Tác giả: Lê Như Đức
Bài số 3502-16-29902vb6050115
Tác giả Lê Như Đức sinh tại Saigon năm 1962, hiện cư trú tại Tulsa,
Oklahoma. Nghề nghiệp: kỹ sư cơ khí, làm cho hăng Nordam, Oklahoma.
Học vấn: cao học. Gia đ́nh: vợ và ba con - hai gái, một trai. Ông
góp bài Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên và đă nhận giải bán kết 2001
với bài “Cây Chuối Sứ”. Sau đây là bài viết mới nhất.
* * *
- Đức nè, mày có về Việt Nam th́ lẹ lẹ đi chứ vài năm nữa tụi việt
cộng nó hiến nước ḿnh cho mấy thằng chệt là mày hết về luôn.
Liên gọi cho tôi. Bố Liên làm rất lớn trong đảng cộng sản VN. Sau
tháng Tư năm 75, gia đ́nh Liên là một trong những gia đ́nh cán bộ
gộc được gửi vô Sàig̣n sớm nhất. Bố Liên được cấp một căn biệt thự
to đường Duy Tân với đầy đủ đồ đạc do người chủ di tản để lại. Liên
chỉ học với tôi duy nhất năm lớp 10 trường Lasan Taberd rồi trường
bị giải thể v́ cứ bị học sinh ném lựu đạn cay. Chúng tôi mất liên
lạc từ đó. Tuy dân việt cộng thứ gộc nhưng Liên lại sớm giác ngộ hơn
ai hết. Có lẽ do ảnh hưởng của ông bố. Tôi nhớ có lần Liên tâm sự
với tôi:
- Ba tao tối nào cũng lén nghe nhạc vàng miền Nam ngày xưa. Tao hỏi.
Ông thở dài ngao ngán: Nhạc này mới là nhạc. Mới gọi là thưởng thức,
chứ nhạc ngoài kia toàn là thứ ǵ đâu. Mày biết có lần ông hỏi tao
tại sao họ ngu quá để đánh mất miền Nam. Tao cũng tiếc cho dân miền
Nam. Sàig̣n đẹp quá. Bỏ xa Hà Nội.
Tôi trả lời Liên:
- Nhạc của VC ngoài đó không phải là nhạc. Nó là cái ǵ đó mà chẳng
ai biết gọi là ǵ v́ nó không có tiếng gọi trong ngôn ngữ Việt Nam.
Có người gọi nó là hiếp dâm âm nhạc. C̣n lư do chính yếu mất miền
Nam, theo tao nghĩ là do kế hoạch của Ngũ Giác Đài quyết định bỏ
miền Nam chứ không phải tụi mày hay ho ǵ đâu. Mày cứ hỏi ba mày coi
tại sao quân miền Nam không được Bắc tiến mà cứ phải trải quân cố
thủ mọi nơi để cho tụi việt cộng tha hồ tập trung quân đánh. Rồi
nữa, mùa nước lũ, miền Bắc có con sông Hồng, đê cao hai chục thước.
Nếu máy bay B52 Mỹ thả dọc cái đê th́ cả miền Bắc ở dưới nước ba
thước. Quân miền Nam ngồi hút thuốc cũng thắng. Mày có biết tại sao
phi công Mỹ không được phép thả bom vào con đê của sông Hồng không?
Liên lắc đầu. Tôi tiếp:
- Tại v́ nếu miền Nam thắng. Trung cộng có cớ đánh Việt Nam th́ cuộc
chiến sẽ trở thành người Mỹ giúp dân Việt đánh Tàu phù chứ không
phải người Mỹ giúp dân miền Nam bảo vệ tự do, ngăn cộng sản. Các
cường quốc lúc nào cũng tránh đụng nhau. Mỹ tránh Tàu. Tàu tránh
Nga. Nga tránh Mỹ. Do đó chúng phải t́m trái độn để thử sức nhau.
Mày thấy Bắc Hàn và Nam Hàn cũng như vậy. Quân đội Nam Hàn rất hùng
mạnh. Muốn dập thằng Bắc Hàn chỉ vài ngày là xong. Nhưng Mỹ không
cho. Lúc nào cũng có hơn năm chục ngàn quân Mỹ đóng tại biên giới
Nam Bắc. Tiếng là pḥng ngừa hai bên đụng độ nhưng thật ra ai cũng
biết là sợ mấy ông Nam Hàn nổi điên vác quân qua Bàn Môn Điếm đập.
Lúc đó Trung cộng có cớ sẽ tràn quân qua giúp anh em Xă Hội Chủ
Nghĩa. Cuộc chiến sẽ biến dạng thành Mỹ giúp Hàn quốc đánh Trung
quốc. Cái này cả Ngũ Giác Đài lẫn Mạc Tư Khoa đều không muốn.
Sau này nhờ Internet và Facebook, Liên t́m được tôi và rủ về Việt
Nam. Tôi hỏi Liên t́nh h́nh trong nước. Liên nói:
-Ba tao nói chúng nó kư bán nước trong đại hội Thành Đô tháng 9 năm
1990 lâu rồi. Năm 2020 chúng sẽ giả bộ trưng cầu dân ư nên theo chệt
hay Mỹ. Dân bầu xong chúng cho thùng phiếu vào thùng rác rồi đưa
thùng khác trưng ra cho mọi người thấy hơn 99% dân đồng ư theo chệt.
Chúng sẽ ra lệnh cho quốc hội soạn thảo văn thư gửi cho Trung quốc
xin được làm một tỉnh. Thằng chệt sẽ giả bộ từ chối lần đầu ra đây
ta không thèm. Rồi chúng lại gửi văn thư khác năn nỉ thêm một lần
nữa. Thằng chệt sợ từ chối hoài làm mất ḷng người anh em môi hở
nanh lạnh nên đành đứt ruột miễn cưỡng gật đầu. Sau này lịch sử sẽ
không bắt tội đảng cộng sản của chúng bán nước v́ chúng nói cái này
là toàn dân nhất trí đồng ư b́nh bầu và quốc hội chỉ làm theo ư dân
thôi.
Tôi thở dài, không biết nói ǵ v́ nếu Việt cộng chơi cái chiêu dân
bầu quốc hội viết đơn xin th́ nước mất là cái chắc. Bốn mươi năm qua
chúng đầy đọa hành hạ người dân Việt Nam không biết bao nhiêu mà kể
giờ c̣n muốn bán nước luôn. Vừa tham, vừa hèn vậy mà cứ vỗ ngực tự
khen ta đây anh hùng, đánh thắng đế quốc Mỹ.
Trưa ngày 30 tháng 4 khi tiếng súng chấm dứt, anh em tôi đứng trên
lầu nhà chú ruột tôi trên đường Chi Lăng buồn bă nh́n những người
lính Việt Nam Cộng Ḥa cởi bỏ áo lính, mặc áo thun trắng cúi đầu
lặng lẽ đi dọc hai bên đường. Tôi c̣n thấy nhiều người hàng xóm âm
thầm leo lên mái nhà ḿnh giấu đồ có liên hệ tới chê độ cũ.
Đài phát thanh Sàig̣n ́ à vang lên giọng ca nhạt nhẽo của Trịnh công
Sơn với bài “Nối Ṿng Tay Lớn” thật mỉa mai.
Chiều hôm đó, đoàn quân mường mán, ngơ ngơ ngáo ngáo đi ngay chính
giữa con đường Chi Lăng để vào bùng binh Sàig̣n. Nh́n chúng nhe răng
cười toe toét, bố tôi thở dài than với anh em chúng tôi:
-Cậu tránh chúng tất cả ba lần. Cuối cùng cũng không thoát khỏi cái
giống khốn nạn này. Lần đầu bỏ làng trốn vào Hưng Yên được năm năm.
Rồi bỏ Hưng Yên trốn vào Nam được hai mươi mươi năm. Tính bỏ Việt
Nam đi Mỹ nhưng lại không thành.
Chỉ ngày hôm sau thôi, tôi thấy được những đổi ngược hoàn toàn không
những trong luân lư cổ truyền của dân tộc mà cả trong ngôn ngữ hằng
ngày nữa.
Cũng trên con đường Chi Lăng, tuần sau tôi được chứng kiến hai cô
gái bị chúng bắt tṛng cái bảng to ghi ba chữ “tôi làm điếm” trước
ngực rồi cho đám con nít kéo dây buộc cổ lôi đi. Cuối đám đông, một
tên cầm cái bảng ghi chiến tích chúng tóm được: “Mỹ Ngụy để lại hơn
một trăm ngàn điếm”.
Ông anh cả tôi nói nhỏ với tôi: “Phải t́m đường vượt viên chứ ở với
cái lũ vô học này th́ thà chết c̣n hơn”. Vô học cộng thêm vô thần
thành thứ vô liêm sỉ và vô lương tâm.
Để xoá bỏ những thành tích của chế độ Việt Nam Cộng Ḥa, các cán ngố
bầy tṛ đốt sách văn hoá đồi trụy. Bao nhiêu sách vở văn chương lẫn
khoa học đều được tịch thu, chất thành đống giữa đường rồi cho các
em thiếu nhi quàng khăn đỏ châm lửa đốt. Tôi c̣n nhớ trước khi đốt,
tên cán bộ ốm tong, đen thui như khúc củi, nhe hàm răng vẩu cầm cuốn
tạp chí có h́nh hai người hôn nhau đưa cao lên hét: “Đốt hết thứ văn
hóa đồi trụy này. Xem nè. Mỹ Ngụy nó đang…bú mồm”.
Dân Sàig̣n phải nhức đầu khi bệnh viện Từ Dũ chuyên khoa về sinh sản
bị đổi tên thành “Xưởng đẻ”. Đồng hồ tự động, được các đồng chí phán
thành đồng hồ không người lái, hai cửa sổ. Nhà vệ sinh nam, nữ bắt
viết lại thành “ỉa nam, ỉa nữ”. Bộ đội mở miệng ra là “hồ hởi, phấn
khởi” những “cụm từ kách mệnh” nghe thật “bức xúc” v́ nó “hiển thị”
một “sự cố” mà không thể “triển khai” mọi “phẩm chất” hầu “kích cầu”
hay “tiếp thu” được. Dân miền Nam cứ phải nghe những danh, động,
tĩnh và trạng từ quái lạ mà không có cả trong văn chương b́nh dân
lẫn ngôn ngữ dân gian. Để rồi cuối cùng, hiểu hay không hiểu, th́
Sàig̣n cũng phải mang tên con cáo (hồ) đuôi to (vĩ đại), xác bị ướp
lạnh.
Những câu ḥ t́nh tự, những bài thơ yêu đương, những văn phẩm trữ
t́nh nay trở thành văn chương hiện thực Xă Hội Chủ Nghĩa: “Vừa thấy
Đỉnh bước vào sân nhà ḿnh, cái Đẹp quẳng cái gánh hai thùng phân to
xuống, đáp ngay: Em muốn anh quản lư đời em. Thế anh có chịu tiếp
thu em không?”. Chuyện t́nh mà đọc cứ nghĩ như chuyện buôn bán phân
bón. Bốn mươi năm nay dù uống thuốc xổ liên tục, tôi cũng vẫn không
tiêu được cái văn phong “cách mạng lăng mạn” này được.
Nói theo đúng ngôn từ của các cán ngố là “giải phóng” làm dân Sài
thành “phỏng cả giá..”.
Để dậy các cán “giải phóng” học cách ăn nói của người văn minh thành
thị, dân miền Nam làm thơ, chế nhạc và viết vè cho các cán nghe
chơi. “Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lư. Đồng Khởi vùng lên mất Tự
Do”. Hai câu thơ trên đă nhanh theo những người vượt biên đi khắp
nơi trên thế giới v́ nó vừa thốt lên một thực trạng của hai con
đường nổi tiếng Công Lư và Tự Do bị đổi tên, vừa cay đắng nói lên
t́nh trạng nhân quyền trong nước của người dân bị chà đạp. Người
trong ngoài nước không ai không biết đến hay một lần nghe qua câu
thơ để rồi măi măi không quên cùng với bài vè “Cây đinh” để nói đến
t́nh trạng thiếu lương thực và kiểm soát chặt chẽ cái bao tử của
người dân:
“Ở với Hồ Chí Minh. Cây đinh phải đăng kư. Trái bí cũng sắp hàng.
Khoai lang cần tem phiếu. Thuốc điếu phải mua bông. Lấy chồng phải
cai đẻ. Bán lẻ chạy công an. Lang thang đi cải tạo. Hết gạo ăn bo
bo. Học tṛ không có tập. Độc Lập với Tự Do. Nằm co mà Hạnh Phúc”.
Không những dân miền Nam mà chính ngay những người lính bị Việt cộng
buộc “sinh Bắc, tử Nam” phải đau đớn than những tàn nhẫn của Việt
cộng gây ra. Anh lính Nguyễn Văn Được, 19 tuổi, của Đoàn 215 Đặc
công thủy bộ, đă lén viết lên một mẩu giấy bao thuốc Nam Định: “Dép
râu dẫm nát đời son trẻ. Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai”.
Muốn thâu tóm tất cả các sĩ quan của chế độ cũ vào các trại cải tạo,
nhà nước Việt cộng dùng cái chiêu lưu manh lừa đảo rẻ tiền. Đầu tiên
họ ra thông cáo hạ sĩ quan và lính chỉ học ba ngày và học ngay địa
phương ḿnh đang ở. Sau ba ngày họ thả những binh lính cũ về để làm
mồi nhử các sĩ quan ra tŕnh diện. Sau đó họ ra thông cáo cho những
sĩ quan đi học tập mười ngày. Mọi người tới nơi tập trung tại các
trường học. Tối hôm đó xe tải tới chở tất cả vào rừng sâu để thanh
lọc. Một số lớn bị đày ra Bắc, sống trong rừng hơn hai mươi năm.
Ngoài các sĩ quan Việt Nam Cộng Ḥa, có một số không nhỏ cũng vào
các trại cải tạo để học tập tốt, hầu hiểu biết hết những nghị quyết
của “kách mệnh”. Ông chủ tiệm phở Hiền Vương ở cuối đường Duy Tân là
một thí dụ điển h́nh. Ngày xưa ông ỷ có chút ít công giúp đỡ cho một
số đồng chí đặc công nằm vùng ven đô. Khi đóng cửa tiệm v́ giá gà
tăng lên vùn vụt, ông làm một cái bảng thật to dán ngay trước cửa
tiệm nói rơ lư do đóng cửa. Ông được công an thành xuống mời đi giữa
đêm khuya.
Sau hơn hai năm học tập tốt, ông được thả về. Ông thấu hiểu được câu
châm ngôn “thứ nhất ngồi ĺ, thứ nh́ đồng ư” nên kể từ đó ông không
nói năng ǵ dù chỉ là một lời không đáng chi. Gà để dành bồi dưỡng
cho cán bộ cao cấp mà ông c̣n muốn nấu cho nhân dân xơi, kiếm lời
kiểu tư sản mại bản th́ thật là không hiểu công ơn của đảng một chút
xíu nào cả. Lại c̣n bầy đặt viết giấy tuyên truyền chọc quê chính
sách nhà nước dán trước cửa.
Bỏ tù các sĩ quan xong, bước kế là vẹm t́m cách tống người dân ra
khỏi thành phố để chiếm nhà bằng chương tŕnh kinh tế mới, thủy lợi
và thanh niên xung phong. Thanh niên xung phong đi thủy lợi, đi xây
dựng những khu kinh tế mới để người dân tự nguyện hiến nhà trong
thành phố cho các cán rồi thanh thản chui vào rừng sâu an nhàn sung
sướng hoà ḿnh sống với lư thuyết cộng sản.
Nghe đảng ca ngợi các công tŕnh thủy lợi dắt nước vào nông trường
cải tạo đất phèn và thanh niên xung phong cất nhà lá cấp cao trong
khu kinh tế mới mà toàn dân phát thèm, đều nhường nhau và đẩy nhau
đi trước. Được vài tháng sau, gia đ́nh nào cũng tự động xung phong
về lại thành phố.
Bà Thu trong xóm tôi sống bằng nghề bán đậu hũ nấu đường mỗi tối.
Gia sản bà chỉ có cái gánh chè bán đậu hũ và cái cḥi nhỏ dựng bên
hông nhà của một người di tản tháng tư. Căn nhà người di tản được
cấp cho đồng chí Ba Kiếm, trưởng công an phường. Bà Thu sinh sống,
ăn ngủ, tắm rửa và nấu đậu hũ trong một diện tích không quá sáu mét
vuông bên hông nhà đồng chí cấp cao trông không đúng tinh thần vô
sản chút nào cả. Do đó bà bị kết tội tiểu tư sản, làm ăn cá thể nên
phải đi “kinh tế mới” để hông nhà đồng chí cán bộ không có tụi tư
bản phản động ḍm ngó.
Những đổi thay ngu muội, những oan khiên tù đày, những lừa bịp tham
lam chiếm của cướp đất đă đẩy người dân Việt t́m đường vượt biên cho
dù biết được chỉ có một phần ba sống sót, theo ước tính của Cao Ủy
Liên Hiệp Quốc.
“Cái cột đèn nếu có chân cũng phải bỏ nước ra đi”. Một thuyền nhân
đă trả lời phóng viên đài BBC một câu nói lịch sử khi lên án chế độ
cộng sản tại Việt Nam sau năm 1975.
Theo thống kê của Red Cross th́ khoảng 750,000 thuyền nhân và hơn
50,000 người đi đường bộ thành công. Như vậy hơn 1.6 triệu người đă
bỏ xác trong biển Đông và trong rừng Cam Bốt khi đi t́m tự do. Không
một dân tộc nào liều ḿnh chết cho tự do như dân Việt Nam.
Trong cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789 chỉ có 40,000 người chết
mà người ta đă phải than: “Tự do, tự do. Người ta đă nhân danh mày
mà phạm bao nhiêu tội ác”. Vẫn hai chữ “Tự do”, bốn mẫu tự, cướp mất
1,600,000 sinh mạng của người dân Việt. Vậy mà giờ đây có nhiều
người vẫn chưa thấy được họa cộng sản, c̣n muốn bắt tay hy vọng
chúng thay đổi.
Tôi vượt biên bẩy lần. Lần thứ năm tôi bị thị đội Vũng Tầu bắt nhốt
rồi đưa vào trong rừng B́nh Ba, đất Long Khánh cải tạo bốn tháng.
May mà mẹ tôi t́m được mối chạy năm cây vàng cho bà đại tá thanh tra
công an toàn miền Nam nhận làm cháu bảo lănh về cải tạo tại gia để
“thị đội” thả tôi về Sàig̣n.
Trong tù vượt biên tôi biết được nhiều chuyện cười ra nước mắt.
Chuyện đi tù của bác Vị làm tôi cứ mỗi lần nghĩ tới bác là không
nhịn được cười. Bác Vị bỏ xứ Quảng nghèo đói để vào Vũng Tầu kiếm
sống sau khi vợ bác mất. Xui cho bác là ngay cái ngày bác đáp xe đ̣
vào th́ công an miền Trung đánh điện vào Vũng Tầu báo cáo sẽ có một
nhân vật chỉ huy phục quốc vào Vũng Tầu để xây đựng hạ tầng cơ sở.
Nhân vật này có ba đặc điểm rất dễ nhận diện cho dù trong bến xe đ̣
đông người: đi một ḿnh, da đen và thấp người. Bác Vị bị Ba Giao,
trưởng pḥng công an, nhận diện khi bước xuống xe đ̣.
Bác Vị bị thị đội tó ngay. Sau hai năm biệt giam và bị tẩm quất tới
thổ cả máu tươi không tra ra được ǵ, bác được cho ra ở với đám tù
vượt biên chúng tôi. Bác Vị kể: Tao hỏi Ba Giao có thấy thằng nông
dân nào da trắng không? Ăn không đủ làm sao không bé người? Vợ tao
mới chết th́ có con nào nó khùng mới lấy cái thằng nghèo xác nghèo
xơ không nhà cửa như tao? Mà nó có muốn lấy, tao cũng không dám v́
tao nuôi thân tao chưa xong th́ sao dám lấy ai? Vậy mà nó cũng không
tin. Nó c̣n hỏi sao đi có một ḿnh? Tao tức quá hoá liều nên trả
lời: vợ chết th́ đi một ḿnh chứ đi cặp với vợ mày hả? Nó lại đánh
tao tiếp.
Tôi hỏi bác Vị sao chúng tại chịu tin bác, không tra tấn bác nữa.
Bác trả lời: Th́ bị đánh tao đau quá, tao ức nên cứ khai tầm bậy tầm
bạ chơi. Tao cứ cho chúng một số tên công an ngoài miền tao ở. Nó
gọi ra trung báo cáo. Công an ngoài đó nói đó là cán bộ bí thư quận
hay phường trưởng. Bị vài vố, chúng không tin những ǵ tao khai nữa,
nhưng ít đánh hơn. Một hôm, phúc đáo tâm linh, tao nghĩ ra nên nói
với Ba Giao là nó phải ăn mừng nếu tao thật là nhân viên chỉ huy
phục quốc. Nó hỏi tại sao? Tao nói nhân viên chỉ huy mà chỉ học tới
lớp năm, không biết đọc bản đồ, không biết ăn nói thuyết phục th́
chỉ huy ai. Phục quốc sẽ chẳng làm ǵ được cả nếu có người chỉ huy
như tao nên phải ăn mừng là đúng rồi. Nó nghe lọt tai nên đổi tao từ
tù phục quốc thành tù vượt biên để khỏi báo cáo bắt lầm người. Thật
ra đánh tao hoài cũng chán, chả có được ǵ. Tao đâu c̣n thịt nữa đâu
mà đánh.
Việt cộng muốn có nhiều vàng hơn nên tổ chức bán chính thức cho
những người muốn ra đi mà không sợ bị bắt tội vượt biên. Tiếng là
cho những người Việt gốc Hoa hồi hương nhưng thật ra ai có tiền đóng
là thành Hoa kiều ngay. Tôi được đổi tên thành Lư Phu Tŕnh, xuống
Rạch Giá rồi vào Tắc Cậu vượt biển qua Mă Lai.
Sau chín tháng sống trong trại tỵ nạn Mă Lai Paulo Bidong hay Buồn
Lo Bi Đát, anh chị em tôi tới định cư tại thành phố Houston, bang
Texas năm 1980. Được tổng thống Reagan kư cho học bổng với tiền mượn
học nhẹ phân lời, phần lớn các sinh viên thời đó vào các đại học Mỹ
học ngành kỹ sư cho lẹ. Tôi chọn ngành học tôi thích, kỹ sư cơ khí,
v́ gia đ́nh tôi chuyên nghề dệt. Từ nhỏ tôi đă thấy máy móc và dính
dầu nhớt đầy người.
Sau này tôi mới thấy may mắn hơn v́ ngành cơ khí dễ xin được làm
contract hơn các ngành khác. Làm contract được trả lương gấp đôi,
làm overtime th́ được tính 1.5 lương. Làm direct ngày hôm nay không
c̣n lợi như xưa v́ hầu hết các công ty hủy bỏ lương hưu (pension).
Đă vậy nhiều hăng c̣n bắt làm free nữa. Tôi vừa đi làm contract, vừa
mở hăng riêng để không bị các công ty môi giới ăn chận.
Gần ba mươi năm sống và làm trên đất Mỹ, tôi thấy người Việt ḿnh
tài giỏi và chăm chỉ vô cùng. Năm xưa tôi đang làm cho chương tŕnh
trạm không gian quốc tế (International Space station) th́ được hăng
Boeing gửi qua California để mang toàn bộ chương tŕnh phi thuyền
con thoi (Shuttle) về Houston sau khi Boeing mua lại phần hành không
gian của hăng Rockwell. Tôi được quyền vào coi tất cả những tài liệu
và thấy tên người Việt rất nhiều. Ngoài những họ lớn như Lê, Lư,
Nguyễn, Trần, Phạm, Trương.. tôi c̣n thấy cả những họ lạ như họ
Thạch, họ Phí. Có thể nói các kỹ sư Mỹ gốc Việt đă có đóng góp không
ít cho phi thuyền con thoi. Riêng trạm không gian quốc tế th́ nhiều
hết biết. Tôi thấy cả kỹ Đức gốc Việt, Pháp gốc Việt nữa. Nh́n về cố
quốc nghĩ mà đau ḷng, chế cái xe gắn máy cũng không được.
Trong khi chuyển tiếp tài liệu và hồ sơ về Houston, có một kỹ sư Mỹ
gốc Tàu tên Greg Chung làm cho Rockwell hơn hai mươi năm chuyển qua
làm cho nhóm tôi. Greg Chung ăn cắp hết tài liệu về Shuttle và Space
Station gửi về Tàu cộng. Ngoài ra không biết làm sao mà Greg ṃ vô
được cả chương tŕnh phi đạn Delta 4 của Boeing ăn cắp tài liệu nữa.
Tôi bị phiền hà rất nhiều v́ chỉ có account của tôi mới có thể vào
cả ba chương tŕnh: shuttle, space station và Delta 4. Tôi lại là
dân Asian.
Greg Chung bị bắt và xử 15 năm tù (muốn biết thêm về Greg xin vào
Google đánh tên Greg Chung). Trước mặt quan ṭa, Greg la lên “Tôi có
làm ǵ sai đâu. Tôi yêu nước này mà”. Nhưng Greg sợ quá nói lộn.
Greg chỉ yêu Trung quốc thôi.
Sau này mỗi khi làm với kỹ sư gốc Tàu, tôi thường để ư thấy họ hay
bị dính vào cái bánh vẽ “Một nước Trung Hoa Lớn” của đảng cộng sản
Trung quốc như Greg. Tôi giả bộ chửi tư bản Mỹ là họ dính kế tôi
chửi theo ngay. Lúc nào họ cũng muốn làm nước Mỹ tan nát hầu đưa
Trung quốc lên số một.
Có một lần tôi hỏi Jerry Hou, một anh Tàu du học xong xin được ở lại
Mỹ làm như Greg Chung:
- Tại sao anh không xin về Tàu làm để xây dựng đất nước? Anh cứ ở Mỹ
rồi chửi tư bản Mỹ ác độc là làm sao? Anh xin vào quốc tịch Mỹ để
làm ǵ? Anh đưa tay tuyên thệ trung thành với đất nước này xong quay
qua chửi nó. Anh đă gian dối với chính lương tâm cùa anh.
Ai mà chả muốn nước ḿnh mạnh, dân ḿnh giàu. Nhưng t́m cách hại và
ăn cắp tài nguyên của nước khác th́ quá hèn mạt và vô lương tâm.
Chửi tư bản nhưng cứ bám lấy tư bản để moi tiền là đặc tính cố hữu
của người cộng sản. Tham lam, độc ác và ngu dốt là bản chất ruột của
công an và chính quyền vô sản. Tuyên truyền dối trá, áp dụng chính
sách ngu dân và thắt chặt cái bao tử người dân là chính sách để trị
của Mác Xít Lê Nin Nít.
Tôi không biết lịch sử sau này sẽ phê phán cựu tổng thống Nguyễn văn
Thiệu ra sao. Tuy nhiên chỉ câu nói bất hủ của ông: “Đừng nghe những
ǵ cộng sản nói mà hăy nh́n kỹ những ǵ cộng sản làm” đủ để cho ông
xứng đáng đứng vào hàng ngũ lănh đạo chống họa cộng sản.
Tôi rời hăng Boeing một phần cũng v́ vụ Greg Chung. Cũng may chương
tŕnh phi đạn Delta 4 không thành công mấy làm mấy cái phi đạn của
Trung cộng bắn lên cũng x́u x́u ển ển theo bác Mao lao xuống ḷng
đại dương. “Thiên bất dung gian” mà nị.
* * *
Thấy tôi ngần ngừ măi không trả lời, Liên chán nản:
- Chắc mày cũng thấy ba tao nói đúng. Nước ḿnh sẽ mất vào tay mấy
thằng chệt rồi.
Tôi bừng tỉnh, trả lời Liên:
- Cũng chưa chắc đâu. Trung cộng trông giàu mạnh chứ thật ra như nằm
trên thùng thuốc nổ. Sự phân chia giàu nghèo trong xă hội ngày càng
cách xa nên bất măn ngày càng tăng. Luật lệ th́ tù mù, đảng nói sao
cũng đúng. Cướp đất của nông dân rồi đến cướp nhà công nhân. Nền
kinh tế dựa trên độc tài, dối trá và tham nhũng th́ chẳng bao lâu
cũng loạn. Chỉ cần một nhóm lửa nhỏ khơi lên, Trung quốc sẽ trong
biển lửa. Tàu cộng nát, th́ việt cộng tan. Hội nghị Thành Đô vô
thùng rác. Thế cờ sẽ khác. Tao sẽ về nước thăm mày.
- Nếu được như vậy th́ may cho nước ḿnh. Khuya rồi mày đi ngủ đi.
Tao đi làm đây.
Sáng hôm sau, tôi mở Facebook ra, Liên viết gửi tôi bài thơ Việt
kiều với lời nhắn:
- Tao lén đọc được bài thơ này trên internet nên gửi tặng thằng bạn
vượt biên của tao.
Ngày đi, đảng gọi “Việt gian”,
Ngày về th́ đảng chuyển sang “Việt kiều”.
Chưa đi: phản động trăm chiều,
Đi rồi: thành khúc ruột yêu ngàn trùng.
Lê Như Đức
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
42 năm t́nh
cảm đồng môn
42 Năm T́nh
Chúc mừng hội ngộ
Tôi và Tiểu Đoàn 7
TQLC
Thơ gửi Đại Gia
Dấu ấn vào đời
USA 20 năm và Tôi
Hăy c̣n đó niềm
tin
Pleiku và hoài
niệm
Kư sự
những ngày tháng 2
Một mảnh đời
Xuân quê hương
Một chuyến về
thăm nhà
Tết đến
Một buổi
chiều, hai người già
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Về từ Tân Cảnh
Cô đơn và ước mơ
Trên đồi cao
Phạm Thị
Thàng - Nữ anh hùng đất G̣ Công
Bạn cũ năm mươi năm
Hương xưa ngày ấy
Đại Bàng gẫy cánh - F5
Sự thật đời tôi / Trung Tướng Trần Văn Minh
Thèm
Sao chổi
Đừa con dâu
Đại đội 17 "Hoàng Gia" 1
-
2
Sau cuộc biển dâu
Những người lính Dù
Tiễn nhau ngàn dặm cũng chia phôi
Tấm Poncho
Người bạn học và
ông thầy cũ
Mối hận ngh́n trùng!
Những mùa Trung Thu
Tấm ảnh hai người
lính
Tin quan trọng gửi
đến các anh em TPB ở Việt Nam
Chim bay về biển
Văn chương
Việt Nam và chữ “Y”
Hạnh phúc và bất hạnh
Chữ "Tín"
Nếu ngày ấy...
Thuận An
Thôi ! Ḿnh
về Linh Xuân Thôn, đi em !
Văn hoá phương Nam
Thức tỉnh
Sự xâm lăng văn
hóa của việt cộng
Tác giả
“Những Đồi Hoa Sim” đă chết trên đồi hoa sim
Hành trang và lư
tưởng
Góp nước miếng
húp chung
Đêm chờ sáng 1975
Thuốc lào trong tù....
Người chồng một đêm
Khóa 8 B+C/72
SQTB/Thủ Đức họp mặt
Trở về cố hương
Trôi theo ḍng đời
Ngộ chiêu
T́nh người
trong cuộc chiến
Khóc bạn
Cư An Tư Nguy
Con c̣n nợ ba
Không Quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Những
người chiến sĩ đáng hănh diện
Nắng chiều vẫn đẹp
Hạnh phúc vẫn
long lanh
Con Trâu đâu có cải tạo
Nhớ nhà
Bác sĩ trong tù
Nhà bốn anh em
Tháng Sáu và Tôi
Chuyện về một cô gái
Chuyện một người mang tên Nguyễn Thị Di Tản
Cái giường đôi
Ưu việt nhất !!!
Hậu nhân trả lời VC
Huỳnh Tấn Mẫm
Chúng tôi vẫn sống
Bọt không cần vớt
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa, Chuyện kể từ đầu
Làm sao để chôn hai Chế Độ?
Cà-phê lính
Cuộc trùng phùng
bi thảm
Tuổi trẻ nghĩ ǵ ?
Tiển con
Nhớ anh linh Anh
hùng Nguyễn Ngọc Trụ
40 năm nhớ về
C̣n đó niềm đau
Viết cho con cháu
Tưởng nhớ bác Thái Văn Kiểm
Người bạn thân
Người già cả, người bệnh tật
Người tỵ nạn và
Việt kiều
Sự ra đi
của hai vị Tướng Tư Lệnh
Nhạc Sĩ Thục Vũ
Câu chuyện
của Nguyễn Thị Thái Ḥa
Một thoáng Pleiku
Bạn đồng môn khóa 2 CSQG
Quân đội bị quên
lăng của Việt Nam Cộng Hoà
Nhạc sĩ Lê
Trạch Lựu và bài hát Em Tôi
Bắc Kỳ
Văn chương trào
phúng truyền khẩu
Mậu Thân Huế – Nhân chứng sống
Kỷ niệm với Hồ Ngọc Cẩn
Điều c̣n lại sau
40 năm
Thương
Tiếc những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù
Anh là áng mây trôi
Tâm thức
người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc
Rợp bóng cờ
Trên núi Hoàng Liên
Kư ức mùa Xuân
Để tưởng niệm một
người Anh
San Jose, năm hết tết
đến
Valentine trong di sản Chiến Tranh
T́nh như gió thoảng
Thằng Thời
40 năm cuộc sống người thương phế binh VNCH
Ăn Tết thôn quê
Hạt bụi nào trong mắt
Giọt nắng cho người
Gặp tướng Ngô Quang Trưởng Lần Cuối Cùng...
Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam VN
Quê Hương, chùm khế ngọt
Quả tim người tử tù
Anh hùng Ngụy Văn Thà
Người ở lại Hoàng Sa
Trận Hoàng
Sa, biểu tượng hội tụ ḷng yêu nước
Ngày 19-01: Tưởng Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Em gái hậu phương Dạ Lan là ai?
Hồi kư Việt Nam
Để nhớ một thời áo trận
Con dao xếp trong ngày Tết Tây
Người về từ Đại Dương
Lễ Tưởng Niệm Tử
Sĩ Hoàng Sa
Lăo Mốc
Lên núi t́m chồng
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013
Bài vở cũ 2012