Andrew Wiest
Trước hết xin cho phép tôi được tri ân hội Ái Hữu Người Việt Quốc
Gia Hải Ngoại đă mời tham dự biến cố tuyệt vời này, và chúng tôi
cũng muốn đặc biệt cám ơn ông Lê Tinh Thông v́ ông đă bỏ nhiều công
sức thực hiện cuộc hội thảo.
Tôi xin được tự giới thiệu là Andrew Wiest, dạy môn “Lịch sử Chiến
tranh Việt Nam” tại Đại học Southern Mississipi. Tôi chào đời năm
1960, là vào thời điểm cuối của thế hệ “nhi đồng hậu Thế chiến II”
tại Hoa Kỳ. Do đó, tôi c̣n quá trẻ để phục vụ trong cuộc chiến Việt
Nam, nhưng cuộc chiến ấy vẫn hiện diện quanh tuổi trưởng thành của
tôi, nhất là trên các đài truyền h́nh. Tôi rất muốn học hỏi về cuộc
chiến ấy, nhưng các trường từ trung học đến đại học không có nơi nào
dạy môn đó cả.
Lịch sử và nhân dân Hoa Kỳ h́nh như đều muốn quên lăng trận chiến và
những người chiến đấu trong chiến tranh đó.
Sau đấy, tôi học môn lịch sử quân sự trong đại học, và chuyên ngành
về Thế chiến I. Nhưng tôi cũng kín đáo tự học hỏi về cuộc chiến của
thế hệ chúng tôi: Chiến tranh Việt Nam. Để hiểu thấu đáo bí mật này,
năm 1997, tôi t́nh nguyện giảng dạy một lớp về Chiến tranh Việt Nam.
Như có thói quen trong các lớp ḿnh dạy, tôi mời một số cựu chiến
binh trong trận chiến đến diễn thuyết cho sinh viên. Những câu
chuyện họ kể khiến cho tôi xúc động sâu xa. Tôi học được thêm về
trận chiến Việt Nam, nhưng vẫn thấy thiếu sót cái ǵ đó, cho nên vào
năm 2000, tôi đem một số cựu chiến binh và sinh viên sang tận Việt
Nam để học về cuộc chiến ở ngay tại hiện trường.
Tuy nhiên, trong chuyến du hành đó, một việc rất bất ngờ đă xảy ra.
Tại Huế, tôi gặp ông Phạm Văn Đính, cựu sĩ quan của Quân lực Việt
Nam Cộng Hoà, một người đă từng oanh liệt chiến đấu trong nhiều năm,
để rồi năm 1972 phải đầu hàng cùng cả đơn vị bị vây hăm trong trận
Tấn công mùa Phục sinh "Easter Offensive" [ta gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa].
Và bản thân ông th́ chạy qua bên địch.
Khi trở về Hoa Kỳ, tôi gặp ông Trần Ngọc Huế, cũng là cựu sĩ quan
Quân lực Việt Nam Cộng Hoà và chiến hữu của ông Đính. Tuy nhiên,
thay v́ đầu hàng, ông Huế lại cùng đơn vị chiến đấu đến cùng khi bị
địch quân vây hăm trong chiến dịch Lam Sơn 719 tại Lào năm 1971. Ông
Huế bị giam 13 năm trong trại tù cộng sản, thêm sáu năm quản thúc
tại gia trước khi được đi qua Mỹ.
Với tôi, việc hai người là bạn thâm giao từng chiến đấu bên nhau,
lại có hai kết cục quá khác biệt, là một bí mật nữa cần được giải
đáp. Tôi sang Việt Nam để t́m hiểu về cuộc chiến tranh của người Hoa
Kỳ, nào ngờ lại t́m thấy một cuộc chiến của người Việt Nam.
Sau đó, tôi bắt đầu t́m ṭi và nghiên cứu tất cả những ǵ tôi thấy
về miền Nam Việt Nam và trận chiến của họ, nhưng phải chấp nhận một
sự thật phũ phàng là ḿnh gần như không t́m thấy ǵ nhiều về những
điều muốn biết. Vai tṛ của Việt Nam Cộng Ḥa trong trận chiến hầu
như làmột sự vô h́nh với Tây Phương. Và tôi ư thức được là tôi đă có
một dịp may lớn. Lấy cuộc đời của hai ông Đính và Huế làm tâm điểm,
tôi quyết định sẽ làm những ǵ có thể làm được hầu điều chỉnh quan
điểm lịch sử sai lầm và thảo lại lịch sử của Quân lực Việt Nam Cộng
Hoà. Sau sáu năm nghiên cứu và biên soạn của tôi, nhà “New York
University” cho xuất bản cuốn “Một Quân đội bị Lăng quên: Anh hùng
và Bội phản trong Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa”, với nội dung tŕnh
bày lại phần lớn của cuộc chiến có kết hợp quan điểm của Quân lực
Cộng Ḥa.
Tôi thường được hỏi, nhất là từ các sinh viên khi họ chuẩn bị đề thi
cuối năm, rằng ta có thể thắng trong cuộc chiến Việt Nam không. Và
câu trả lời của tôi - xin đừng cho sinh viên của tôi biết! - là một
lời khẳng định: chắc chắn!
Thật ra, điều tôi muốn nói là các đơn vị Hoa Kỳ sẽ không thắng được
dù nếu cố gắng thêm để đạt được vài thành tích lớn lao. V́ trận
chiến Việt Nam không để Hoa Kỳ chiến thắng mà là để miền Nam chiến
thắng. Rốt cuộc th́ chỉ có Quân lực Việt Nam Cộng Hoà mới có khả
năng chuyển biến thắng lợi chiến thuật ngoài trận địa thành một
thắng lợi chiến lược lâu dài.
Với lối suy nghĩ đó, tôi cho rằng chỉ khi nào chúng ta hiểu được
miền Nam và bản chất của sự liên minh với Hoa Kỳ, th́ ḿnh mới hiểu
thấu đáo về chiến tranh Việt Nam. Thay v́ bị phủ nhận, miền Nam và
quân đội của họ phải là trọng tâm của cuộc chiến. Đă đến lúc trả lại
sự công b́nh cho Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Quan điểm của quảng đại quần chúng và của nhiều tài liệu lịch sử Tây
phương về Quân lực Việt Nam Cộng Hoà mà tôi t́m thấy đều đơn giản và
sai sót trầm trọng. Nhiều chứng liệu lịch sử hoàn toàn gạt bỏ Quân
lực Việt Nam Cộng Hoà, trong khi một số khác sơ sài đề cập đến Quân
lực này th́ lại kết án họ là không hiệu quả và tất yếu thất bại dưới
tay quân đội cộng sản. Chỉ cần một cái nh́n bao quát, nơi đâu ta
cũng thấy công chúng và các chứng liệu lịch sử có ảnh hưởng đều đánh
giá miền Nam là suy nhược trầm trọng.
Miền Nam Việt Nam đă gặp chiến tranh suốt thời kỳ ngắn ngủi, từ 1954
đến 1975 - họ không hề có một ngày an b́nh. Trong cuộc chiến, miền
Nam mất hơn 200 ngàn chiến binh, chưa kể chán vạn tổn thất dân sự.
Chiến tranh dai dẳng khốc liệt, c̣n khó khăn hơn mọi hoàn cảnh mà
quân đội Hoa Kỳ đă phải đối phó. Sau khi cuộc chiến chấm dứt, hơn
một triệu rưởi người dân miền Nam đă rời bỏ quốc gia thân yêu của
họ, và hàng trăm ngàn người bị giam trong các trại tập trung ở miền
Bắc. Những chứng cớ không thể chối bỏ này cho ta thấy rằng thay v́
hiển nhiên thất bại, miền Nam đă chiến đấu dai dẳng và quyết liệt
cho quyền tự do của họ.
Nếu miền Nam đă chiến đấu anh dũng th́ v́ sao họ không thắng?
Với sự yểm trợ của người khổng lồ Hoa Kỳ, tại sao miền Nam không
gieo cho hậu duệ của dân miền Bắc nỗi trăn trở là "v́ sao miền Bắc
lại thất trận"? Nếu Quân lực Việt Nam Cộng Hoà không có nhược điểm
sinh tử và nếu họ có một chút hy vọng kiểm soát trọn quốc gia, th́
câu hỏi chúng ta đặt ra lại càng gây khó chịu!
Quân lực Việt Nam Cộng Hoà có thể chỉ là một lư cớ đă bị viện dẫn
quá lâu nhằm giải thích sự thất bại của Hoa Kỳ. Và đă đến lúc ta
phải xét lại trọn vẹn hơn vai tṛ của Hoa Kỳ trong sự thất bại của
một quốc gia thật ra có hy vọng sống c̣n.
Các nguyên nhân thất bại của liên minh Mỹ-Việt thật rất phức tạp,
quá phức tạp để ta có thể đào sâu trong khuôn khổ của buổi hội thảo.
Vả lại, chủ đề nghiên cứu ban đầu của tôi chỉ nhắm vào hai sĩ quan
trung cấp trong Quân lực Cộng Hoà và chú trọng vào t́nh h́nh chiến
sự tại Quân Đoàn I.
V́ vậy, cuốn sách của tôi, hay buổi nói chuyện hôm nay, không có
tham vọng tŕnh bày trọn vẹn lịch sử phức tạp của Quân lực Việt Nam
Cộng Hoà. Nhưng cả quyển sách lẫn bài thuyết tŕnh hôm nay có thể
nêu ra vài kết luận khái quát về khả năng và lịch sử của Quân lực
Việt Nam Cộng Hoà, cũng như gợi ư thảo luận về ưu khuyết điểm của sự
vận hành và thất bại của liên minh Mỹ-Việt.
Dù có thể là quá khái quát, tôi cần nêu lên hai điểm khởi đầu.
Trước nhất - dù đă chiến đấu trong nhiều năm rồi, Quân lực Việt Nam
Cộng Hoà là một vận dụng bất toàn khi mối quan tâm của Hoa Kỳ vào
trận chiến Việt Nam bắt đầu gia tăng vào đầu thập niên 1960. Trong
khi quân nhân miền Nam đă chiến đấu can trường th́ đa số lănh đạo
cao cấp nhất của Quân lực Cộng Hoà đều bị chính trị hóa và bị phân
hóa. Cuộc tranh giành quyền lực nội bộ phương hại nặng nề cho Quân
lực Việt Nam Cộng Hoà - đặc biệt là sau khi Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm
bị lật đổ - nên cần được thay đổi từ căn bản.
Thứ hai - dù đầy thiện chí, những nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm gây dựng
quân đội cho miền Nam cho thấy những hiểu biết phiến diện của họ về
thực trạng Việt Nam. Sau chiến tranh Cao Ly, Hoa Kỳ cố lập ra một
lực lượng quân sự tại miền Nam với bản chất quá Tây Phương. Thay v́
thi hành trong khuôn khổ văn hóa Việt Nam, mà lại lăng quên nhiều
triển vọng của h́nh thái chiến tranh chống nổi dậy, người Mỹ góp
phần gây dựng Quân lực Cộng Hoà quanh các đơn vị Bộ binh Mỹ, vốn lệ
thuộc vào nguồn tiếp vận dồi dào, vào hỏa lực và kỹ thuật, để đoạt
thắng lợi chiến thuật.
Khi xây dựng Quân lực Cộng Ḥa như một sức mạnh quy ước, người Mỹ
hầu như coi thường khía cạnh phiến loạn của cuộc chiến ở miền Nam,
khiến Quân lực Việt Nam Cộng Hoà không sẵn sàng đối phó với cuộc
chiến. Chính sách Hoa Kỳ cũng sai lầm khi xây dựng một Quân lực Cộng
Ḥa dù hữu hiệu cũng quá tốn kém - một quân đội thuộc loại hạng nhất
thế giới mà kinh tế miền Nam không thể cáng đáng nổi.
Việc Hoa Kỳ trực tiếp nhập cuộc năm 1965 chỉ làm t́nh thế thêm rối
ren.
Đáng lẽ gửi quân đội đến phối hợp với Quân lực miền Nam tại chiến
trường này, Hoa Kỳ lại đưa quân vào giành chiến thắng thay cho Quân
lực Việt Nam Cộng Hoà. Đáng lư là cùng làm việc trong một tập thể để
tạo dựng một quân đội và một miền Nam có khả năng vượt qua chiến
tranh, quân lực Mỹ lại đẩy Quân lực Việt Nam Cộng Hoà qua bên lề để
một ḿnh giành lấy chiến thắng. Quyết định ấy đă gạt Quân lực Cộng
Hoà và lănh đạo quân sự của họ ra ngoài biên, đâm ra tŕ hoăn và cản
trở những cải cách cần thiết.
Chính sách này c̣n khiến cho Quân lực Việt Nam Cộng Hoà càng tùy
thuộc vào Hoa Kỳ về cố vấn, tiếp vận và hỏa lực.
Như ta sẽ thấy, các đơn vị Cộng Ḥa đă chiến đấu anh dũng bên các
đơn vị đồng minh, và gặt hái nhiều chiến thắng vẻ vang, mà thường bị
lăng quên trong lịch sử chung của trận chiến. Tuy nhiên, cho đến năm
1968 chính sách Hoa Kỳ có góp phần tạo ra một Quân lực Việt Nam Cộng
Hoà, dù hữu hiệu về chiến thuật, chỉ được thiết trí để tác chiến bên
quân lực Mỹ, thay v́ là một quân đội có thể tự tồn tại. Chỉ sau vụ
tấn công 1968, khi Hoa Kỳ muốn rút khỏi chiến tranh hơn là bảo đảm
sự sống c̣n của Quân lực miền Nam, họ mới giúp đào tạo một Quân lực
Việt Nam Cộng Hoà có khả năng tự lực tự cường sau khi quân Mỹ triệt
thoái. Nhưng việc đó quá trễ, và quá ít.
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn I Bộ binh và sau đó là
Tư lệnh Quân Đoàn I của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, đă tóm lược sự
t́nh như sau: “Gia nhập cuộc chiến với tinh thần và tác phong của
một đội cứu hỏa, người Mỹ hăng hái xông vào cứu văn ngôi nhà Việt
Nam khỏi bị thiêu hủy, nhưng không hề quan tâm đến nạn nhân. Cho tới
khi ư thức được rằng cả nạn nhân cũng phải được huấn luyện thành
người cứu hỏa để cứu lấy ngôi nhà của họ th́ Hoa Kỳ mới bắt đếu lưu
tâm đến họ. Một khoảng thời gian quí báu đă bị lăng phí. Đến khi các
nạn nhân được cấp cứu đă có thể đứng dậy tiến lên vài bước, th́ đội
cứu hỏa được gọi về trạm của họ”.
Trong khung cảnh đó, khi t́m hiểu kỹ về trường hợp của các ông Phạm
Văn Đính và Trần Ngọc Huế, tôi có cơ hội nghiên cứu sâu rộng hơn vai
tṛ tác chiến của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà.
Đa số sử gia Tây phương về chiến tranh Việt Nam đều điểm lại các bài
kư sự chiến trường nổi tiếng, từ trận đánh tại thung lũng Ia Drang
năm 1965 đến trận đánh trên đồi Hamburger Hill năm 1969. Các bài
tường thuật này thường là xúc động và vinh danh chiến binh Mỹ. Tuy
nhiên chúng lại thiếu một yếu tố quan trọng. Trong các trận đó, hầu
như Quân lực Cộng Hoà đều bị đồng loạt bỏ quên.
Thực tế th́ người chiến binh Cộng Ḥa đă hiện diện trên các chiến
trường đó. Họ đă từng tác chiến trước khi lính Mỹ tới, rồi họ chiến
đấu bên quân lực Mỹ trong hầu hết các trận lớn của cuộc chiến. Để
hiểu được tường tận những thịnh suy của cả cuộc chiến, chúng ta phải
đưa Quân lực Việt Nam Cộng Hoà vào khối sử liệu về trận chiến.
Trong buổi nói chuyện ngày hôm nay, tôi chỉ đề cập đến hai trận đánh
quan trọng nhất trong cuộc nghiên cứu của tôi để chứng minh là hiển
nhiên phải kể đến vai tṛ của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa một cách
đầy đủ hơn trong lịch sử chiến tranh Việt Nam.
Cứ chọn bất cứ quyển sách nào về cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 là
quư vị cũng có thể thấy rất nhiều tin tức hay dữ kiện về các trận
đánh tại thành phố Huế. Trong tất cả các quyển sách đó, tác giả đều
ngợi ca Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ là đơn vị đă trước hết bảo vệ rồi
gan dạ văn hồi an ninh chung quanh công sự của bộ Tư lệnh MACV của
Mỹ. Và đơn vị đă tái chiếm Huế bằng cách đánh đuổi địch từ nhà này
xuyên qua nhà khác cũng là Thủy quân Lục chiến Mỹ.
Họ không ngớt lời xưng tụng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ nhưng hoàn
toàn bỏ quên sự tham chiến của các đơn vị Việt Nam Cộng Hoà.
Các quân nhân Thủy quân Lục chiến Mỹ đă giao tranh rất anh dũng, và
đă giải phóng một phần lớn phía Nam sông Hương, và chứng minh được
danh tiếng như những đơn vị tinh nhuệ nhất thế giới. Trong trận Tết
Mậu Thân oanh liệt đó, Thủy quân Lục chiến Mỹ có 147 chiến binh hy
sinh (theo số liệu của ông Keith William Nolan trong cuốn "Battle of
Hue - Tet 1968" xuất bản năm 1996, trang 185).
Nhưng cũng trong trận Mậu Thân đó, Quân lực Việt Nam Cộng Hoà lại ít
đươc đề cập đến, dầu họ đă đánh đuổi địch tại nhiều địa điểm nhất,
đặc biệt là trong Thành Nội. Thành tích của các đơn vị Việt Nam, với
hỏa lực và vũ khí yếu kém hơn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, được minh
chứng với Đại đội Hắc Báo của Trần Ngọc Huế và Tiểu đoàn 2 thuộc
Trung đoàn 3 của Phạm Văn Đính. Họ chiến thắng các lực lượng Bắc
Việt và Cộng sản miền Nam trong một trận chiến dài và gian khổ mà
không có sự yểm trợ hỏa lực trực tiếp của các lực lượng đại pháo cơ
hữu.
Sau khi chiến trận kết thúc, phía Việt Nam Cộng Ḥa có 357 quân nhân
tử trận, và giết được 2.642 bộ đội Bắc Việt và cộng sản miền Nam.
Không ai có thể nghi ngờ được việc quân nhân Thủy quân Lục chiến Hoa
Kỳ chiến đấu cách anh dũng và gian khổ tại Huế. Tuy nhiên, người ta
quan niệm rằng trận chiến đó là của người Hoa Kỳ, với sự trợ lực nhỏ
của quân lực miền Nam. Đấy là một quan niệm hết sức sai lầm.
Trận đánh giải phóng thành phố Huế trong cuộc tổng công kích Tết Mậu
Thân là cơ hội để chúng ta nh́n nhận một cách chính xác và trả cho
Quân lực Việt Nam Cộng Hoà những thành quả và danh dự mà họ đă tạo
được trong một chiến thắng có thể nói là hào hùng và anh dũng nhất.
Một trận đánh cũng nổi tiếng nhất trong lịch sử quân đội Hoa Kỳ và
trong phim ảnh, là trận chiến tại đồi Hamburger vào năm 1969.
Trong các sách vở hiện có, các tác giả đều mô tả một trận đánh bi
thảm và anh dũng của các đơn vị Hoa Kỳ thuộc Tiểu đoàn 3, Sư đoàn
187 Nhảy Dù, nhằm tái chiếm ngọn đồi đă bị các quân nhân Bắc Việt
cuồng tín chiếm giữ suốt mười ngày. Khi gần thoái chí th́ các quân
nhân Mỹ lại t́m ra phương cách chiến thắng quân địch, và chiếm được
vị trí oai hùng trong quân sử Hoa Kỳ từ cuộc chiến Việt Nam.
Tuy nhiên, sự thực lại khác hẳn.
Chính Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 3 của Sư đoàn I Bộ binh Việt Nam -
dưới sự chỉ huy của Phạm Văn Đính - đă tiến chiếm đỉnh đồi trước. Để
rồi được điều động đi nơi khác mà “nhường” chiến thắng lại cho lực
lượng Hoa Kỳ.
Chỉ với hai thí dụ cụ thể đó để làm điểm tựa, chúng ta có thể thấy
được rằng muốn hiểu biết rơ ràng và thâm sâu về chiến tranh Việt
Nam, ta phải kể đến sự tham gia của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà vào
lịch sử của chiến tranh Việt Nam.
Sau Tết Mậu Thân, vai tṛ của Quân lực này trong trận chiến đă thay
đổi một cách rơ rệt. Đa số người lính Cộng Hoà nghĩ là họ đă thắng
trận chiến chống quân cộng sản tại miền Nam từ năm 1969. Đa số các
vùng nông thôn đều b́nh yên, và địch thủ đang lẩn trốn. Về phần hai
ông Đính và Huế, họ nghĩ rằng bước tiến sắp tới sẽ là tiến qua Lào
hoặc tấn công ra Bắc Việt để đánh vào gốc. Cũng như các chiến hữu
trong Quân lực, họ rất ngạc nhiên v́ đáng lẽ tiếp tục tiến mạnh th́
người Mỹ lại bắt đầu rút lui: một hành động làm thay đổi toàn diện
cục diện của chiến tranh Việt Nam.
Đa số các sử gia người Mỹ về chiến tranh Việt Nam không mấy để ư đến
trận chiến sau năm 1970, v́ cho rằng thảm kịch của Hoa Kỳ sắp sửa hạ
màn. Nhưng, thảm kịch của quốc gia Việt Nam mới chỉ bắt đầu. Những
trận đánh lớn nhất trong cuộc chiến chưa khai diễn, những trận chiến
ít được truyền thông và báo chí Tây Phương theo dơi - mà lại là
những trận then chốt để hiểu được v́ sao chiến tranh Việt Nam lại
kết thúc như vậy.
V́ không c̣n thiều thời gian duyệt xét lại từng trận đánh lớn, tôi
sẽ nhắc đến hai trận đánh nổi bật nhất trong công việc nghiên cứu
của riêng tôi: trận Lam Sơn 719 vào đất Lào và trận tổng tấn công
mùa Phục Sinh, gọi là Eastern Offensive vào năm 1972 [mà người Việt
gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa).
Trong trận đánh sang Lào năm 1971, lần đầu tiên Quân lực Việt Nam
Cộng Ḥa tung các đại đơn vị vào đất địch mà không có cố vấn Hoa Kỳ.
Trong trận chiến, quân đội Việt Nam đă tỏ ra rất hùng mạnh. Trước
một địch thủ đông hơn, với khí giới tối tân hơn do khối cộng sản
cung cấp, các quân nhân miền Nam đă kiên tŕ chiến đấu, được thể
hiện qua kinh nghiệm của Trần Ngọc Huế. Ông Huế, Tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn 2, thuộc Trung đoàn 2 của Quân đoàn I Bộ binh, đă cùng đơn
vị của ông phải giải vây sau sáu lần bị địch bao vây, trước khi Huế
bị trọng thương. Chỉ có 26 người c̣n sống sót trở lại Việt Nam,
trong khi Huế bị bắt làm tù binh và bị giam 13 năm trong các trại tù
cộng sản tại miền Bắc.
Kinh nghiệm của chiến dịch Lam Sơn 719 cũng cho thấy là quân lực
Việt Nam chưa sẵn sàng để sống c̣n một ḿnh. Họ có vấn đề lănh đạo ở
cấp cao nhất. Và vẫn phải tùy thuộc vào hỏa lực yểm trợ của Hoa Kỳ,
là những khó khăn có thể giải quyết được trong tương lai. Thay v́ bổ
khuyết và sửa chữa các khó khăn này, Hoa Kỳ lại càng rút quân nhanh
chóng hơn.
Vào mùa Phục Sinh năm 1972, quân đội Bắc Việt tung toàn lực vào Nam
với hy vọng mau chóng kết thúc trận chiến. Mặc dù bị thiệt hại nhiều
lúc đầu, quân lực Việt Nam đă chống trả mănh liệt tại các chiến
trường Quảng Trị, Kontum và An Lộc - những trận chiến gần như không
được biết tại Hoa Kỳ. Không có bất cứ trợ giúp nào của binh lính Mỹ
tại trận địa, chỉ có các cố vấn Mỹ và hỏa lực Hoa Kỳ, Quân lực Việt
Nam Cộng Hoà đă dứt khoát đánh bại địch quân trên ngần ấy mặt trận.
Với quân cộng sản miền Nam bị triệt hạ, hai chiến dịch Lam Sơn 719
và tái chiếm cổ thành Quảng Trị chứng minh cho thế giới thấy Quân
lực Việt Nam Cộng Hoà, với sự cố vấn và yểm trợ của Hoa Kỳ, vẫn có
thể đương đầu với quân Bắc Việt.
Trên một số phương diện, hệ thống kết hợp này đă thành công. Quân
lực Việt Nam từng được đào tạo để chiến đấu bên lực lượng Bộ binh
Hoa Kỳ. Bây giờ, việc hợp tác giữa nhân lực Việt Nam và hỏa lực Mỹ
đă chứng tỏ sự công hiệu, nhất là trong trận tấn công mùa Phục Sinh.
Nhưng người Mỹ đă quá mỏi mệt với “trận chiến của họ”, nên nhanh
chóng rút cả cố vấn lẫn sự yểm trợ hỏa lực ra khỏi chiến tranh. Cuối
cùng, họ cắt giảm luôn viện trợ tài chánh cho Việt Nam.
Hoa Kỳ đă bỏ ra nhiều thời gian và công sức giúp cho việc đào tạo
một Quân lực Việt Nam Cộng Hoà có thể chiến đấu trong một liên minh
bên cạnh quân lực Hoa Kỳ, với Hoa Kỳ giữ vai chính. Quân lực Cộng
Hoà chiến đấu rất giỏi trong cái thế phân công ấy, và thắng bao
nhiêu trận mà hoàn toàn bị Tây Phương phủ nhận. Vào giai đoạn cuối
của trận chiến, liên minh ấy đă vất vả tiến gần chiến thắng thực sự.
Nhưng chẳng may, người đồng minh chỉ đạo lại bỏ cuộc, để quân lực
Việt Nam trong một hoàn cảnh mà họ không hề được huấn luyện để đảm
nhiệm - là đơn phương chiến đấu. Với thời gian, họ sẽ thích ứng để
đảm đương vai tṛ mới đó. Nhưng việc Hoa Kỳ rút hết viện trợ quân sự
và tài chánh lại không cho Quân lực miền Nam khoảng thời gian thích
ứng này.
Hoa Kỳ tháo chạy quá nhanh, để Quân lực Việt Nam Cộng Hoà có thể tồn
tại một ḿnh.
Để hiểu biết tường tận trận chiến Việt Nam, chúng ta phải nói đến
Quân lực Việt Nam Cộng Hoà trong cuộc chiến. Một điều mà tôi hy vọng
rằng quyển sách của tôi có thể làm là chứng minh Quân lực miền Nam
đă chiến đấu cam go và bền bỉ cho nền độc lập của Việt Nam Cộng Ḥa.
Quân lực Việt Nam có thể thắng trận chiến, và xứng đáng được hưởng
một số phận khác.
Tôi muốn kết thúc phần phát biểu của tôi bằng cách cám ơn một lần
nữa tất cả quư vị đă cho tôi cơ hội nói chuyện hôm nay, bằng cách
chào kính các cựu quân nhân trong Quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Quư vị
là bậc anh hùng, và tôi vinh dự được là kẻ tường thuật.
=========
"VIETNAM'S FORGOTTEN ARMY"
By Andrew Wiest
Vietnams Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN chronicles
the lives of Pham Van Dinh and Tran Ngoc Hue, two of the brightest
young stars in the Army of the Republic of Vietnam (ARVN). Both men
fought with valor in a war that seemed to have no end, exemplifying
ARVN bravery and determination that is largely forgotten or ignored
in the West. However, while Hue fought until he was captured by the
North Vietnamese Army and then endured thirteen years of captivity,
Dinh surrendered and defected to the enemy, for whom he served as a
teacher in the reeducation of his former ARVN comrades.
An understanding of how two lives that were so similar diverged so
dramatically provides a lens through which to understand the ARVN
and South Vietnams complex relationship with Americas government and
military. The lives of Dinh and Hue reflect the ARVNs battlefield
successes, from the recapture of the Citadel in Hue City in the Tet
Offensive of 1968, to Dinhs unheralded role in the seizure of
Hamburger Hill a year later. However, their careers expose an ARVN
that was over-politicized, tactically flawed, and dependent on
American logistical and firepower support. Marginalized within an
American war, ARVN faced a grim fate as U.S. forces began to exit
the conflict. As the structure of the ARVN/U.S. alliance unraveled,
Dinh and Hue were left alone to make the most difficult decisions of
their lives.
Andrew Wiest weaves historical analysis with a compelling narrative,
culled from extensive interviews with Dinh, Hue, and other key
figures. Once both military superstars, Dinh is viewed by a traitor
by many within the South Vietnamese community, while Hue, an
expatriate living in northern Virginia, is seen as a hero who never
let go of his ideals. Their experiences and legacies mirror that of
the ARVNs rise and fall as well as the tragic history of South
Vietnam.
Release Date: 12/1/2007
About the Author:
Andrew Wiest is Professor of History and Co-Director of the Center
for the Study of War and Society at the University of Southern
Mississippi. He is co-editor of War in the Age of Technology: Myriad
Faces of Modern Armed Combat (NYU Press, 2001) and author or
co-author of numerous books, including Rolling Thunder in a Gentle
Land: The Vietnam War Revisited, Atlas of World War II, and The
Vietnam War, 1959 – 1975. He lives in Hattiesburg, MS.
• "Exceptional, both in content and readability. Vietnam's Forgotten
Army addresses one of the lacunas in the historiography of the war —
the story of the South Vietnamese soldier, a story that more often
than not is totally ignored or only given the briefest of
consideration. The author's vivid description of combat and its toll
put a human face on what for many historians is merely a clinical
discussion of unit moves, victories and defeats."
James H. Willbanks, Director, Department of Military History, U.S.
Army Command and General Staff College
• "Vietnam's Forgotten Army offers a compelling account of two
heroic ARVN officers who, in the final years of the war, choose
diametrically opposed courses of action. One surrenders, and enjoys
a relatively easy subsequent life, but is plagued by guilt. His
comrade-in-arms remains true to the Republic, suffers many years of
separation, imprisonment and deprivation, but ultimately finds
fulfillment. In the process of telling this remarkable story, Wiest
offers a better understanding of the trials and travails of those
who served in the Armed Forces of the Republic of Vietnam."
James R. Reckner, Director, The Vietnam Center, Texas Tech
University
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
42 năm t́nh
cảm đồng môn
42 Năm T́nh
Chúc mừng hội ngộ
Tôi và Tiểu Đoàn 7
TQLC
Thơ gửi Đại Gia
Dấu ấn vào đời
USA 20 năm và Tôi
Hăy c̣n đó niềm
tin
Pleiku và hoài
niệm
Kư sự
những ngày tháng 2
Một mảnh đời
Xuân quê hương
Một chuyến về
thăm nhà
Tết đến
Một buổi
chiều, hai người già
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Về từ Tân Cảnh
Cô đơn và ước mơ
Trên đồi cao
Phạm Thị
Thàng - Nữ anh hùng đất G̣ Công
Bạn cũ năm mươi năm
Hương xưa ngày ấy
Đại Bàng gẫy cánh - F5
Sự thật đời tôi / Trung Tướng Trần Văn Minh
Thèm
Sao chổi
Đừa con dâu
Đại đội 17 "Hoàng Gia" 1
-
2
Sau cuộc biển dâu
Những người lính Dù
Tiễn nhau ngàn dặm cũng chia phôi
Tấm Poncho
Người bạn học và
ông thầy cũ
Mối hận ngh́n trùng!
Những mùa Trung Thu
Tấm ảnh hai người
lính
Tin quan trọng gửi
đến các anh em TPB ở Việt Nam
Chim bay về biển
Văn chương
Việt Nam và chữ “Y”
Hạnh phúc và bất hạnh
Chữ "Tín"
Nếu ngày ấy...
Thuận An
Thôi ! Ḿnh
về Linh Xuân Thôn, đi em !
Văn hoá phương Nam
Thức tỉnh
Sự xâm lăng văn
hóa của việt cộng
Tác giả
“Những Đồi Hoa Sim” đă chết trên đồi hoa sim
Hành trang và lư
tưởng
Góp nước miếng
húp chung
Đêm chờ sáng 1975
Thuốc lào trong tù....
Người chồng một đêm
Khóa 8 B+C/72
SQTB/Thủ Đức họp mặt
Trở về cố hương
Trôi theo ḍng đời
Ngộ chiêu
T́nh người
trong cuộc chiến
Khóc bạn
Cư An Tư Nguy
Con c̣n nợ ba
Không Quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Những
người chiến sĩ đáng hănh diện
Nắng chiều vẫn đẹp
Hạnh phúc vẫn
long lanh
Con Trâu đâu có cải tạo
Nhớ nhà
Bác sĩ trong tù
Nhà bốn anh em
Tháng Sáu và Tôi
Chuyện về một cô gái
Chuyện một người mang tên Nguyễn Thị Di Tản
Cái giường đôi
Ưu việt nhất !!!
Hậu nhân trả lời VC
Huỳnh Tấn Mẫm
Chúng tôi vẫn sống
Bọt không cần vớt
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa, Chuyện kể từ đầu
Làm sao để chôn hai Chế Độ?
Cà-phê lính
Cuộc trùng phùng
bi thảm
Tuổi trẻ nghĩ ǵ ?
Tiển con
Nhớ anh linh Anh
hùng Nguyễn Ngọc Trụ
40 năm nhớ về
C̣n đó niềm đau
Viết cho con cháu
Tưởng nhớ bác Thái Văn Kiểm
Người bạn thân
Người già cả, người bệnh tật
Người tỵ nạn và
Việt kiều
Sự ra đi
của hai vị Tướng Tư Lệnh
Nhạc Sĩ Thục Vũ
Câu chuyện
của Nguyễn Thị Thái Ḥa
Một thoáng Pleiku
Bạn đồng môn khóa 2 CSQG
Quân đội bị quên
lăng của Việt Nam Cộng Hoà
Nhạc sĩ Lê
Trạch Lựu và bài hát Em Tôi
Bắc Kỳ
Văn chương trào
phúng truyền khẩu
Mậu Thân Huế – Nhân chứng sống
Kỷ niệm với Hồ Ngọc Cẩn
Điều c̣n lại sau
40 năm
Thương
Tiếc những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù
Anh là áng mây trôi
Tâm thức
người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc
Rợp bóng cờ
Trên núi Hoàng Liên
Kư ức mùa Xuân
Để tưởng niệm một
người Anh
San Jose, năm hết tết
đến
Valentine trong di sản Chiến Tranh
T́nh như gió thoảng
Thằng Thời
40 năm cuộc sống người thương phế binh VNCH
Ăn Tết thôn quê
Hạt bụi nào trong mắt
Giọt nắng cho người
Gặp tướng Ngô Quang Trưởng Lần Cuối Cùng...
Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam VN
Quê Hương, chùm khế ngọt
Quả tim người tử tù
Anh hùng Ngụy Văn Thà
Người ở lại Hoàng Sa
Trận Hoàng
Sa, biểu tượng hội tụ ḷng yêu nước
Ngày 19-01: Tưởng Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Em gái hậu phương Dạ Lan là ai?
Hồi kư Việt Nam
Để nhớ một thời áo trận
Con dao xếp trong ngày Tết Tây
Người về từ Đại Dương
Lễ Tưởng Niệm Tử
Sĩ Hoàng Sa
Lăo Mốc
Lên núi t́m chồng
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013
Bài vở cũ 2012