Tập Truyện Thuyền Đời
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tràm Cà Mau
Rất nhiều bà vợ hiểu biết, hiền lành, dễ thương, ngày đêm vun xới
cho hạnh phúc gia đ́nh. Bởi hạnh phúc gia đ́nh, có thể nói là thứ
quư báu nhất trên đời, khó có ǵ sánh bằng. Sống trên thế gian, ai
ai cũng mưu cầu hạnh phúc, chỉ có người mất trí khôn mới không biết
quư không khí êm ấm của gia đ́nh. Nếu trong một đất nước, mà nhà nhà
đều được hạnh phúc đơm đầy, th́ quốc gia đó, đạt được lư tưởng mơ
ước, không cần giàu, mạnh, hay tiếng tăm.
Người ta kiếm cho ra nhiều tiền, không kể nhọc nhằn, lao tâm khổ
trí, cũng chỉ để mưu cầu hạnh phúc. (Họ tưởng tiền bạc có thể mua
được hạnh phúc) Theo đuổi danh vọng, cũng là một thứ đi t́m hạnh
phúc cá nhân, khoan kể đúng hay sai.
Tuy nhiên, có không ít bà vợ đă cố ư hay vô t́nh phá vở hạnh phúc êm
đềm thường ngày, bằng cách làm khó chồng, đay nghiến, nói lời độc
ác, hành động hoang loạn, bất măn triền miên và chê bai chồng đủ
điều. Các bà nầy, đă tự đập vở hạnh phúc đang có, và bỏ phí tháng
ngày trời cho. Có thể, đến khi mất đi ông chồng dễ ghét đó, các bà
mới chợt ư thức được hành động đáng trách của họ, và lúc đó tiếc
thương th́ cũng đă quá muộn màng.
Ai đă từng ít nhiều đau khổ v́ bị vợ hành, xin đọc các trích đoạn
sau đây. Đoạn đầu là bản dịch chương 1 phần 6 của tập “Đắc Nhân Tâm”
do học giả Nguyễn Hiến Lê dịch, nguyên tác của Dale Carnegie, sẽ
thấy an ủi vô cùng. V́ thế gian đă có những danh nhân bị vợ hành gấp
trăm ḿnh.
Xin để th́ giờ đọc, mà t́m đuợc chút an ủi và hạnh phúc. Nếu đă đọc
rồi, cũng nên đọc lại, vẫn thấy hay vô cùng. Chương 1 phần 6 của
cuốn Đắc Nhân Tâm viết như sau:
Chôn sống hạnh phúc gia đ́nh cách nào lẹ nhất?
Năm 1852, Hoàng đế Nă Phá Luân đệ tam say mê Nữ bá tước Mari Eugénie
Ignace Augustine de Montiji, người đàn bà đẹp nhất thế giới và cưới
nàng. Cận thần có người can gián Hoàng đế v́ lẽ không được “môn đăng
hộ đối”.
Nhưng Hoàng đế nói: “Có cần chi điều đó”. Cái duyên và vẻ đẹp lộng
lẫy của nàng làm cho Hoàng đế mê ly như gặp tiên. Trong một bài diễn
văn, Hoàng đế nói như thách cả nước Pháp: “Trẫm đă cưới một người
đàn bà mà Trẫm yêu và ngưỡng mộ, như vậy c̣n hơn là cưới một người
mà Trẫm không được biết”.
Hoàng đế và Hoàng hậu có đủ điều kiện để cuộc lương duyên hoàn toàn
theo lư tưởng: Sức mạnh, tiền bạc, quyền thế quang vinh, sắc đẹp,
t́nh yêu. Chưa bao giờ người ta thấy hạnh phúc thiêng liêng trong
gia đ́nh chói lọi rực rỡ như vậy.
Than ôi! Chẳng bao lâu, lửa thiêng đó chập chờn, lu mờ và tắt hẳn.
Nă Phá Luân đă có thể làm cho nàng Eugénie thành một bà Hoàng hậu
được, nhưng không có ǵ ở đời này, cả t́nh thương của ông, cả uy
quyền của ông, có thể thay đổi nổi tính t́nh của người đàn bà đó.
Bà điên cuồng v́ ghen tuông bị nghi ngờ nó giày ṿ bà, làm cho đời
sống của ông không được mảy may tự do. Bà không kể ǵ tới mệnh lệnh
của ông nữa, bà sồng sộc xông vào văn pḥng của ông trong khi ông bề
bộn việc nước; Trong lúc ông bàn kín việc quốc gia đại sự, bà cũng
vào cho kỳ được mới nghe. Bà nhất định không bao giờ để cho ông ở
một ḿnh hết, luôn luôn sợ ông có ngoại t́nh.
Thường thường bà chạy lại nhà một bà chị để phàn nàn về chồng, trút
hết tâm sự, khóc la, đe dọa. Có lắm lần bà đạp cửa vô thư viện của
ông để chửi ông nữa. Cho nên, làm chủ mười hai ṭa cung điện lộng
lẫy mà Nă Phá Luân đệ tam không có lấy một cái tủ để trốn trong đó
cho yên thân được.
Rồi sau xảy ra sao?
Đoạn văn bản này trích trong cuốn sách thú vị của E. A. Rheinhardt
“Nă Phá Luân và Eugénie: Bi hài kịch của một đế chính” trả lời câu
hỏi đó:
“Như vậy, rốt cuộc Nă Phá Luân có ngoại t́nh thiệt và ông luôn luôn
lén lút ra khỏi cung, đội chiếc nón nỉ kéo sụp xuống che mắt, có độc
một người hầu cận theo sau, để đi tới nơi hẹn ḥ với một giai
nhân... Nếu không phải, như hồi c̣n hàn vi, để đi lang thang trong
kinh đô, vơ vẩn dạo chơi trong những con đường mà các vị Hoàng đế
chỉ được nghe tả trong sách...”.
Đó, cách cư xử của bà Eugénie đem tới kết quả như vậy đó. Đành rằng
bà vẫn luôn luôn là Hoàng hậu nước Pháp. Đành rằng bà là người đẹp
nhất thế giới. Nhưng khốn nạn thay, cả chức Hoàng hậu và sắc đẹp đó
không đủ cứu văn t́nh yêu bị ngạt trong không khí đầy chất độc, v́
những cuộc bất ḥa đó.
Phải, Eugénie cũng có thể kêu Trời như Job “Ghét của nào, Trời trao
của đó”. Trời trao ư? Không đâu. Chính bà đă tự đem trút nó lên đầu
bà v́ cái máu ghen và những lời đay nghiến của bà. Đành hanh, nhiếc
móc, giày ṿ, thứ khí giới tai hại nhất mà Diêm Vương đặt ra để tiêu
diệt t́nh yêu. Khí giới đó chắc chắn có hiệu quả hơn hết cũng như
nọc rắn hổ vậy, không ai thoát khỏi chết.
Bá tước phu nhân Tolstoi t́m thấy chân lư đó - nhưng trễ quá. Lúc
lâm chung, bà thú với con gái bà rằng: “Chính má đă làm cho ba các
con chết”. Con gái bà không biết trả lời ra sao, sa lệ. V́ biết rằng
quả đúng như vậy: Ông Tolstoi chết v́ bà đầu độc đời ông bằng những
lời đay nghiến cay chua không ngớt, những cuộc xung khắc bất tận.
Mà cặp vợ chồng đó có đủ những điều kiện của hạnh phúc. Tolstoi là
một văn sĩ nổi danh nhất hoàn cầu. Ngoài vinh quang đó ra, ông bà
lại giàu sang, có địa vị quan trọng trong xă hội và có nhiều con.
Không bao giờ một cuộc hôn nhân trổ bông dưới nền trời tươi sáng hơn
nữa. Mới đầu, hạnh phúc của ông bà đầy đủ quá, hoàn toàn quá, đến
nỗi có khi cả hai đều quỳ gối, cầu xin Thượng đế ǵn giữ họ trong
cảnh thần tiên đó.
Rồi th́ một sự lạ lùng xảy ra. Lần lần Tolstoi biến đổi tính nết,
thành một người khác hẳn. Ông xấu hổ về những danh tác ông đă viết,
và bắt đầu từ lúc đó ông miệt mài viết những bài thuyết giáo về ḥa
b́nh và kêu gọi diệt trừ chiến tranh và khổ cực cho nhân loại.
Ông thú rằng hồi thiếu thời, ông đă mắc những tội lỗi không thể
tưởng tượng được, cả tội giết người nữa và để chuộc tội, ông nhất
định theo đúng giáo lư Cơ Đốc. Ông phân phát hết thảy những của cải
của ông và thề sống trong cảnh nghèo. Ông làm lụng ngoài đồng, chặt
cây, phơi cỏ, đóng lấy giày, quét lấy pḥng, ăn trong đĩa bằng gỗ,
ráng yêu cả những kẻ thù ông.
Đời của ông là một bi kịch, mà như vậy chỉ do hôn nhân của ông. Bà
ưa xa hoa, ông th́ ghét. Bà ham danh vọng, thích được tôn trọng,
thích giao du, mà ông lại không màng ǵ tới những thú tầm phào đó.
Bà đ̣i có nhiều vàng, sống một cuộc đời sang trọng, c̣n ông th́ cho
giàu có là một tội lỗi.
Trong nhiều năm, bà đay nghiến ông, thịnh nộ với ông, mạt sát ông,
v́ ông in sách cho không, không đ̣i quyền tác giả, mà bà th́ không
muốn bỏ những món tiền đó.
Khi ông chống lại th́ bà phát cơn động kinh, lăn trên mặt đất, ngậm
ở môi một ve thuốc phiện, thề sẽ tự tử hay dọa sẽ đâm đầu xuống
giếng.
Có một chi tiết mà tôi cho là vô cùng thương tâm trong đời của ông
bà. Như tôi đă nói, lúc mới cưới, cuộc t́nh duyên đó thiệt đẹp đẽ,
vậy mà 48 năm sau, ông Tolstoi đến nỗi hễ trông thấy mặt bà là chịu
không nổi... Có khi, buổi tối, bà già cô đơn đó thèm khát t́nh
thương, lại quỳ bên ông và xin ông đọc cho nghe những đoạn dịu dàng
cảm động, mà ông viết vô nhật kư để tặng bà, 50 năm trước.
Và khi ông đọc, sống lại những ngày tươi sáng rực rỡ, bây giờ đă tan
như mây khói, cả hai đều rơi lệ. Than ôi! Thực trạng khác xa những
mơ mộng thiếu thời một cách độc địa làm sao!
Sau cùng, năm 82 tuổi, Tolstoi không chịu nổi sự bất ḥa ghê gớm
trong gia đ́nh nữa và một buổi tối, tháng 10 năm 1910, tuyết sa đầy
trời ông trốn bà, đi xa, trong đêm tối và lạnh lẽo, không biết là đi
về đâu.
Mười một ngày sau, ông đau phổi mà chết tại một nhà ga. Lời cầu xin
cuối cùng của ông là đừng để ông thấy mặt vợ ông.
Đó, bà Tolstoi phải chuộc những cơn giận, lời dọa nạt, lời trách móc
với cái giá đó. Có lẽ độc giả tự nhủ rằng có nhiều chỗ bà phàn nàn
cũng đáng. Phải. Nhưng vấn đề không phải ở đó. Vấn đề ở chỗ này: Bà
phàn nàn có ích ǵ cho bà không? Hay là, trái lại, chỉ làm cho t́nh
thế đă tệ hại c̣n tệ hại thêm nhiều?
Khi trễ quá rồi, bà mới tự thú: “Tôi tin chắc rằng hồi đó tôi điên”.
Bi kịch thảm thương nhất trong đời Lincoln cũng là cuộc hôn nhân của
ông. Tôi nói rơ: Không phải là vụ ám sát ông mà là cuộc hôn nhân của
ông. Khi tên Booth hạ sát ông bằng một viên đạn, ông không hay rằng
người ta mới bắn ông, nhưng trong 23 năm trời, gần như mỗi ngày, ông
được nếm “những trái cây chua chát của một duyên nợ đau khổ” như lời
ông Herdon, người bạn ông đă nói. Thiệt vậy, trong gần một phần tư
thế kỷ, bà Lincoln rút dần mạch sống của đời ông bằng cách khích
bác, gây lộn, giày ṿ, đay nghiến ông.
Bà luôn luôn day dứt, đay nghiến rằng ông chẳng được vẻ ǵ: Nào là
lưng th́ gù, chân đi th́ kéo lê như thằng mọi, dáng điệu cứng như
que củi, gai mắt lạ lùng.
Bà nhại dáng đi của ông rồi nghiến răng hỏi ông sao không bắt chước
dáng đi lịch sự của bà? Bà oán cả hai tai ông, vừa rộng vừa vểnh ra
như tai voi. Bà chê ông mũi lệch, bà chê môi dưới ông trề ra, bà chê
ông có vẻ ốm đói; Tay chân lớn quá mà đầu th́ nhỏ quá! Hai ông bà
trái ngược nhau về đủ mọi phương diện: Giáo dục, tính t́nh, thị
hiếu. Chọi nhau hoài...
Một sử gia thông thạo nhất về đời sống Tổng thống Lincoln có viết:
“Giọng nói the thé của bà Lincoln, ở ngoài đường cũng nghe thấy, và
những cơn thịnh nộ của bà th́ điếc tai hàng xóm. Mà không phải khi
bà giận dữ, chỉ la hét mà thôi đâu, bà c̣n làm hung nữa, có nhiều
chứng cớ không chối căi được”.
Chẳng hạn, sau khi cưới, ông bà lại trọ nhà bà Farly, vợ góa một
lương y, có nấu cơm tháng.
Một hôm lúc điểm tâm, ông Lincoln có một cử chỉ hoặc thốt một lời
làm cho bà nổi giận. Không ai nhớ ông đă làm ǵ, nhưng người ta thấy
bà Lincoln trong lúc cơn điên lên đến cực điểm, liệng một tách cà
phê nóng vào mặt chồng, ngay lúc đông đủ các khách trọ khác.
Lincoln xấu hổ lắm, làm thinh ngồi trơ trên ghế trong khi bà chủ trọ
đem chiếc khăn mặt ướt lại chùi má và quần áo ông.
Ḷng ghen của bà Lincoln vô lư dữ tợn, và không thể tưởng tượng
được, đến nỗi chỉ cần đọc những đoạn tả những cơn giận dữ, bi thảm
làm cho ông mất mặt trước công chúng, phải, chỉ cần đọc những đoạn
đó, 75 năm sau, cũng c̣n thấy kinh tởm rùng ḿnh. Sau cùng, bà hóa
điên. Người ta cho rằng tánh hạnh bà như vậy; Bởi v́ bà mắc bệnh
thần kinh. Không thể có lời nào nhân từ hơn để xét bà nữa.
Bây giờ ta hăy tự hỏi: Những cơn thịnh nộ đó, những lời đay nghiến
đó, cái lối bù lu bù loa đó có cải thiện ông Lincoln chút nào không?
Một ngàn lần không. Nó chỉ giết hết t́nh cảm của ông đối với bà, nó
làm cho ông suốt đời hối hận rằng đă cưới bà và chỉ muốn có mỗi một
hành vi là đi khỏi nhà cho khuất mắt.
Tại tỉnh Springfield, là nơi gia đ́nh Lincoln ở, có 11 ông luật sư.
V́ đông quá, không thể kiếm ăn trong tỉnh đó được, họ phải đi ngựa
từ tỉnh lỵ này qua tỉnh lỵ khác, theo sau ông ṭa David Davis để căi
trong những lúc ông này xử án khắp trong miền. Nhưng trong khi bạn
đồng nghiệp của ông Lincoln cứ cuối tuần lại trở về gia đ́nh th́ ông
Lincoln không muốn về, v́ rất kinh tởm sự ở gần bà vợ. Và trong ba
tháng hè và ba tháng thu, ông ở xa biệt, không lai văng gần miền
Springfield.
Như vậy trong nhiều năm. Đời sống trong những quán trọ nhà quê đó
không vui thú, cũng không đủ tiện nghi; Nhưng sống như vậy, ông c̣n
thích hơn là về nhà để thấy bà Lincoln với những cơn tam bành, lục
tặc của bà ấy.
Hành vi của bà Lincoln, Hoàng hậu Eugénie và Bá tước phu nhân
Tolstoi có những kết quả như vậy. Chỉ mang lại bất hạnh cho gia đ́nh
và diệt hết nguồn ân ái mà mấy bà quư hóa nhất.
Sau khi bàn căi trong 11 năm ở “Ṭa chuyên xử các vụ lôi thôi trong
gia đ́nh ở Nữu Ước” và nghiên cứu cả ngàn vụ chồng bỏ nhà ra đi, bà
luật sư Bessie Hamburger tuyên bố rằng đàn ông phải trốn vợ v́ họ
chán nghe vợ rầy rà, gây gổ. Như một văn sĩ đă nói: “Đàn bà đào
huyệt chôn hạnh phúc gia đ́nh bằng nanh vuốt của họ”.
Vậy, thưa quư bà, nếu quư bà muốn giữ sự vui vẻ ḥa nhă trong gia
đ́nh, xin quư bà theo lời khuyên dưới đây: Đừng day dứt đay nghiến
chồng!
Không phải chỉ các danh nhân mới khổ v́ vợ. Những người b́nh thường,
cũng gặp hoàn cảnh ngang trái, như hai nhân vật trong tập truyện
ngắn nhan đề “Hương Tóc Cố Nhân” của Tràm Cà Mau, trích từ trang 59:
Nhiệm sở đầu tiên trong đời làm việc của tôi là một cơ sở quốc
doanh, một khu kỹ nghệ, tiền vốn do các quốc gia Liên Âu viện trợ
phát triển công nghiệp. Ông tổng giám đốc của tôi là một người Việt
có quốc tịch Pháp. Trong sở, ông chỉ nói bằng tiếng Tây, giọng oang
oang, oai phong lắm. Lời ông nói, mới nghe th́ rất chi là thực dân
phong kiến. Câu nói nào của ông cũng có kèm theo những lời vô cùng
dao búa chết chóc: “Ông chém mầy. Ông giết mầy. Ông bắn mầy”. Nghe
lối nói của ông, chúng tôi hết hồn, run. V́ đa số chúng tôi thường
được giáo dục trong lời ăn tiếng nói, tránh những ngôn từ không đẹp,
không dám dùng lời thô lổ sống sượng, làm mất ḷng người nghe. Những
vị giám đốc dưới quyền, sợ ông tổng giám đốc như sợ cọp. Cả ông thầy
cũ của chúng tôi đang là nhân viên trong sở, cũng lấm la lấm lét
trước mặt ông nầy. Th́ chúng tôi là cái “thá” ǵ, có gan bằng trời
hay sao mà không sợ? Tôi hỏi một anh lớn tuổi hơn trong sở, tại sao
ông tổng giám đốc có thái độ hung hăng dữ dằn như thế. Anh bảo tôi
đừng thèm để ư lời ông nói, miệng ông phun toàn lời độc địa, nhưng
tâm ông không xấu. Có lẽ v́ ông là kỹ sư đào mỏ, tốt nghiệp ở Pháp,
ra làm việc với phu mỏ bên Tây, tiếp xúc toàn cả dân “trời ơi đất
hỡi” bên đó, cho nên ăn nói không được thanh nhả, quen thói mạnh
miệng. Từ bé cho đến tuổi đó, tôi chưa gặp một người nào có vẻ hung
hăng như ông nầy. Thế mà, trước mặt bà vợ đầm, ông x́u như cái mền
rách. Ấp a ấp úng, nói cà lăm, bao nhiêu hùng khí trong ông đều tiêu
tan cả. Một lần nọ, trong buổi họp, ông đang ba hoa nói trời, nói
đất, đang doạ dẫm chuyện nầy chuyện kia, th́ vị bí thư của ông hé
cửa pḥng họp chạy vào, thầm th́ với ông câu ǵ đó. Mặt ông chợt xám
ngắt như ch́, ông run lên thấy rơ, lính quưnh chưa kịp hành động ǵ,
th́ nghe tiếng la oang oang bên ngoài bằng tiếng Tây, giọng đầm:
“Thằng chó đẻ, thằng mọi rợ, thằng khốn nạn, hèn mạt, đê tiện, vô
liêm sỉ, bà xé xác mầy ra. Mầy trốn ở đâu bà cũng lôi đầu mày ra, bà
trị cho chừa.”
Tiếng rầm rầm bên ngoài pḥng. Ông tổng giám đốc của tôi nói giọng
run run khẩn cấp:
“Chốt cửa lại. Chốt cửa lại”
Một anh kỹ sư chạy mau về phía cửa, kê nghiêng cái ghế vào nắm tay
cầm, gia cố cho chắc thêm. Bên ngoài , bà đầm đang hành hạ cánh cửa,
đấm đá, dộng, đập. Tiếng ầm ầm như bọn cướp phá nhà. Bên trong, ông
tổng giám đốc của tôi mặt xanh như tàu lá, sợ đến mồ hôi chảy thành
gịng. Bây giờ th́ tất cả cái vẻ oai phong hống hách thường ngày của
ông đều tan biến đâu cả. Ông lắp bắp :
“Kêu cảnh sát, kêu cảnh sát, kêu.. kêu...”
Có lẽ ông giả vờ nói cho đỡ ngượng, bớt xấu hổ, chứ ai mà cả gan dám
kêu cảnh sát vào bắt vợ ông. Chúng tôi án binh bất động, ngồi thừ
ra, mặt anh nào cũng sượng sần, không dám cười, nói ǵ cả. Bên
ngoài, tiếng thoá mạ, xỉ vả của bà đầm nghe léo nhéo, ồn ào liên
tục. Đấm đá cánh cửa một hồi lâu không hiệu quả, mà bên trong im
khe. Bà đầm rùng rùng chạy xuống lầu, ra sân đậu xe, khiêng một tảng
đá lớn, bà dộng mạnh vào tấm kiếng trước của chiếc công xa sang
trọng láng bóng mà ông thường sử dụng. Ầm một tiếng, tấm kiếng vở
tan tành thành từng mănh vụn nhỏ như hạt bắp khô. Tảng đá chui tọt
vào trong ḷng xe. Anh tài xế đứng gần đó, ôm đầu la, tiếng thất
thanh : “Ối trời ơi.”. Bà đầm đứng chống nạnh kêu gào, chửi bới, đá
ầm ầm vào xe thêm một hồi lâu nữa, mới hậm hực lửng thửng bỏ đi. Ông
tổng giám đốc tuyên bố buổi họp tạm chấm dứt. Có lẽ, ông không c̣n
ḷng dạ nào mà tiếp tục phiên họp.
Sau nầy, tôi nghe anh tài xế riêng của ông kể thêm rằng, khi bà con
của ông tổng giám đốc có kỵ giỗ, đem mâm thức ăn đến biếu. Bà đầm
nầy đứng ngay cửa, cầm cả mâm thức ăn liệng ra sân. Choang một
tiếng, cả mâm đồng và chén dĩa bể loảng xoảng. Bà đầm gào lên rằng:
“ Không có bà con chi với ai cả. Không ai ăn các thứ dơ bẩn nầy.”
Ông tổng giám đốc đầy uy quyền, hống hách của tôi, tưởng đâu trên
đầu không c̣n có ai, thế mà cũng chịu thua bà vợ, thua đậm, thua
hoàn toàn, thua không cách ǵ gỡ được. Lâu lâu, bà vào sở, làm náo
loạn vài ba tiếng rồi ra về. Bị vợ đ́ đến thế, nhưng ông không hổ
thẹn với ai cả. Bởi ông sợ vợ ông, chứ có sợ vợ người khác đâu . Cái
hung hăng của ông đối với cấp dưới quyền vẫn không giảm đi chút nào.
Ông Tư là người chỉ huy trực tiếp của tôi, có dáng vẻ hiền lành,
đứng đắn, ăn nói nhỏ nhẹ. Mỗi sáng bà vợ đi theo vào sở, ngồi trước
mặt ông để canh chừng. Mỗi khi điện thoại reo, bà cầm lên nghe
trước, hỏi xem ai bên kia dây, rồi mới trao cho ông. Những khi nghe
giọng đàn bà bên kia đường dây, th́ bà ghé tai sát vào ống nghe, để
biết hai người đang nói chuyện ǵ. Bà ngồi từ sáng sớm đến chiều tối
cùng đi, cùng về với ông. Đứa con c̣n nhỏ bà giao cho vú em săn sóc.
Ông như một tù nhân bị giam lỏng. Mỗi khi có chuyện cần, ông đi qua
pḥng khác, lầu khác, th́ bà lẽo đẽo đi theo như một cái đuôi. Bà
đứng đợi ông nói chuyện xong, rồi dẫn độ ông về lại văn pḥng. Những
lần họp chung trong pḥng ông tổng giám đốc, bà đứng canh trước cửa.
Thế cũng chưa đủ. Lâu lâu bà dùng điện thoại của pḥng khác, kêu
vào, và xin được nói chuyện với ông Tư. Nhiều khi tôi nghe ông Tư
càu nhàu trên điện thoại: “ Bà làm phiền hoài. Người ta đang họp.
Khổ quá, như thế nầy th́ làm ăn chi được?” Có lẽ ông tổng giám đốc
cũng nghe, nghe rơ, và thông cảm cho ông Tư hơn ai cả, v́ cả hai ông
đều chung hội chung thuyền, thuộc loại râu quặp vào bên trong, khổ
v́ vợ.
Một lần tôi hỏi bà Tư:
“Bác đứng canh bên ngoài cửa, ai vào ra bác đều biết. Có phải họp
lâu, bác nhớ bác trai quá, nên kêu điện thoại để nghe tiếng cho đỡ
nhớ phải không?”
Bà xí một tiếng dài, nói mà hai hàm răng nghiến lại:
“Nhớ cái khỉ. Tên già dịch đó, nhớ làm chi cho bận tâm. Tôi kêu điện
thoại, v́ sợ lăo tụt ống máng xuống, trốn đi làm chuyện bất chính.”
Tôi ph́ cười nói:
“Ở trên lầu ba cao thế nầy, ai mà đủ can đảm tuột ống máng xuống. Té
một cái là vỡ đầu chết ngắt. Mà cả sở đông đảo vào ra, thể diện đâu
mà ông giám đốc Tư lại tụt ống máng giữa ban ngày ban mặt? Giả dụ
như bác Tư thành công trong việc tuột ống máng đi nữa, làm sao mà
leo trở lại được. Có là siêu nhân mang cánh bay chăng. Giả như ông
ta xuống được, về lại được, th́ thời gian cấp bách đó, đâu có làm
được cái tṛ khỉ ǵ mà bác lo?”
“Tôi vẫn cứ lo như thường. Trên đời nầy, chuyện ǵ vô lư nhất, cũng
vẫn có thể xẩy ra. Muốn là được. Anh có nghe câu nói đó chăng?”
Tôi thấy tội nghiệp cho bà, và tội cho cả ông Tư rất hiền lành. Tôi
nắm tay bà, thân mật nói đùa:
“Tôi cũng rất thù ghét cái bọn đàn ông trăng hoa, gạt vợ dối con.
Tôi đứng về phe bác. Tôi sẽ canh ông Tư cho bác. Khi nào có họp, mà
ông Tư lẻn đến cửa sổ, có vẻ muốn tuột máng xối xuống lầu, th́ tôi
sẽ chạy ra hô hoán, thông báo cho bác ngay. Bác yên chí lớn.”
“Thật không? Anh không sợ ‘thằng chả’ trù ếm sao?”
“Sợ cái quái ǵ? Không làm sở nầy, th́ tôi đi làm sở khác. Việc chi
sợ ai. Tôi chỉ sợ...chỉ sợ ...”
Tôi định nói chỉ sợ dàn bà con gái mà thôi, nhưng kịp giữ miệng
không nói ra. Bà mừng rỡ, mắt sáng lên và nói:
“Thật nghe! Anh đứng về phe tôi. Nếu thật, th́ anh thề độc đi”
“Tôi sợ chi mà không thề độc?”
“Anh tử tế quá. Tôi sẽ giới thiệu cô em gái út của tôi cho anh. Đẹp,
giỏi không ai bằng.”
Nghe bà đ̣i giới thiệu em gái, mà tôi sợ tái mặt, lạnh cả người.
Mấy lần, tôi thấy ông Tư đi làm, mà không có bà đi theo. Chưa kịp
hỏi thăm xă giao rằng bà vợ của ông có được mạnh khoẻ không, th́
nghe tiếng chân bà chạy xồng xộc bên ngoài, phóng vào pḥng, áo quần
xốc xếch, mặt mày hớt hải, mắt nh́n lơ láo. Bà hỏi anh thư kư riêng
của ông Tư:
“Năy giờ ông ấy có đi đâu không?”
"Thưa bà không."
“Có thật không? Hay là anh nói dối.”
Bà bước mau qua pḥng tôi ngồi, hỏi tôi có chắc ông Tư không đi đâu
từ sáng đến giờ. Tôi xác nhận, và hỏi bà:
“Sáng nay bác ngủ trể hay sao mà không đi chung với bác trai?”
Bà ghé sát, tai th́ thầm:
“Tôi vờ nói mệt, sáng nay không đi theo được. Khi ổng vừa lái xe ra
đi, tôi đang mang đồ ngủ, vội vă kêu taxi bảo rượt theo đến đây.
Thấy xe của giả đậu trong sân, chắc chắn là không đi đâu khác, tôi
chạy gấp về, thay mau áo quần, và kêu xe đến ngay đây. Tôi sợ trong
thời gian đó, giả trốn đi đâu khác.”
Một lần, anh thư kư riêng bị ông Tư la rầy, anh giận, chờ dịp trả
thù. Lần đó, bà Tư cũng giả mệt, đến sở sau. Bà cũng hớt hải hỏi anh
thư kư. Anh bảo rằng, ông có đi đâu đó một chốc. Quả thật ông có qua
lầu khác bàn chuyện sở với đồng nghiệp. Thế là bà Tư nổi cơn tam
bành lên, kêu gào, khóc lóc, la hét, chửi ông Tư bằng những lời tục
tỉu. Từ chuyện nhỏ, xé thành lớn.
Không biết ông Tư nỗi đoá, doạ dẫm bà thế nào, mà bà chạy ra đường
khóc lóc, la hét. Bà nạy đá, cục lớn bằng nắm tay, pháo kích vào sở
ào ào. Mấy ông lao công phải chạy ra ngăn cản, và doạ bà. Bà không
sợ. Bà thét to từ ngoài vào sở rằng, ông Tư mang bằng kỹ sư giả từ
Pháp về, dối gạt chính quyền. Bà yêu cầu bỏ tù ông Tư, v́ ông có
liên hệ đến bọn buôn hàng quốc cấm. Bà thoá mạ ông chồng đủ các thứ
ngôn ngữ hàng tôm hàng cá, b́nh dân nhất. Bao nhiêu hư hại do bà
pháo kích, ông Tư phải trả đủ, trừ vào lương.
Ông Tư giận, sa thải anh thư kư riêng. Rồi ông bà cũng làm hoà nhau.
Nhiều hôm tôi thấy bà mệt mỏi, ngủ gật, mặt mày phờ phạc. Tôi hỏi xă
giao:
“Bác có vẻ mệt đấy. Về nhà ngủ một giấc cho sướng. Để tôi canh ông
Tư cho.”
“Không được đâu. Cả đêm tôi không dám ngủ say, sợ giả lén dậy đi
đâu. Phải nắm chặt tay giả cho chắc.”
“Tội nghiệp bác. Chắc v́ thương bác trai quá, nên ghen và khổ như
vậy.”
Bà Tư nghiến răng nói như gào:
“Thương! Thương cái xương không c̣n. Tôi ghét cay ghét đắng, hận thù
thằng chả đến tận tim gan. Kiếp trước tôi mang nợ thằng chả, nên
kiếp nầy khổ như thế đấy.”
“Bác trai có làm điều ǵ bậy bạ, tổn thương đến t́nh nghĩa vợ chồng
không?”
“Phải chờ cho đến khi làm việc bậy bạ sao?”
Tôi nói đùa:
“Bác muốn ngủ yên mỗi đêm, th́ cứ mua một sợi xích, khoá chân bác
trai vào chân giường, cất kỹ ch́a khoá. Thế là bác tha hồ mà ngáy.”
Bà Tư cười. Mấy hôm sau, ông Tư vào sở la lối om ṣm, xổ giọng mầy
tao với tôi. Tôi không ngờ bà Tư làm thật, muốn xích ông Tư vào
giường như xích nô lệ. Ông không chịu, và hai vợ chồng gây gổ nhau.
Tôi biết lỗi. Xin lỗi ông Tư nhiều lần ông mới tạm nguôi.
Tôi tưởng bà Tư nguyên là thôn nữ, thất học ngu dốt nên ghen tuông
bậy bạ. Ghen tuông một cách vô lư, dốt nát. Nhưng một lần có phái
đoàn viện trợ đa quốc gia, tới thăm khu kỹ nghệ, để xem viện trợ của
họ có được dùng hợp lư hay không. Gồm đại diện của Pháp, Anh, Đức, Ư
và Tây Ban Nha. Trong buổi tiếp tân, bà Tư nói tiếng Đức, tiếng Ư,
và tiếng Anh theo giọng Luân Đôn, nói rôm rốp như nói tiếng mẹ đẻ.
Bà c̣n kể cả chuyện khôi hài, làm các ông cười vui nhộn. Sau đó, tôi
mới biết bà được gởi đi du học bên Pháp từ thuở nhỏ. Chỉ học chuyên
về sinh ngữ. Bà có khiếu, nói song suốt tám ngôn ngữ khác nhau.
Thưa các bạn đọc, bạn có thấy sung sướng khi so sánh vợ nhà với quư
phu nhân nầy hay không? Th́ ra, vợ ḿnh cũng c̣n dễ thương quá, chưa
đến nỗi nào./.
Tràm Cà Mau
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Nụ cười đầu
năm
Luận về nghệ
thuật lănh đạo
Lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Nhìn lại cuộc chiến Triều Tiên 1950 – 1953
T́nh h́nh Việt Nam sau Hiệp Định Geneve
Những trang sử hào hùng của HQ/QLVNCH
CSVN hứa hẹn nhân quyền...
Âm mưu cưỡng chiếm Hoàng Sa của TC
Bài viết
hay về nước Mỹ
Đại
Tá Võ Văn Xét - Thân phụ BK Vơ Khắc Hiệp
33
Chuyện
"THẦN B̉BOUL"
Ông già Noël mắt
một mí
Christmas in the communist re-education camp
Không món quà nào
hơn
Kẻ đào ngủ
Quốc Học
Tưởng nhớ Việt Dũng
Bài
thánh ca buồn
Những mảnh đời trên một chuyến "Xe Đ̣"
Mùi áo lính
Ngàn đời
nhớ anh
Kư ức
vùng Hỏa Tuyến
Ba vị đại tá VNCH là những nhạc sĩ tên tuổi
Mầy c̣n
nhớ không?
Tiếng
Việt ḿnh ngộ quá!
Về thăm cố hương
SEAL của Mỹ bắt giữ thủ lĩnh hàng đầu của
Hamas
Một thoáng mùa thu về trên xứ Huế
Con
người thực Anthony Fauci
Một giọt dầu loang
Sau khi chết, chúng ta về đâu?
Giỗ cho 300000 quân sĩ đă chết trong chiến
cuộc VN
Phút cuối
Tân Lâm
Lễ viếng mộ 81 tử sĩ Nhảy Dù
Người Nhật/Người Lào & Người Việt
Chuyện chú A Tỷ và Tiểu Thanh
Sự thật về lực lượng Hamas
Người việt nam hèn hạ
Giết cho
đủ chỉ tiêu!
Một
nét chữ, một đời người
Chàng lính binh nh́ bị khiển trách v́ giày
bẩn
Lần đầu
nhập trận
Nói tiếng Anh kiểu này...
Những món nợ phải trả
Cờ Vàng 3
sọc đỏ - Ngọn cờ đại nghĩa của dân tộc Việt
Hồng nhan
Cô Lành về Quảng Nam
Những
người 50-80 tuổi nên đọc
Những mùa Trung Thu
Đường vào Học Viện Không Quân Hoa Kỳ
Mỹ
vào VN ‘lần hai’ và
các bài học cho hôm nay
Việt kiều mới ở xứ người
Trả lời câu hỏi về cuộc bại trận của QLVNCH
QLVNCH 1968 - 1975
Hỏng rồi tiếng nước tôi!
Dốt hay nói
chữ
Tiến tŕnh bầu cử
tại Hoa Kỳ
Những ngày tháng cũ
Người hùng chỉ huy trận chiến Long Tân vừa
qua đời
Thảo tím
Lại nước mắm
Ngu như lợn
Long Tân Day
Kỷ niệm 50 năm chiến tranh Việt Nam
Tưởng nhớ Anh Vân - Quách Tố Vương
Gửi trứng
cho ác
Hoàng Ngọ
Số phận nào cho kẻ thua trận?
Nghệ thuật chôn sống
Lữ Đoàn III Nhảy Dù Quảng Trị năm 1972
Để thấy vợ ḿnh dễ thương hơn nhiều..
Trường xưa
Đường chiến binh
Nhà khoa học gốc Việt được vinh danh...
Giấc mộnh kinh hoàng
Nhạc sĩ Từ Cộng Phụng
Thư số 141a gửi ngư2i ơlính QĐNDVN
Đêm truy điệu
Bà già Ba Tri
Một đời Kỵ Binh, hiên ngang, lẫm liệt
Sự ra đời của ngày lễ Độc Lập Hoa Kỳ
Thương tiếc một bác sĩ quân y
Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh ở Melbourne,
Úc,,,
Câu Chuyện Về Jacky Ly
Nhớ lại một ngày vui
Người ta
đi
lính mang
lon
Đắng
cay
của
một
người
tù
Để
thấy thương vợ nhà hơn
Cuối
cuộc hành tŕnh
Áo
học tṛ và áo trận
Câu
chuyện ngày xưa
Đừng bao giờ...
Những
âm thanh tuổi thơ
Vài nét về QLVNCH và ngày Quân Lực 19/6
Tháng sáu trời mưa
Thanh Tâm Tuyền,
giữa ḷng cuộc đời
Người lính Mỹ nay ở đâu?
Giọt hạnh phúc trong đáy ly!
Đói !
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong ở thủ đô Mỹ
Nhân lễ Chiến Sĩ
Trận Vong Mỹ, nhớ....
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong,’ tưởng nhớ chiến sĩ VNCH
Nói phét!
Thuyền đắm giữa khơi
Khi sa cơ mới
biết ai là bạn...!
Quốc hội TB Florida ban hành Nghị Quyết Vinh
Danh..
Nhật Bản
trong tôi
Tôi viết
cho anh - Người "Chiến sĩ áo đen VNCH"
50th Anniversary of the Vietnam War
Quân Đội Úc trong chiến tranh VN
Bản án tử
h́nh
Ḍng sông, ḍng đời
Một
thành phố mất tên
30 Tháng Tư, lời xin lỗi muộn màng
Tuẫn tiết
Những kẻ xa
quê
Hồi đó tụi mày ở
đâu?
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Giờ phút cuối cùng của đồi Tăng Nhơn Phú
Ca hát với ma
Gă bất cần
Những
thống khổ bi hùng
Những h́nh ảnh không in ra được
Thầy đồ
Truyện về lính - Tự truyện của một phi công
40 năm t́m
bạn
Một mối đau chung, nhiều lối nh́n khác biệt!
Trường Sa tháng 4 năm 1975
Ngày Quân Đoàn I “tan hàng”
Thảm họa di tản từ Miền Trung Tháng Ba 1975
Người
lính năm xưa
Tướng VNCH tù trên 17 năm
Hai lá thư
Tiểu sử Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù
Huynh đệ
chi binh
An Dương
H́nh ảnh một buổi chiều
Mẹ! Hiền phụ của ông Bảo!
Nhà
già... chào mi!
Tôi
là người nước nào?
Giờ phút …hấp hối cuả 1 thành phố
Chuyện xưa đến nay vẫn đúng
Cuộc đời và sự nghiệp ca sĩ Quỳnh Giao
Trên đồi gió
Con nhà nghèo trở thành hàn lâm kỹ thuật Mỹ
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Đồi xưa, núi
cũ
Đoạn đường kỷ niệm thời thơ ấu
Người điệp viên giỏi nhất của VNCH & CIA
Cái nh́n mới về VNCH
Cơn ác mộng
Chặng
đường quê hương
Máu đào nước
lă
Những
quả ổi cuối mùa
Đời đi dạy tại Canada
Tiếng
Việt Sài G̣n cũ
Tác giả
'Dư âm' qua đời ở tuổi 95
Giận cá chém thớt hay
giận thớt chém cá ?
Chế Lan Viên
Gato!
Thắp nhang sao mà vẫn căm thù người chết
Để tang cho
sách
Đồi Charlie: Người đi, linh hồn ở lại
Mẹ Việt Nam
Trước thềm xuân hoà b́nh
Cái áo của thầy tôi
Hiệp định Paris 1973 - 2023 - 50 Năm nỗi đau...
Trầm Tử Thiện -
Người chép sử lư vong...
Mâu thuẫn quân
sự và chính trị Mỹ về cuộc chiến VN
Tử sĩ Hoàng Sa
Hương vị
ngày xuân
Nhớ lại cái tết năm xưa
Bài viết dành cho kẻ mở miệng là tiếng “Ba
que”
Mùa xuân
hạnh ngộ
Sài G̣n của
tôi
Viết về một người bạn vừa nằm xuống
Vĩnh
biệt nhạc sĩ Ngọc Chánh
Xuân
về, nhớ Quê Hương
Đời đi dạy
Hãy để Cha sống những ngày cuối cùng ...
Trạng Quỳnh và loại dân khí thấp kém
Khi vợ vắng
nhà
Kết quả bầu cử tiểu bang Victoria, Úc
Thạch Lam
Người chị cao cả Phạm Thị Thàng
Tâm sự
của một Việt kiều
Gánh
hoàng hoa
Chiếc huy hiệu hoa sen trên đại lộ kinh hoàng
Hồi
ức
về
người Cha
bị
tù
Tiếng Anh
dễ
ồm!
Nằm chơi
Chứng nhân một sự kiện lịch sử
Ngộ đạo đất
trời
Xứ khỉ khọn
Sài G̣n thoáng nhớ
Ông
già đạp xích lô
Chuộc lương
tâm
Đất nước lạ lùng
Những giọt mưa trên vùng đất khô cằn
Chân dung văn nghệ sĩ Việt...
Sài G̣n
của tôi sẽ trở lại…
Ông già
bán trứng
Melbourne: Kỷ niệm Chiến Thắng Long Tân
Câu
chuyện ngày xưa
Chiếc
Rolex ân nghĩa
Giở trang nhật kư, nhớ về bạn xưa
Nén hương
ḷng
Đám Cưới …chi lạ
Bông lúa
cúi đầu
Kỷ niệm 60 năm Quân Đội Úc tham chiến VN
Ngày vui khó quên
Cộng sản là thế đấy!
Nhiễm Virus
Corona 2019
GS Nguyễn Ngọc Huy & Lm Cao Văn Luận tiết lộ...
Xao
ḷng bởi một từ "Em"
Hiệp định Genève (20-7-1954)
Mơ ước
b́nh thường
Phi công Việt là anh hùng nước Pháp
Viết cho người sắp ra đi...
Đôi lời về Cung Tiến Nhạc Sĩ hay Kinh Tế Gia
?
Môt chuyến đi Hawaii
Vinh danh người vợ tù chính trị VNCH tại
Little Saigon
Cái miệng
Phá thai là giết
người
Cha tôi, người lính Việt Nam Cộng Ḥa
Những người năm cũ
Ngày tự phụ
Màu mắt
hoàng hôn
Paris
có ǵ lạ không em?
Không quên người chiến sĩ QLVNCH
Tản mạn Huế
Nước mắt chiều xuân
Nước mắt giữa
Trùng Dương
Cuộc đời & sự nghiệp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Người tù kiệt xuất
Câu chuyện về một lá thư
Ra biển gọi
thầm
Nỗi
buồn ngày 30 tháng tư
Tháng Tư....
Bài ca
của người du tử
Lời sau cùng nói với tuổi trẻ
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Hai người lính Dù
Văn Học miền Nam tự do 1954-1975
Xe tăng Nga làm được ǵ ?
Giă từ vũ khí
Giờ phút cuối cùng
Văn Quang, người vừa khuất nẻo Sài G̣n...
Những
tấm chân t́nh
An Lộc & Ukraine chiến trường lịch sử
Hải quân Ukraine chiến đấu
Trông gịng sông Vị
Ngày xa Đà Nẵng
Chuyện của một cựu binh Mỹ gốc Việt
Kư
hiệu học và "lơ là lơ láo"
V́ sao chiếc áo cần có 5 cúc ?
Duyên phận và mệnh số
Thu, hát cho
người và giai thoại
Thương về Ukraine
Liên hội BĐQ Texas mừng xuân Nhâm Dần 2022
Đời lính
Vinh quang trên chiến hào
Sự thành công của người Việt tị nạn
Một chuyến công tác Cam Ranh
Lá đại kỳ An
Lộc
Chém chết một người là kẻ sát nhân
Chuyện xưa của tôi và bạn bè kbc 4100
Sứ mệnh văn
hóa
Thư số 124a gởi NLQĐNDVN
"Người vợ" là một vĩ nhân
Tết với TPB VNCH và mong ước tuổi xế chiều
Khó quên cái Tết năm nào
Xuân Sang- Xuân Sến
Năm Cọp nói chuyện… Bia
Đêm xuân trên vùng biển chết
Thương chùm Hoa Khế
Tôi đậu bằng … lái xe !
Về ca
khúc "gái xuân"
Thức tỉnh
Tử sĩ Hoàng Sa
Hồi kư trận hải chiến Hoàng Xa
Khi bài thơ Hoàng Sa vượt vĩ tuyến 17 vô Nam
26
truyện thật ngắn
Tuổi già
viễn xứ
Nguồn gốc của cách nói “nam tả nữ hữu”
Chiến
dịch B́nh Tây
Trận hải chiến giữa HQ VNCH và HQ Trung Cộng
Truy lùng cục miền Nam trên lănh thổ
Kampuchia
10 địa danh nổi tiếng trong âm nhạc miền Nam
Trả lời vài câu hỏi về cuộc bại trận của
QLVNCH
Cậu bé chăn trâu trở thành đại điền chủ giàu
nhất
Lạc giữa
mùa xuân
Một Thoáng “AT ... TEN”