DTDB
Em ra đời mùa thu năm đó, vào ngày rằm tháng tám Âm lịch. Đem so với
ngày dương lịch đúng y chang trong tờ giấy khai sanh của em. Mẹ
thường kể cho cả nhà nghe, vào những lúc vui hay là ngày mừng em
sinh nhựt:
- Nằm trong nhà bảo sanh mẹ nghe tiếng hò, tiếng hát, reo vui của
thiếu nhi. Cùng tiếng phèng la, tiếng chiên trống múa lân của đoàn
dâng cộ đèn mừng Tết Trung Thu, hay Tết Nhi Đồng của nước ta thuở
đó, vào thời Việt Nam Cộng Hòa. Theo lẽ mẹ đặt cho con cái tên là
Thu, là Nguyệt, là Hằng, là Nga, là Thu Nga, là Thu Hằng, là Nguyệt
Thu hay Thu Nguyệt… Mới đúng nghĩa với ngày sanh tháng đẻ của con.
Nhưng lần về thăm đâu hai tháng trước khi con ra đời. Lúc ra đi, ba
đưa cho mẹ phong thư, bảo chừng nào làm khai sanh thì dở ra xem. Ba
đã đặt tên cho con cái tên rồi!
Mẹ em chép miệng trầm ngâm một hồi, tiếp:
- Quê hương mình chinh chiến triền miên. Ba con theo đơn vị đóng
quân mãi ở miệt rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ… tận Cà Mau lận. Tội
nghiệp ba, biết khoảng giữa tháng đó đứa con đầu lòng chào đời, mà
ông hằng mong đợi nhưng vẫn không ở nhà được, để nghe “Con khóc oa,
oa… khi lọt lòng mẹ. Còn ông bà, họ hàng thì cười tươi vui mừng đón
con…”
Em lớn khôn dần trong vòng tay mẹ, và tình thương yêu vô bờ của hai
đấng sanh thành. Ba em là lính chiến luôn xa nhà, cả trong những mùa
Trung Thu là ngày ra đời con gái cưng của mình, mà ông cũng ít khi
có dịp về nhà vui với vợ con...
Rồi mùa Trung Thu năm em vào học lớp Năm (lớp một) của trường nữ
Tiểu học Trưng Vương. Ngôi trường nữ, hai tầng có vách tường, mái
ngói màu gạch tôm, khang trang nằm trên đường ông bà Nguyễn Trung
Long (Mỹ Tho) ra bến bắc Rạch Miễu qua sông có nhiều cồn nhỏ, cồn
lớn… Cồn Ông Đạo Dừa, rồi đi về tỉnh Bến Tre.
Địa phận tỉnh Định Tường có Thành phố Mỹ Tho, nổi tiếng hiền hòa nằm
mơ màng trên dòng sông Cửu Long… Mà những câu hò, câu hát bình dân
khen ngợi ở nhiều khía cạnh nào đó về thành phố khá ái nầy.
“Mỹ Tho đẹp lắm, đi tắm Cầu Dầu
Anh hỏi em đang ở nơi đâu?
Để cha mẹ anh đến cau trầu cưới em…”
“Mỹ Tho có kẹo hột điều
Có cô thôn nữ mỹ miều dễ thương
Ai về Chợ Cũ, Trung Lương...
Hồng đào chín mộng, có đường mạch nha
Đêm thu đẹp ánh trăng ngà
Mái chèo dưa đẩy qua nhà thăm em…”
Miệng truyền miệng trong dân gian, là câu: “Đèn Sài Gòn ngọn xanh
ngọn đỏ/ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu/ Anh về học lấy chữ nhu/ Chín
trăng em đợi, mười thu em chờ…”
Ở xứ mình, thường tiệm buôn bán trong các chợ, chủ nhà ở phía sau,
hoặc trên lầu, còn phía trước, mặt tiền thì bày hàng để buôn bán.
Mỗi năm, cứ vào cuối tháng sáu, đầu tháng bảy Âm lịch là thành phố
Mỹ Tho trong các cửa tiệm thấy rõ rệt màu sắc tươi vui rộn ràng. Bởi
các dãy phố tiệm ở chợ gần như đều trưng bày bán các loại bánh Trung
Thu. Họ còn treo bán đầy đủ các loại lồng đèn giấy màu sặc sỡ, có vẽ
thêm hoa, bướm hoặc những nét đặc biệt lên hình dáng mỗi thứ lồng
đèn như: Đèn kéo quân, đèn cá chép, đèn con rồng, đèn ngôi sao, đèn
máy bay, đèn xe tăng, thiết giáp, đèn tàu, đèn chuồn chuồn, đèn trái
bí, đèn xếp…
Bánh trung thu thập cẩm có bốn trứng, ba trứng, hai trứng, một trứng
hột vịt muối để trong nhưn có lạp xưởng, thịt khô, vi cá… đó là
những bánh mặn. Còn bánh trung thu thập cẩm chay không có thịt và
hột vịt, bánh nhưn đậu đỏ, nhưn mứt… Cùng bánh dẻo nhưn mứt, nhưn
đậu xanh…
Riêng em thích nhứt vẫn là bánh ông Địa. Chắc là bánh có hình dáng
như ông Địa trên bàn thờ nên gọị là bánh ông Địa? Trên đầu bánh còn
có sợi chỉ đỏ dài. Bánh ông địa ăn ngọt, giòn thơm mùi trái vị, ngũ
vị hương, mùi quế… rất đặc biệt.
Trong dãy phố công chức đó, có nhà của gia đình em ở. Vào tối mười
ba, mười bốn, rằm tháng tám là trẻ con đốt lồng đèn cầm chạy chơi
quanh xóm. Nhà nhà treo lồng đèn trong nhà ngoài ngõ, hương khói
nhang, mùi bánh trung thu thơm tho cúng ở bàn thờ Ông Thiên, cùng
mùi trà Tàu, hoa, quả… thơm lừng phảng phất trong gió thoảng bay.
Em vui vẻ tung tăng chạy nhảy, theo đuôi các bạn quanh quẩn trước
sân của năm bảy căn nhà quen biết sát bên, ở trong xóm chớ không dám
đi xa hơn. Vì mẹ đã căn dặn em từ mấy ngày trước:
- Tối con được đốt lồng đèn chơi trong vài nhà gần. Để khi mẹ gọi
thì nghe mà lên tiếng… Không được đi xa, mẹ gọi, con không nghe để
trả lời thì sẽ có đòn nghe chưa…
Em vâng dạ nghe lời, vì không phải mẹ em không có lý do… Bởi gần đây
giặc giã càng sôi động… Đêm đêm Việt cộng thường pháo kích ầm ầm vào
thành phố… Đạn pháo vô tình tàn phá nhà cửa, thây phơi, máu đổ…
khiến sanh linh đồ thán, trời sầu, đất thảm… Và từ đó tuổi thơ em
sớm nhuốm màu chinh chiến!
Đã hai mùa Trung Thu rồi, bận rộn ba em không về! Vì đoàn quân ba em
trấn giữ, chặn thù… khi ở Vị Thanh, Cờ Đỏ (một địa danh ở mền Tây),
khi Tịnh Biên, Đồng Tháp Mười nơi nổi tiếng “đỉa lội như bánh canh”.
Còn thường trực ở chỗ có “muỗi kêu như sáo thổi” và nhiều con vắt…
Đó là rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ… Bởi ba em là lính chiến thuộc
Sư Đoàn 21/BB, còn có biệt danh là Sét Miền Tây.
Hôm nay, từ chạng vạng thì phố xá đã lên đèn… Tiếng hát vang vang
rền vọng, tiếng chiên trống lân giục giã trên các nẻo đường của
thành phố, làm lòng dạ em nôn nao, náo nức lắm… Mấy đứa cùng xóm đến
trước rào nhà, rủ rê nhập bọn đi dâng cộ đèn, hoặc cầm đèn qua nhà
chúng chơi.
Nhưng nghe lời má dặn, và nhớ ba em muốn khóc! Em lắc đầu xua tay
nguầy nguậy có ý bảo với chúng là em không đi. Ba em đang dãi dầu
ngoài trận tuyến! Với những người lính chiến như ba thì làm sao có
ngày lễ. Cho dù là lễ Tết hay phép thường niên cũng vậy, ít khi được
như ý… Ba em chợt đi, chợt đến ghé thăm nhà bất ngờ không hẹn trước.
Đêm nay các nhà trong xóm đều đốt lồng đèn trước cửa. Hương trầm,
bánh, trái, hòa với mùi thơm của nước trà Tàu… ấm cúng mừng đón
Trung Thu. Riêng nhà em lạnh lẽo vắng tanh! Má không buồn đốt đèn dù
là đèn điện. Chiều đi học về sau khi ăn cơm, má còn căn dặn em:
- Con ra sân đốt lồng đèn chơi một mình, đừng đi đâu nghe… Nhà mình
ba không về nên đêm nay không có mừng Trung Thu… Ít bữa ba về mình
sẽ ăn Trung Thu muộn, nghe con…
Em cầm lồng đèn đi tới đi lui trong sân nhà với chú mèo tam thể,
“meo, meo…” tiếng kêu, quấn quít bên chân em. Gió hiu hiu mát rượi,
đưa đẩy cây lệ liễu hông nhà, làm những cành lá tha thướt lay động
lồng bóng trăng tròn. Trăng rực rỡ tỏa ánh sáng thanh thoát xuống
muôn loài…
Em nghe trẻ hàng xóm trước nhà hát những bài Trung Thu:“…Đêm Trung
Thu em đốt đèn đi chơi… Em đốt đèn đi khắp phố phường… Đèn Ông Sao
với đèn cá chép, đèn thiên nga với đèn trái bí…”
Và em còn nghe anh chị con nhỏ Bạch Nhạn nhà bên cạnh hát ca líu lo.
Khiến em ganh tị thấy mắc ghét lắm! Em cũng biết hát vậy chớ bộ!
Liền rống họng, em cất tiếng hát lanh lảnh, cố tình cho tụi nó ngán
chơi:
“Hôm nay đêm rằm, rằm là rằm tháng Tám? Ông Trăng kia đã lên cao rồi
ông nhìn chúng em ông tủm tỉm cười! Ông Trăng ơi, nầy ông Trăng ơi,
xuống đây với chúng em cùng vui chơi! Ông Trăng ơi nầy ông Trăng ơi,
Xuống đây chúng ta cùng ca hát vang trời… Có chi nữa không? Có trống
ếch cà lùng tùng xèng… Có chi nữa không? Có bánh ngọt thơm phưng
phức… Có chi nữa không? Có những đèn Trung Thu ở miền Nam tự do, ấm
no hạnh phúc… ông Trăng ơi! Ông Trăng ơi, xuống đây với chúng em
cùng vui chơi… Xuống đây chúng ta cùng ca hát vang trời… ông Trăng
ơi… nầy ông Trăng ơi, ơi…”
Tiếng vỗ tay lớn và nhanh, làm em ngạc nhiên quá đỗi! Mèn ơi, ai mà
vỗ tay khen tặng em dữ vậy cà? Chắc chị anh mấy con nhỏ hàng xóm chớ
gì? Còn khuya à, chúng nó ganh tị chẳng thèm nghe em hát, thiếu điều
muốn bịt hai cái lỗ tai lại nữa kìa. Chớ ở đó mà chúng vỗ tay khen
em hát…
Sừng sững lồng dưới ánh trăng rằm lộng lẫy! Người lính chiến hiên
ngang, oai phong đứng đó! Ông mặc bộ trây-di màu cỏ úa, đầu đội nón
sắt, và trên thắt lưng cây súng nhỏ… Giầy sô cao ống bám bụi đường
xa, mùi nắng cháy khen khét quen thuộc… trìu mến nhìn em mỉm miệng
cười! Rồi ông hơi khum lưng xuống, đưa hai tay đón chờ…
Thảy cái lồng đèn dưới sân, em phóng tới ôm chầm thật chặt lấy ba.
Hôn tứ tung lên mặt, lên mũi, lên ngực, lên áo ba… Giọng em rộn
ràng, vui mừng và ơi ới gọi lớn:
- Mẹ ơi, mẹ ơi ba về! Ba về, ba về mẹ ơi…
Trong nhà nhanh chân bước ra tới hàng ba. Mẹ nhìn hai cha con em nở
nụ cười mà mắt hoen dòng lệ hạnh phúc.
Đèn điện nhà em được thắp sáng! Lồng đèn treo hai bên cửa trước,
trong nhà, và sân sau được ba châm lửa đốt đèn cầy. Ánh lửa dạ giấy
màu, hồng, vàng, tím xanh… tươi trẻ, vui mắt. Trong nhà má lúi húi
nấu nước châm trà, cắt bánh Trung Thu… Em vui mừng chạy qua mẹ, rồi
chạy sang ba… Em ôm cổ ba, nói cười líu lo như con chim chích chòe
vào buổi bình minh… Và nhà em, những nhà trên trần thế được thắp
sáng ánh trăng vàng của đêm Trung thu.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam bị giặc cưỡng chiếm! Năm đó trẻ
con chúng em không có lễ Trung Thu! Ba em bị bắt tù cải tạo… Nhà cửa
em trống trơn vì phải bán lần, bán hồi các đồ vật trong nhà… Rồi má
em đi bán chợ trời… Đó là kế sinh nhai duy nhứt của mẹ con em, và
chắt chiu dành dụm để dành đi thăm nuôi ba.
Những năm về sau, vào đêm rằm tháng tám không ai còn nghe tiếng hát
hò, trống múa lân của đoàn dâng cộ đèn nữa. Chợ búa không có bánh
trung thu bày bán tự do khắp nơi như xưa. Có chăng họ chỉ làm chui,
bán lén… vì đó là mặt hàng xa xí phẩm! Thành phố em ở nhà nhà xác
xao, cửa đóng then gày dưới ánh trăng thu dìu dịu hắt hiu buồn!
Những đứa nhỏ hàng xóm sống gần nhà em thưa dần, vì chúng theo gia
đình về quê ngoại, quê nội, hoặc đi kinh tế mới… Và em không có đèn
lồng trái bí dễ xếp cất, dễ đốt mẹ mua cho như những năm qua!
Sau bao nhiêu năm giặc chiếm miền Nam. Là bấy nhiêu năm ba em bị
giặc nhốt trong tù cải tạo! Hôm nay không định trước, mẹ dắt em đi
thăm ba, lại lọt đúng vào ngày rằm của mùa Trung Thu.
Mẹ con em vượt qua biết bao nhiêu chặng đường lồi lõm có khi đi bằng
xe hơi. Có lúc lội bộ, có lúc bằng xe tàu mo, đò chèo… Khi thì mẹ
gánh em ngồi trong thúng bên đầu gióng nầy, đầu gióng kia chất chồng
đồ ăn, áo quần cũ, thuốc men.
Mẹ con em đi từ một hai giờ khuya đến chiều tối ngày sau mới đến
nơi! Khi đến trại tù thì đã quá giờ thăm nuôi. Nên mẹ con em và một
vài bà khác cũng đi thăm nuôi chồng con. Những kẻ lỡ bước chúng em
được chủ vườn ở gần trại tù (cách mấy cây số) tốt bụng cho ngủ trong
trại ruộng của nhà họ.
Tối đó, mọi người lỡ đường vùi mình vào đống cỏ khô dưới nền đất sét
nứt nẻ, thiếp đi vì mệt mỏi… May mà cả đêm qua trời không mưa, nhưng
gió núi tê tái lạnh lùng. Hai mẹ con em nằm chèo queo một góc trong
tại ruộng không vách, không phên.
Em nhìn trăng qua nhiều lỗ trống không trên mái chòi. Trăng rằm lên
cao, càng lên cao ánh trăng càng sáng vằng vặc. Sương khuya xuống mờ
đỉnh núi và chập chờn trên dải đồi mờ ảo xa xa. Tiếng côn trùng về
đêm, hòa cùng tiếng dế tỉ tê… Những con chim ăn đêm bay qua ẩn hiện
mịt mờ, kêu oang oác trên trời cao… Tiếng gió hú qua đồi làm xào xạc
nhành cây lá chung quanh, khiến em sợ hãi rúc vào lòng mẹ.
Để rồi sáng dậy ra mặt, tay, chân… người nào cũng đầy vết muỗi cắn.
Bầy muỗi đêm qua được ăn bữa giỗ no nê! Chúng thiệt là ác độc, nỡ
đành hút máu của những kẻ lỡ đường ngủ trong trại ruộng!
Mẹ em lồm cồm ngồi dậy khi nghe vẳng tiếng gà gáy trong xóm xa… Bà
sửa soạn lại túi nải chờ rạng đông đi vào trại tù thăm chồng. Bỗng
bà thấy hai bóng đen lù lù xuất hiện khi mờ khi tỏ trong màn sương
sớm. Càng lúc họ đến càng gần… mẹ em sợ quá gọi mấy người kia thức
dậy, để cùng đối phó nếu rủi gặp kẻ xấu, hoặc chuyện không may!
Họ càng đến gần trời cũng sáng thấy rõ hơn… Thì ra là hai người
thanh niên đi giỡ bẫy chim, chuột, gà rừng… Nói chuyện một hồi thì
mấy bà cùng mẹ con em vào nhà cha mẹ họ là chủ trại ruộng nầy để xin
nước uống…
Mẹ em nhớ lại đã bao nhiêu năm rồi mới đi thăm nuôi chồng. Ba đói
khổ lắm, mẹ liền cởi chiếc nhẫn cưới bằng vàng 18K đang đeo trên
ngón tay áp út ra. Đó là di vật sau cùng của ba tặng bà trong ngày
đính hôn! Má đem đổi lấy con gà giò (gà mới lớn nhổ lông xong, còn
hơn nắm tay) và lít gạo trắng của chủ nhà… Rồi mượn nồi niu của họ
làm gà rô ti và nấu nồi cơm còn nóng hổi đem cho ba em!
Bao nhiêu năm tù tội…Đến bây giờ vợ, chồng, con mới gặp lại nhau! Má
em khóc sướt mướt chẳng nói nên lời! Ba ôm em vào lòng nghẹn ngào
thổn thức… Ba trông thật tiều tụy, ông ốm gầy, tay chân lỏng thỏng,
mặt mày hốc hác, mắt hõm sâu, da đen chì, mét chẹt, nắng cháy nám
đen… Chân tay ghẻ chốc, thẹo vít chỗ lành, chỗ lở…
Ba em già quá nhiều! Nếu bất ngờ gặp ngoài đường không ai nói, chắc
em sẽ không nhận ra, và sẽ không tin tù nhân đó chính là cha của
mình! Em xót xa thương ba vô cùng, ôm chặt ba nức nở khóc òa…
Gần hết giờ thăm nuôi, mẹ đưa cho ba tất cả đồ đem theo, trong đó có
con gà được chặt ra làm bốn và nồi cơm đầy… Ba em múc hết nồi cơm,
cạo lấy luôn cơm cháy, đưa nồi không còn dính một hột để chút nữa
đây trên đường về má em ghé trả lại người cho mượn. Ba lấy hai cục
thịt gà (nửa con) đưa cho má và em.
Mắt ba u buồn và rưng rưng dòng lệ mỏng. Ông nhẹ giọng bảo:
- Em và con đem theo ăn, trên đường về. Chắc con và em đói khổ lắm?
Thôi mẹ con về đi, anh sẽ giữ gìn sức khỏe. Đường quá xa xôi, khó
khăn đừng… đừng có lên thăm nữa…
Má em nước mắt dâng tròng, lật đật lấy gà để trở vào gói cho ba, mếu
máo:
- Ở nhà không gì vất vả cả, chỉ lo cho anh thôi. Anh đem gà vào ăn
đi. Mẹ con em tới bến xe sẽ mua ăn, thiếu gì đồ ăn họ bán…
Dáng ba thất thểu đi vào trại tù… Và cửa tù từ từ kéo đóng lại! Mẹ
em nát dạ tan lòng đứng nhìn theo, rồi lủi thủi dắt con ra về… Vừa
đi bà vừa lau dòng lệ đau thương lã chã chảy dài xuống má. Còn em
nước mắt cũng trào tuôn…
Đường về nhà em còn xa xôi lắm, lại gặp cơn nắng cháy, mưa sa! Hai
mẹ con không ai nói với ai lời nào, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng
của mình… Trong đầu óc thơ ngây bé nhỏ của em lúc bấy giờ! Ba em
ngày xưa là sinh viên trường Luật. Bởi “Đất nước lâm nguy/ Thất phu
hữu trách” Ba em học nửa chừng thì vào quân ngũ. Ba em có giành dân
lấn đất hay cướp giựt của họ đâu! Vậy thì ba em có tội tình gì? Phải
chăng tội ông làm bổn phận người trai trong thời loạn vì an nguy của
gia đình và bảo toàn lãnh thổ? Giờ đây họ bắt nhốt trong tù nơi xa
xôi hiểm trở? Để ba em và đồng đội đau không thuốc uống, đói không
có ăn, lạnh không đủ ấm! Lại bị nhốt trong vùng hoang dã đìu hiu đi
cả ngày không thấy bóng người như thế nầy?
Mẹ con em đã đi gần đến tối mà vẫn chưa đến nhà. Giờ đây em vừa khát
và mỏi mệt cả tứ chi. Em kêu đói bụng, mẹ chép miệng bảo:
- Ráng nhịn về nhà sẽ có đồ ăn, vì mẹ chỉ còn đủ tiền để đi xe thôi.
Lúc nãy mẹ định bới cơm cho ba, còn miếng cơm cháy mẹ con ăn cho đỡ
dạ đi về. Nhưng thấy ba vét sạch nồi cơm nên mẹ làm thinh! Tội
nghiệp ba ở trong tù đói khát nhọc nhằn lắm con ơi…
Nói đến đó, mẹ em nghẹn lời sụt sùi dòng lệ khổ! Về đến nhà, em
không sao ngủ được. Hoàn cảnh trại tù, ba em và đồng đội của ông bị
hành hạ đọa đày cứ lởn vởn trong đầu óc thơ dại của em. Từ đó nỗi
hờn oán nhen nhúm ngày càng lớn trong tâm hồn em: “Không bao giờ!
Phải, không bao giờ em quên, và tha thứ cho những kẻ đã đày đọa ba
em, và những đồng đội của ba em…”
Vào rằm tháng tám năm sau, em thẫn thờ ngồi bên cửa sổ vò võ nhìn
bầu trời cao rộng, trong sáng ánh trăng thu! Và con mèo tam thể dễ
thương đó, vẫn cào, kéo lai quần em. Nó chạy nhảy tung tăng, kêu
“meo, meo…” giỡn trăng như để làm vui lòng cô chủ nhỏ.
Thấy em buồn, má cũng chẳng vui gì hơn! Một lúc sau, bà tìm ra cái
lồng đèn trái bí mấy năm trước đã cũ mèm, giấy dán đổi màu và bị
chuột cắn tưa mấy lỗ. Nhớ lại lâu lắm rồi, em đã cẩn thận nhét cái
lồng đèn đó dưới chót, ở trong thùng tập vở, sách truyện, và báo cũ
của ba em.
Đã mấy mùa Trung Thu qua đi, ba em vẫn chưa được thả về. Em lơ là
nhìn cái lồng đèn nghe chừng xa lạ, mà cảm thấy lòng xao xác héo hắt
buồn loang! Làm sao em vui được khi ba em còn bị đày nơi rừng sâu
Việt Bắc, nơi nổi tiếng rừng thiêng, và nước độc! Nước độc đến nỗi,
từ bờ suối bên nầy, lội qua bờ suối bên kia thì lông chân bị rụng
hết! Ở đó họ chỉ uống được nước mưa. Và có khi đi cả mấy tháng trời,
cũng không thấy bóng sơn nhân, hay lâm nhân…
Em lại càng xót xa đau buồn nhức nhối hơn! Mỗi khi em bắt gặp nửa
đêm trở giấc, nghe mẹ khóc lén, khóc thầm!
Thế nhân dù có buồn vui! Nhưng đêm nay trăng thu vẫn ngạo nghễ lên
cao. Càng lên cao, trăng càng trải ánh sáng ngà ngọc xuống muôn
loài. Gió thu vẫn nhè nhẹ man mác và mây thu vẫn bàng bạc bay bay về
phương trời vô định... Những cánh chim đêm thu, in chập chờn trên
không gian rồi hối hả bay đi… Chúng như ngầm hiểu nỗi thống khổ đoạn
trường của con người theo vận nước nổi trôi! Và cảm thông trời miền
Nam tự do ấm no dã không còn nữa… Cả loài chim muông mà còn biết
buông tiếng kêu áo não, như oán, hờn, trách, hận...
Sau khi ba em được thả về, gia đình đùm túm theo thuyền chài vượt
biển Đông! Mười mấy ngày lênh đênh trên biển cả, gió dồn, sóng dập,
đói khát thảm thê. Tưởng chừng cả gia đình dìm dưới mồ huyệt lạnh
của đại dương rồi…
Hành trình vượt biên trùng trùng hiểm nguy thừa chết thiếu sống! Nhờ
Ơn Trên, rồi gia đình em cũng trôi giạt vào Nam Dương (Indonesia)
quần đảo với những thuyền nhân chung chuyến tàu.
Sống lang thang từ đảo nầy qua đảo khác: Pacikata, Terrempa, Ku Ku,
rồi Galang (Trung tâm tị nạn Cộng sản vùng Đông Nam Á) Tại trại tị
nạn Galang, nếp sống của người tị nạn Cộng sản có quy củ và khá hơn
về nhiều mặt. Nhứt là vấn đề y tế! Nơi đây có trường học dạy Anh
văn, có nhà thương, có nhà thờ, có chùa, có bệnh viện… Có văn phòng
Cao ủy tị nạn làm việc, để nhận người vào đệ tam Quốc Gia… Và nhiều
tiệm buôn bán gia dụng nấu ăn của dân bản xứ… Dần dà có quán phở,
quán hủ tíu, quán nhạc, quán cà-phê, quán sinh tố…
Galang là một trong những hòn đảo đẹp của Nam Dương. Chùa được cất
trên đồi cao gần các dãy trại, để dân tị nạn dễ dàng chiêm ngưỡng và
cúng bái. Ngôi chùa khang trang có nhiều tượng phật cao lớn hơn
người… được tàu và trực thăng chở đến… Phí tổn của ngôi chùa nầy,
nghe đâu do các thương gia ở Nam Dương và Singapore góp gom để xây
cất…
Sáng sớm và chiều tối nào em cũng theo ba má lên chùa. Vì trên chùa
gió mát, và đôi khi em được các sư cho trái cây hoặc bánh, kẹo… của
bá tánh đã cúng Phật. Ở đảo đói khát thấy mồ, em thèm đủ mọi thứ.
Hôm nào được đồ ăn dư của Phật thì em mừng húm! Em nghĩ bụng đồ ăn
thừa của Phật sẽ được phước đức (và má em cũng nói như vậy)
Đi lên sau chùa chừng hơn trăm thước cao nữa. Phóng tầm mắt nhìn,
chúng ta có thể thấy rõ bốn hướng của biển cả mênh mông vô bờ, vô
tận… Em hạnh phúc đứng bên ba má em nhìn hoàng hôn xuống.
Buổi hoàng hôn, mặt trời ráng màu đỏ nghệ như quả trứng gà, treo lơ
lửng trên nền trời nhiều mây có vân ngũ sắc ở hướng tây. Nắng vàng
trải trên mặt thủy triều bao la xanh ngát một màu. Ánh nắng lung
linh chấp chóa lúc mây tạnh gió yên. Vào những buổi sáng mờ sương,
biển thanh thoát và hiền dịu vô cùng… Mặt nước lăn tăn gợn sóng theo
từng đợt gió đùa… Nền trời trong như ngọc, lác đác từng làn mây
trắng mỏng như nằm bất động có pha những sắc màu rực rỡ do những tia
nắng bắn ra từ mặt trời cao ngạo vừa nhú lên ở phương đông. Rồi
sương mờ dần tan, chỉ trong chốc lác thôi… Biển tịnh yên, mặt biển
xanh lơ, và vầng hồng rạng rỡ cho nắng ấm, gió the the man mác lay
nhẹ chòm lau, khóm đước và hòa cùng lá thông reo tạo ra âm thanh êm
ả dễ chịu vô cùng…
Hải âu xoãi cánh bàng bạc loang loáng trong ánh bình minh… “Chim én
không làm thành mùa xuân/ Nhưng có chim én mùa xuân thêm phần ý
nghĩa” Ở chốn hải đảo nầy, em xin nói lên thiển ý của mình rằng:
“Nếu biển cả không có cánh hải âu thì biển cả mất đi phần thi vị”.
Có hôm dưới mái hiên chùa, em phóng tầm mắt nhìn trời biển động! Gió
thổi vùn vụt, cây cối ngả nghiêng. Sấm ầm ầm, sét nổ giòn, những tia
chớp sáng lòe lên rồi phụt tắt! Mưa nặng hột tầm tã ào ào. Biển nộ
cuồng từng cột sóng dâng cao như muốn đảo lộn càn khôn! Thật dễ sợ
cho sự nổi trận lôi đình của Thủy Long Vương trong lòng biển cả(?)
Em ngồi co ro, chợt nhớ câu: “Đời không đau khổ đời vô vị/ Biển
chẳng phong ba, biển chẳng hùng”.
Ba em khéo tay làm cho em cái lồng đèn trái bí bằng lon nhôm coca
cola, trong mùa Trung Thu ở trên hải đảo Galang. Lon nhôm sau khi
rửa sạch, lau khô, ba em kiên nhẫn dùng nhiều cục đá có cạnh nhọn,
bén… Ông đục từng đường dài, nhắm sao cho ngay và đều… Ba ngồi cả
ngày trời tẳn mẳn đục, chà cạnh cho hết bén… Rồi nhẹ tay bóp cho
những cọng lon nhôm cong (không gãy) mà ông đã bỏ không biết bao
nhiêu cái lon nhôm. Bị xuể tay, rướm máu mới làm được một cái lồng
đèn trái bí, tạm vừa ý cho con gái mình!
Thuở đó gần cuối năm 1979, đảo Galang có mấy chục ngàn người dân tị
nạn Cộng sản, đại đa số là từ miền Nam Việt Nam. Họ bôn đào khi miền
Nam bị Cộng sản và Việt cộng cưỡng chiếm!
Chiều đến cầm lồng đèn trái bí ba làm cho. Lòng em tươi vui phơi
phới như hoa nở mùa xuân. Len ten theo bọn trẻ con, em đi dâng cộ
đèn vòng vòng trong các trại do những anh chị hướng dẫn.
Ôi hải đảo phủ ánh trăng thanh thoát giữa vùng mây nước, có tiếng
sóng biển bủa rạt rào, tiếng gió vi vu hòa cùng tiếng hát mừng Trung
Thu vang dội, rền vọng ngút trời xanh… Của những đứa trẻ đã cùng gia
đình trốn chạy khỏi vùng Cộng sản để đi tìm phương trời tự do…
Đêm Trung Thu đó, chúng em được ăn nhiều bánh kẹo, uống nước trái
cây thơm ngọt, từ các nhà hảo tâm của xứ người chở đến cả tàu, cả xe
đến tặng. Họ còn đem cho cả lồng đèn làm đủ kiểu hình thù các con
vật… được sơn phết, dán giấy, vẽ, tô đẹp đẽ, màu sắc rực rỡ, chói
lộng hấp dẫn và quyến rũ vô cùng…
Nhưng em không nhận đâu, bởi ba đã làm cho em lồng đèn trái bí bằng
lon nhôm rồi. Em quý cái lồng đèn nầy hơn tất cả mọi lồng đèn trên
thế giới, trong mùa Trung Thu. Bởi cái lồng đèn trái bí bằng lon
coca làm thành đó, ngoài tốn nhiều công sức, còn là tâm ý và gói
ghém cả tình cha thương con của ba em…
Mùa Trung Thu ở trại tị nạn Cộng sản Galang, khắc ghi đậm nét trong
đời, và cho em niềm nhớ không nguôi… và làm hành trang em mang theo
trong ký ức trên khắp quãng đường lưu lạc.
Đã mấy mươi năm ở xứ người… Ba má em vất vả nuôi dưỡng chăm lo cho
em học hành đỗ đạt nên người… Ngày nay em đã thành nhân, ông bà có
cháu ngoại để bồng bế thương yêu, nuông chiều…
Và thời gian thắm thoát trôi mãi trôi, nay ba má em đã ngoài tám
mươi! Ông bà ở tuổi “Bát thập cổ lai hy” Cái tuổi dễ bịnh hoạn, và
gần đất xa trời! Em buồn đau thắm thía trong lòng, mỗi khi nghĩ đến!
Nhưng phải làm sao đây? Vì đó là định luật của tạo hóa, mà trót sanh
ra làm kiếp con người thì kẻ trước, người sau không một ai tránh
khỏi!
Rồi ngày đó cũng đã đến, một mất mát lớn cho gia đình! Má em đã qua
đời! Giờ đây, đêm đêm em luôn nguyện cầu, xin Ơn Trên cho ba em ăn
ngon, ngủ khỏe… Và em cố gắng làm mọi thứ để ba được an ổn tâm hồn,
vui vẻ hạnh phúc trong thời gian ngắn ngủi còn lại bên cháu con!
Dẫu biết rằng, trong cuộc đời có đầy dẫy hỉ, nộ, ái, ố… thăng trầm,
dâu bể, phế hưng… Nhứt là trên quê hương khốn khổ Việt Nam của em
sau ngày Cộng sản và Việt cộng chiếm đóng! Giặc đã mang nền giáo dục
(ở mọi khía cạnh, mọi phương diện) của làn sóng đỏ từ ngoài miền Bắc
tràn vào miền Nam. Hoàn cảnh xã hội miền Bắc mấy mươi năm theo chế
độ Cộng sản. Đã gây và ảnh hưởng tác hại mọi mặt, tâm lý, cách sống,
đời sống… Đã thấm nhuần, và ăn sâu trong tâm hồn, trong máu huyết
của con người từ trong gia đình, ra ngoài xã hội. Với những điều
nghịch lý, giả nhân, giả nghĩa, lừa bịp, dối gian, tính toán, tinh
ma… Đã xẩy ra hàng ngày với cha con, anh em, bạn bè… thì nói chi đến
tình nghĩa vợ chồng…nặng nợ nước non…
Vì thế, những đổ vỡ của gia đình nhan nhản xẩy ra hàng ngày trước
mắt, và khắp nơi… không sao đếm cho xuể! Khuôn ngọc thước vàng từ
nghìn xưa ông cha ta để lại “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” dưới
chế độ Cộng sản vô thần, giờ đây đã bị thui chột, vô nghĩa hết rồi!
Thì thử hỏi xã hội Việt Nam ngày nay làm sao không rối bời? Và quê
hương đất nước Việt Nam làm sao không nát tan, không bị chia năm xẻ
bảy… hiến dâng cho ngoại bang!
Hôm nay là ngày rằm tháng Tám, đã vào chánh mùa Trung Thu. Em đẩy ba
ngồi trên xe lăn chầm chậm rẽ vào chợ (vì cả hai chân ba đều yếu).
Vùng gia đình em tạm cư, có rất nhiều chợ Á Đông. Cả tháng nay, tiệm
nào cũng bán đầy dẫy bánh trung thu.
Bánh trung thu đủ loại ở địa phương, nội địa sản xuất… và bánh từ
các nước khác nhập vào. Bánh trung thu nằm phơi phới trong các hộp
vẽ hoa bướm màu sắc tươi trẻ rực rỡ. Các hộp đều có nắp đậy bằng
kiếng, nhìn thấy rõ bánh bên trong… gợi thèm cho khách vào ra chợ.
Em nghĩ, năm nay các bánh được làm từ nước Tàu Cộng, Việt Cộng chắc
hẳn ít ai dám rớ tới? Vì lợi ích riêng, họ không nghĩ đến sức khỏe
của người tiêu thụ, đã dùng quá nhiều hóa chất … Ăn vào dễ, lấy ra
khó, sẽ hại cho thân thể, và có khi còn chết người!
Ba em nhìn từng hộp bánh… trong tủ kiếng. Ông lựa rồi chỉ tay, muốn
mua một hộp bánh Trung Thu có trứng, và lấy thêm hộp bánh dẻo nữa.
Nhà em ngoài ba, chỉ có hai vợ chồng em và hai đứa nhỏ (nhưng chúng
không thích bánh trung thu) Ai cũng sợ ngọt, nên chắc chắn sẽ ăn
không hết… Chỉ cần mua một hộp, hai bánh nầy, hai bánh kia đủ rồi.
Nhưng em lấy cả hai hộp bánh người bán đặt vào bao xách, máng trên
xe cho ba vui lòng. Ba em chỉ hai chiếc lồng đèn treo trên vách. Em
nghĩ chắc ba mua cho hai cháu ngoại… Trả tiền xong em định đẩy ba đi
ra, nhưng ông chỉ thêm cái lồng đèn trái bí, làm em ngạc nhiên nhìn
ba?
Ông nhìn em mỉm cười, trìu mến:
- Ba mua lồng đèn trái bí cho con! Nhớ thuở con còn bé nhỏ thích
chơi đèn Trung Thu với đám trẻ con trong xóm… Năm đó đi lính xa, bất
ngờ được về thăm nhà trong đêm Trung Thu. Ba đứng sau lưng cả buổi
mà con không hay! Khi thấy ba, con phóng tới ôm chầm thật chặt như
sợ ba vuột mất... Rồi con mừng rỡ, líu lo gọi mẹ báo tin ba về…
Mắt già nua trắng dã, ba em cảm động nghẹn lời! Ông tiếp:
- Ba mua bánh về cúng má, lúc sanh thời bả ưa bánh Trung Thu và bánh
dẻo lắm… Cho dù con gái ba bây giờ tuổi đời có lớn hay già đi nữa,
nhưng trong mắt ba lúc nào con cũng còn nhỏ bé! Và tình thương con
trong lòng ba càng ngày càng lớn vô bờ, vô tận con ơi!
Em dang đôi tay ôm chầm lấy ba! Hôn lên trán ba em, mà mắt rưng rưng
dòng lệ kính yêu và hạnh phúc thổn thức ngập cõi lòng!
Em may mắn được sanh ra trong miền Nam! Em diễm phúc được thừa hưởng
rất nhiều, rất nhiều thứ mà chỉ ở miền tư do dưới Chánh thể Cộng Hòa
mới có… Em đã nghe được câu nói của ai đó, để riêng mình thẩm thấu
và nghiệm thấy rằng: “Trên cõi đời nhiều hệ lụy khổ ải nầy, có hai
người đàn ông để cho em kính nể và yêu thương nhứt. Đó là ba em và
chồng em!”
Đường phố đã lên đèn, nhưng ánh trăng thu rực rỡ cao ngạo, thanh
thoát áp chế ánh đèn đường vàng võ. Cha con em dừng lại bên lề nhìn
đoàn múa lân dẫn đầu, các thiếu nhi dâng cộ đèn náo nhiệt đi qua.
Trên đất nước tự do, các em vô tư, thảnh thơi, mặt mày hớn hở nhịp
nhàng cất tiếng hát vang vang: “Đêm Trung Thu em đốt đèn đi chơi/ Em
đốt đèn đi khắp phố phường/ Đèn ông sao với đèn trái bí/ Đèn xe tăng
với đèn cá chép…Em đốt đèn đi khắp phố phường…”
California, Tệ xá Diễm Diễm Khánh An
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Tập truyện ngắn “Xứ Lạ Tình Quê”
ĐT: (530) 822 5622
Email: dtdbuon@hotmail.com
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
42 năm tình
cảm đồng môn
42 Năm Tình
Chúc mừng hội ngộ
Tôi và Tiểu Đoàn 7
TQLC
Thơ gửi Đại Gia
Dấu ấn vào đời
USA 20 năm và Tôi
Hãy còn đó niềm
tin
Pleiku và hoài
niệm
Ký sự
những ngày tháng 2
Một mảnh đời
Xuân quê hương
Một chuyến về
thăm nhà
Tết đến
Một buổi
chiều, hai người già
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
Còn nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
mình
Hai hình ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành trình
của 5 ngày tìm về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện tình trái
ngang
Khối diễn hành
Bãi tập
Lễ mãn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
Tình Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
Vì hai chữ Tự Do
Nghìn trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Về từ Tân Cảnh
Cô đơn và ước mơ
Trên đồi cao
Phạm Thị
Thàng - Nữ anh hùng đất Gò Công
Bạn cũ năm mươi năm
Hương xưa ngày ấy
Đại Bàng gẫy cánh - F5
Sự thật đời tôi / Trung Tướng Trần Văn Minh
Thèm
Sao chổi
Đừa con dâu
Đại đội 17 "Hoàng Gia" 1
-
2
Sau cuộc biển dâu
Những người lính Dù
Tiễn nhau ngàn dặm cũng chia phôi
Tấm Poncho
Người bạn học và
ông thầy cũ
Mối hận nghìn trùng!
Những mùa Trung Thu
Tấm ảnh hai người
lính
Tin quan trọng gửi
đến các anh em TPB ở Việt Nam
Chim bay về biển
Văn chương
Việt Nam và chữ “Y”
Hạnh phúc và bất hạnh
Chữ "Tín"
Nếu ngày ấy...
Thuận An
Thôi ! Mình
về Linh Xuân Thôn, đi em !
Văn hoá phương Nam
Thức tỉnh
Sự xâm lăng văn
hóa của việt cộng
Tác giả
“Những Đồi Hoa Sim” đã chết trên đồi hoa sim
Hành trang và lý
tưởng
Góp nước miếng
húp chung
Đêm chờ sáng 1975
Thuốc lào trong tù....
Người chồng một đêm
Khóa 8 B+C/72
SQTB/Thủ Đức họp mặt
Trở về cố hương
Trôi theo dòng đời
Ngộ chiêu
Tình người
trong cuộc chiến
Khóc bạn
Cư An Tư Nguy
Con còn nợ ba
Không Quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Những
người chiến sĩ đáng hãnh diện
Nắng chiều vẫn đẹp
Hạnh phúc vẫn
long lanh
Con Trâu đâu có cải tạo
Nhớ nhà
Bác sĩ trong tù
Nhà bốn anh em
Tháng Sáu và Tôi
Chuyện về một cô gái
Chuyện một người mang tên Nguyễn Thị Di Tản
Cái giường đôi
Ưu việt nhất !!!
Hậu nhân trả lời VC
Huỳnh Tấn Mẫm
Chúng tôi vẫn sống
Bọt không cần vớt
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, Chuyện kể từ đầu
Làm sao để chôn hai Chế Độ?
Cà-phê lính
Cuộc trùng phùng
bi thảm
Tuổi trẻ nghĩ gì ?
Tiển con
Nhớ anh linh Anh
hùng Nguyễn Ngọc Trụ
40 năm nhớ về
Còn đó niềm đau
Viết cho con cháu
Tưởng nhớ bác Thái Văn Kiểm
Người bạn thân
Người già cả, người bệnh tật
Người tỵ nạn và
Việt kiều
Sự ra đi
của hai vị Tướng Tư Lệnh
Nhạc Sĩ Thục Vũ
Câu chuyện
của Nguyễn Thị Thái Hòa
Một thoáng Pleiku
Bạn đồng môn khóa 2 CSQG
Quân đội bị quên
lãng của Việt Nam Cộng Hoà
Nhạc sĩ Lê
Trạch Lựu và bài hát Em Tôi
Bắc Kỳ
Văn chương trào
phúng truyền khẩu
Mậu Thân Huế – Nhân chứng sống
Kỷ niệm với Hồ Ngọc Cẩn
Điều còn lại sau
40 năm
Thương
Tiếc những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù
Anh là áng mây trôi
Tâm thức
người lính Nhảy Dù trong cõi vô sắc
Rợp bóng cờ
Trên núi Hoàng Liên
Ký ức mùa Xuân
Để tưởng niệm một
người Anh
San Jose, năm hết tết
đến
Valentine trong di sản Chiến Tranh
Tình như gió thoảng
Thằng Thời
40 năm cuộc sống người thương phế binh VNCH
Ăn Tết thôn quê
Hạt bụi nào trong mắt
Giọt nắng cho người
Gặp tướng Ngô Quang Trưởng Lần Cuối Cùng...
Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam VN
Quê Hương, chùm khế ngọt
Quả tim người tử tù
Anh hùng Ngụy Văn Thà
Người ở lại Hoàng Sa
Trận Hoàng
Sa, biểu tượng hội tụ lòng yêu nước
Ngày 19-01: Tưởng Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Em gái hậu phương Dạ Lan là ai?
Hồi ký Việt Nam
Để nhớ một thời áo trận
Con dao xếp trong ngày Tết Tây
Người về từ Đại Dương
Lễ Tưởng Niệm Tử
Sĩ Hoàng Sa
Lão Mốc
Lên núi tìm chồng
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013
Bài vở cũ 2012