́ giờ để viết.
Đầu tắt mặt tối ngày này sang ngày khác, có khi “làm ngày không đủ,
tranh thủ làm đêm”, được lúc nghỉ ngơi th́ bị cái đói ám ảnh hành
hạ, thử hỏi anh “bụng dạ” nào tưởng nghĩ đến chuyện “sáng tác”. Ấy
là chưa kể những khó khăn trở ngại khác, ở anh và nhất là ở ngoài,
dù tài thánh cũng không “khắc phục” nổi.
Làm thơ không đ̣i hỏi anh th́ giờ viết lách (trong tiếng Việt, người
ta nói “làm thơ”, không ai nói “viết” thơ). Anh có thể làm thơ bất
cứ chỗ nào, lúc nào, bất kỳ trong tư thế nào của cơ thể: đi đứng,
nằm, ngồi, thức, ngủ… Thơ đến với anh không hẹn chỗ, không hẹn ngày,
không hẹn giờ. Anh không thể t́m nó bởi cũng chẳng biết đâu mà t́m.
Công việc của anh giản dị chỉ là chuẩn bị đón tiếp nó, tṛ chuyện
với nó, nó chỉ cần anh là người c̣n giữ được thuần khiết tiếng nói
sinh thành ra anh và là sinh mệnh của nó. Nó đến lặng lẽ, lúc từ cửa
trước vào lúc từ lối sau đột nhập, nên anh cần có lỗ tai thật thính.
Nó lại thường thích cải trang, giả dạng, nên nếu kư ức của anh “tồi”
anh có thể không nh́n ra nó.
Thơ đến bất chợt, ngoài đồng, trên rừng, đang lúc “lao động” khiến
anh ngừng tay, mặt trông trời và làm thơ. Thơ gọi anh ra khỏi cái
thời gian máy móc điều động anh mỗi ngày, nhấc bổng anh tới chốn “tự
tại”, nơi công việc c̣n là một sinh thú bởi người ta không thể “ở
không”. Và khi anh quay về với cái thời gian anh vừa đào thoát, anh
thấy nó đă bị hoán cải theo nhịp tiết của những câu thơ anh làm. Có
khi tay anh vẫn làm việc hằng ngày và tai anh vẫn theo đuổi lời thơ,
nhịp tiết và vần điệu của câu thơ trở thành sự điều ḥa cần thiết
cho công việc đang làm cũng như cho kư ức lưu trữ.
Sự khiếm khuyết lớn nhất của việc làm thơ trong cải tạo là không thể
thực hiện giai đoạn chót trong quá tŕnh h́nh thành thơ không văn
tự: cất lên thành tiếng, chia xẻ với người xung quanh cái lạc thú
“thốt được thành lời” của anh. Thơ, nhất là thơ không ghi chép, cần
được đọc (đọc thành tiếng) và cần được nghe để hoàn tất sinh mệnh
của nó cũng là sinh mệnh của một tiếng nói. Trong kư ức của nhiều
người.
Khi được thả, trở về nhà, việc làm đầu tiên của tôi là ngồi ghi chép
những bài thơ làm trong trại. Tôi là một kẻ may mắn sống sót nhưng
đă không c̣n muốn làm nhà văn nữa như từng tự nhủ trước kia.
Trong quyển sổ tay mang thoát từ trại cải tạo về, có một câu tự nhủ
khác: Viết như thể không có ǵ xảy ra. Không có ǵ đáng kể.
Nay th́ tôi hỏi ḿnh: Chừng nào tôi đạt nổi điều ấy? Để viết”.
St. Paul 21-2-93 - TTT
Bài thơ Ngă Trên Núi Việt Hồng Yên Báy Khi Đi Lấy Nứa của TTT là một
trong những bài thơ được phổ biến nhiều nhất.
“Tuột dốc té nhào trên hẻm núi
Chết điếng toàn thân trong giây lâu
Mưa rơi đều hạt mưa phơi phới
Ngày đang tàn hiu quạnh rừng sâu
Duỗi soải chân tay gối trên nứa
Ngó trời nhá nhem nghe mưa mau
Tưởng chừng thi thể ai thối rữa
Hồn viển vông chẳng chút oán sầu
Mưa giăng tấm lưới trắng dầy khít
Làng xóm dưới núi ở phương nào?
Gió lạnh tái tê bó liệm chặt
Lả thiếp người quên bẵng sướt đau
Đầm ḿnh trong hạnh ngộ ẩn mật
Mắt hoen nḥa hứng giọt thiên thâu
Ḍ dẫm lối về đêm tối mịt
Sông xa núi thẳm quê nhà đâu?”
(TTT - Yên Báy, 9-1979)
Mười hai năm trôi qua, vào facebook của Thuyen Nguyen (người bạn
cùng khóa) với chân dung Thanh Tâm Tuyền cùng với những ḍng ghi
nhận, tôi sực nhớ đến ngày giỗ của Thanh Tâm Tuyền. Viết những ḍng
nầy như nén hương ḷng tưởng nhớ đến người thiên cổ. Trong cơi trần
đầy oan nghiệt, khi về cơi vĩnh hằng, cầu mong “Thanh Tâm Tuyền… an
lạc”.
Vương Trùng Dương
*
Ghi chú:
Ghi chú: Bài viết nầy gởi đến cháu Trinh Thảo (ái nữ TTT) đúng vào
ngày giỗ và được cháu email cho biết: “Mười hai năm nhanh quá cứ
tưởng là hôm qua. Năm nào các bác và các chú c̣n sống cũng gọi điện
thoại hỏi thăm mẹ cháu ngày giỗ bố… Nỗi đau nào cũng nguôi ngoai,
nhưng với mẹ cháu dường như khó quên. Thời gian chỉ làm cho nỗi nhớ
lắng đọng và đậm đà hơn nhưng c̣n da diết hơn trong những ngày tưởng
niệm… Trong 3 năm đầu sau ngày bố mất, mẹ cháu ra mộ bố mỗi ngày,
không thiếu một ngày…”. Dù sống nơi xứ người nhưng chị TTT là một
trong những h́nh ảnh đáng quư, giữ được truyền thông của ông bà, giữ
đúng đại tang 3 năm.
BS Bích Liên, Hội Ung Thư Việt-Mỹ và cũng là ca sĩ, có nhă ư gởi
tặng những bài thơ TTT viết trong lao tù được nhạc sĩ Cung Tiến phổ
nhạc.
Trước năm 1975, tuyển tập Ca Khúc Cung Tiến gồm 9 t́nh khúc như Thu
Vàng, Hoài Cảm, Nguyêt Cầm, Lệ Đá Xanh, Mắt Biếc, Đêm, Đôi Bờ, Thuở
Làm Thơ Yêu Em và Hương Xưa với các danh ca đang nổi tiếng.
Năm 2010, hai tuyển tập Hoàng Hạc Lâu và Vang Vang Trời Vào Xuân của
nhạc sĩ Cung Tiến, do nhà Kim Lũ xuất bản, được ra mắt tại Little
Saigon.
Tuyển tập Vang Vang Trời Vào Xuân dày 88 trang, gồm 10 ca khúc ngắn
trong liên ca khúc Vang Vang Trời Vào Xuân. Trong tuyển tập nầy c̣n
có các nhạc phẩm soạn cho hợp ca như Mùa Hoa Nở, Đêm Hoa Đăng và
Đường Hoa.
TTT chỉ làm thơ ngay trên mảnh đất quê hương nên khi ra hải ngoại
không c̣n sáng tác.
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Nụ cười đầu
năm
Luận về nghệ
thuật lănh đạo
Lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Nhìn lại cuộc chiến Triều Tiên 1950 – 1953
T́nh h́nh Việt Nam sau Hiệp Định Geneve
Những trang sử hào hùng của HQ/QLVNCH
CSVN hứa hẹn nhân quyền...
Âm mưu cưỡng chiếm Hoàng Sa của TC
Bài viết
hay về nước Mỹ
Đại
Tá Võ Văn Xét - Thân phụ BK Vơ Khắc Hiệp
33
Chuyện
"THẦN B̉BOUL"
Ông già Noël mắt
một mí
Christmas in the communist re-education camp
Không món quà nào
hơn
Kẻ đào ngủ
Quốc Học
Tưởng nhớ Việt Dũng
Bài
thánh ca buồn
Những mảnh đời trên một chuyến "Xe Đ̣"
Mùi áo lính
Ngàn đời
nhớ anh
Kư ức
vùng Hỏa Tuyến
Ba vị đại tá VNCH là những nhạc sĩ tên tuổi
Mầy c̣n
nhớ không?
Tiếng
Việt ḿnh ngộ quá!
Về thăm cố hương
SEAL của Mỹ bắt giữ thủ lĩnh hàng đầu của
Hamas
Một thoáng mùa thu về trên xứ Huế
Con
người thực Anthony Fauci
Một giọt dầu loang
Sau khi chết, chúng ta về đâu?
Giỗ cho 300000 quân sĩ đă chết trong chiến
cuộc VN
Phút cuối
Tân Lâm
Lễ viếng mộ 81 tử sĩ Nhảy Dù
Người Nhật/Người Lào & Người Việt
Chuyện chú A Tỷ và Tiểu Thanh
Sự thật về lực lượng Hamas
Người việt nam hèn hạ
Giết cho
đủ chỉ tiêu!
Một
nét chữ, một đời người
Chàng lính binh nh́ bị khiển trách v́ giày
bẩn
Lần đầu
nhập trận
Nói tiếng Anh kiểu này...
Những món nợ phải trả
Cờ Vàng 3
sọc đỏ - Ngọn cờ đại nghĩa của dân tộc Việt
Hồng nhan
Cô Lành về Quảng Nam
Những
người 50-80 tuổi nên đọc
Những mùa Trung Thu
Đường vào Học Viện Không Quân Hoa Kỳ
Mỹ
vào VN ‘lần hai’ và
các bài học cho hôm nay
Việt kiều mới ở xứ người
Trả lời câu hỏi về cuộc bại trận của QLVNCH
QLVNCH 1968 - 1975
Hỏng rồi tiếng nước tôi!
Dốt hay nói
chữ
Tiến tŕnh bầu cử
tại Hoa Kỳ
Những ngày tháng cũ
Người hùng chỉ huy trận chiến Long Tân vừa
qua đời
Thảo tím
Lại nước mắm
Ngu như lợn
Long Tân Day
Kỷ niệm 50 năm chiến tranh Việt Nam
Tưởng nhớ Anh Vân - Quách Tố Vương
Gửi trứng
cho ác
Hoàng Ngọ
Số phận nào cho kẻ thua trận?
Nghệ thuật chôn sống
Lữ Đoàn III Nhảy Dù Quảng Trị năm 1972
Để thấy vợ ḿnh dễ thương hơn nhiều..
Trường xưa
Đường chiến binh
Nhà khoa học gốc Việt được vinh danh...
Giấc mộnh kinh hoàng
Nhạc sĩ Từ Cộng Phụng
Thư số 141a gửi ngư2i ơlính QĐNDVN
Đêm truy điệu
Bà già Ba Tri
Một đời Kỵ Binh, hiên ngang, lẫm liệt
Sự ra đời của ngày lễ Độc Lập Hoa Kỳ
Thương tiếc một bác sĩ quân y
Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh ở Melbourne,
Úc,,,
Câu Chuyện Về Jacky Ly
Nhớ lại một ngày vui
Người ta
đi
lính mang
lon
Đắng
cay
của
một
người
tù
Để
thấy thương vợ nhà hơn
Cuối
cuộc hành tŕnh
Áo
học tṛ và áo trận
Câu
chuyện ngày xưa
Đừng bao giờ...
Những
âm thanh tuổi thơ
Vài nét về QLVNCH và ngày Quân Lực 19/6
Tháng sáu trời mưa
Thanh Tâm Tuyền,
giữa ḷng cuộc đời
Người lính Mỹ nay ở đâu?
Giọt hạnh phúc trong đáy ly!
Đói !
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong ở thủ đô Mỹ
Nhân lễ Chiến Sĩ
Trận Vong Mỹ, nhớ....
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong,’ tưởng nhớ chiến sĩ VNCH
Nói phét!
Thuyền đắm giữa khơi
Khi sa cơ mới
biết ai là bạn...!
Quốc hội TB Florida ban hành Nghị Quyết Vinh
Danh..
Nhật Bản
trong tôi
Tôi viết
cho anh - Người "Chiến sĩ áo đen VNCH"
50th Anniversary of the Vietnam War
Quân Đội Úc trong chiến tranh VN
Bản án tử
h́nh
Ḍng sông, ḍng đời
Một
thành phố mất tên
30 Tháng Tư, lời xin lỗi muộn màng
Tuẫn tiết
Những kẻ xa
quê
Hồi đó tụi mày ở
đâu?
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Giờ phút cuối cùng của đồi Tăng Nhơn Phú
Ca hát với ma
Gă bất cần
Những
thống khổ bi hùng
Những h́nh ảnh không in ra được
Thầy đồ
Truyện về lính - Tự truyện của một phi công
40 năm t́m
bạn
Một mối đau chung, nhiều lối nh́n khác biệt!
Trường Sa tháng 4 năm 1975
Ngày Quân Đoàn I “tan hàng”
Thảm họa di tản từ Miền Trung Tháng Ba 1975
Người
lính năm xưa
Tướng VNCH tù trên 17 năm
Hai lá thư
Tiểu sử Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù
Huynh đệ
chi binh
An Dương
H́nh ảnh một buổi chiều
Mẹ! Hiền phụ của ông Bảo!
Nhà
già... chào mi!
Tôi
là người nước nào?
Giờ phút …hấp hối cuả 1 thành phố
Chuyện xưa đến nay vẫn đúng
Cuộc đời và sự nghiệp ca sĩ Quỳnh Giao
Trên đồi gió
Con nhà nghèo trở thành hàn lâm kỹ thuật Mỹ
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Đồi xưa, núi
cũ
Đoạn đường kỷ niệm thời thơ ấu
Người điệp viên giỏi nhất của VNCH & CIA
Cái nh́n mới về VNCH
Cơn ác mộng
Chặng
đường quê hương
Máu đào nước
lă
Những
quả ổi cuối mùa
Đời đi dạy tại Canada
Tiếng
Việt Sài G̣n cũ
Tác giả
'Dư âm' qua đời ở tuổi 95
Giận cá chém thớt hay
giận thớt chém cá ?
Chế Lan Viên
Gato!
Thắp nhang sao mà vẫn căm thù người chết
Để tang cho
sách
Đồi Charlie: Người đi, linh hồn ở lại
Mẹ Việt Nam
Trước thềm xuân hoà b́nh
Cái áo của thầy tôi
Hiệp định Paris 1973 - 2023 - 50 Năm nỗi đau...
Trầm Tử Thiện -
Người chép sử lư vong...
Mâu thuẫn quân
sự và chính trị Mỹ về cuộc chiến VN
Tử sĩ Hoàng Sa
Hương vị
ngày xuân
Nhớ lại cái tết năm xưa
Bài viết dành cho kẻ mở miệng là tiếng “Ba
que”
Mùa xuân
hạnh ngộ
Sài G̣n của
tôi
Viết về một người bạn vừa nằm xuống
Vĩnh
biệt nhạc sĩ Ngọc Chánh
Xuân
về, nhớ Quê Hương
Đời đi dạy
Hãy để Cha sống những ngày cuối cùng ...
Trạng Quỳnh và loại dân khí thấp kém
Khi vợ vắng
nhà
Kết quả bầu cử tiểu bang Victoria, Úc
Thạch Lam
Người chị cao cả Phạm Thị Thàng
Tâm sự
của một Việt kiều
Gánh
hoàng hoa
Chiếc huy hiệu hoa sen trên đại lộ kinh hoàng
Hồi
ức
về
người Cha
bị
tù
Tiếng Anh
dễ
ồm!
Nằm chơi
Chứng nhân một sự kiện lịch sử
Ngộ đạo đất
trời
Xứ khỉ khọn
Sài G̣n thoáng nhớ
Ông
già đạp xích lô
Chuộc lương
tâm
Đất nước lạ lùng
Những giọt mưa trên vùng đất khô cằn
Chân dung văn nghệ sĩ Việt...
Sài G̣n
của tôi sẽ trở lại…
Ông già
bán trứng
Melbourne: Kỷ niệm Chiến Thắng Long Tân
Câu
chuyện ngày xưa
Chiếc
Rolex ân nghĩa
Giở trang nhật kư, nhớ về bạn xưa
Nén hương
ḷng
Đám Cưới …chi lạ
Bông lúa
cúi đầu
Kỷ niệm 60 năm Quân Đội Úc tham chiến VN
Ngày vui khó quên
Cộng sản là thế đấy!
Nhiễm Virus
Corona 2019
GS Nguyễn Ngọc Huy & Lm Cao Văn Luận tiết lộ...
Xao
ḷng bởi một từ "Em"
Hiệp định Genève (20-7-1954)
Mơ ước
b́nh thường
Phi công Việt là anh hùng nước Pháp
Viết cho người sắp ra đi...
Đôi lời về Cung Tiến Nhạc Sĩ hay Kinh Tế Gia
?
Môt chuyến đi Hawaii
Vinh danh người vợ tù chính trị VNCH tại
Little Saigon
Cái miệng
Phá thai là giết
người
Cha tôi, người lính Việt Nam Cộng Ḥa
Những người năm cũ
Ngày tự phụ
Màu mắt
hoàng hôn
Paris
có ǵ lạ không em?
Không quên người chiến sĩ QLVNCH
Tản mạn Huế
Nước mắt chiều xuân
Nước mắt giữa
Trùng Dương
Cuộc đời & sự nghiệp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Người tù kiệt xuất
Câu chuyện về một lá thư
Ra biển gọi
thầm
Nỗi
buồn ngày 30 tháng tư
Tháng Tư....
Bài ca
của người du tử
Lời sau cùng nói với tuổi trẻ
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Hai người lính Dù
Văn Học miền Nam tự do 1954-1975
Xe tăng Nga làm được ǵ ?
Giă từ vũ khí
Giờ phút cuối cùng
Văn Quang, người vừa khuất nẻo Sài G̣n...
Những
tấm chân t́nh
An Lộc & Ukraine chiến trường lịch sử
Hải quân Ukraine chiến đấu
Trông gịng sông Vị
Ngày xa Đà Nẵng
Chuyện của một cựu binh Mỹ gốc Việt
Kư
hiệu học và "lơ là lơ láo"
V́ sao chiếc áo cần có 5 cúc ?
Duyên phận và mệnh số
Thu, hát cho
người và giai thoại
Thương về Ukraine
Liên hội BĐQ Texas mừng xuân Nhâm Dần 2022
Đời lính
Vinh quang trên chiến hào
Sự thành công của người Việt tị nạn
Một chuyến công tác Cam Ranh
Lá đại kỳ An
Lộc
Chém chết một người là kẻ sát nhân
Chuyện xưa của tôi và bạn bè kbc 4100
Sứ mệnh văn
hóa
Thư số 124a gởi NLQĐNDVN
"Người vợ" là một vĩ nhân
Tết với TPB VNCH và mong ước tuổi xế chiều
Khó quên cái Tết năm nào
Xuân Sang- Xuân Sến
Năm Cọp nói chuyện… Bia
Đêm xuân trên vùng biển chết
Thương chùm Hoa Khế
Tôi đậu bằng … lái xe !
Về ca
khúc "gái xuân"
Thức tỉnh
Tử sĩ Hoàng Sa
Hồi kư trận hải chiến Hoàng Xa
Khi bài thơ Hoàng Sa vượt vĩ tuyến 17 vô Nam
26
truyện thật ngắn
Tuổi già
viễn xứ
Nguồn gốc của cách nói “nam tả nữ hữu”
Chiến
dịch B́nh Tây
Trận hải chiến giữa HQ VNCH và HQ Trung Cộng
Truy lùng cục miền Nam trên lănh thổ
Kampuchia
10 địa danh nổi tiếng trong âm nhạc miền Nam
Trả lời vài câu hỏi về cuộc bại trận của
QLVNCH
Cậu bé chăn trâu trở thành đại điền chủ giàu
nhất
Lạc giữa
mùa xuân
Một Thoáng “AT ... TEN”