Quê Hương, chùm khế ngọt.

Quê Hương là chùm khế ngọt.
Cho con trèo hái mỗi ngày,
Quê hương là đường đi học,
Con về rợp bướm vàng bay.
Quê hương là cầu tre nhỏ,
Mẹ về nón lá nghiêng che.

Quê hương mỗi người chỉ một,
Như là chỉ một Mẹ thôi.
Quê hương nếu ai không nhớ,
Sẽ không lớn nỗi thành người.


Tôi cầm tinh con Cọp, sinh năm Mậu Dần, tại Huế, trong một ngôi làng tên Xuân Ḥa thuộc huyện Hương Thủy. Dù sống ở vùng xôi đậu, tôi có một thời thơ ấu khá êm đềm, thế hệ trẻ chúng tôi được cắp sách đến trường, ngoài kiến thức khoa học, chúng tôi c̣n được giăng dạy về Công Dân Giáo Dục, về nguồn cội Rồng Tiên, về Lịch Sử vua Hùng dựng nước; để thành một người biết yêu thương đất nước, giống ṇi.

Huế, trong kư ức tôi, vùng đất an b́nh với ḍng Hương êm đềm, con sông chỉ hung dữ mỗi năm vào ngày mưa lũ, c̣n lại, thật thơ mộng với ḍng nước chảy thật chậm, thật lặng lờ sâu lắng, như những tiếng “dạ thưa” ngọt lịm mê say.

Làng quê tôi, nằm ven ḍng sông Như Ư, một nhánh của Hương Giang. Những ngày từ quê lên học tại Quốc Học, tôi thường đạp xe theo mấy O bên Đồng Khánh, thuở ấy, dù thương cách mấy, cũng không dám đi song đôi, mà chỉ lẽo đẽo theo sau. Tuổi thơ tôi lọt lưới t́nh yêu lúc nào không rơ, chỉ biết mỗi lần gặp ánh mắt nhau, tôi bỗng gần như quên thở v́:

Mắt em là một ḍng sông,
Thuyền anh chết ngộp trong ḷng mắt em.
(không biết thơ ai, thấy hay cuỗm đại)

Trước khi t́nh nguyện vào Vơ Bị Đà Lạt, tôi vào thăm người bạn thân, Nguyễn Văn Lộc, sau nầy anh gia nhập vào Khóa Băo B́nh Trường Hăi Quân Nha Trang. Lộc sai cô em gái, tên Quyến, mà tôi thường lẻo đẻo đạp xe theo trên đường đi học, gọt mấy trái thu đủ sau vườn đăi tôi, lợi dụng lúc chỉ có hai đứa, tôi thu hết can đảm, hỏi: Mai anh đi rồi, hi vọng c̣n dịp gặp nhau không?
- Quyến cúi đầu nói nhỏ “Em không biết”.
Vậy mà năm sau, được tin cô ta vào học tại Vơ Tánh, Nha Trang. Tôi xin phép gia đ́nh được viết thư thăm hỏi. Và trong dịp du hành trước ngày Măn Khóa, tôi và Lê Thanh Quang, nó cũng có người yêu ở đây, và cũng sau nầy thành chị Quang; hai đứa trốn trại, cùng người yêu đi dạo phố. Dịp đầu tiên, tôi có một bức h́nh chung với người yêu, để thay lời thề non hẹn biển. T́nh yêu chúng tôi thuở đó, chơn chất và chung thủy như vậy đó.

Ra Trường, tôi chọn Sư Đoàn I ở Huế. Lúc nầy chiến sự bắt đầu sôi động, hai gia đ́nh quen thân lâu nay, dự tính ngày cưới, và băo tôi đang ở A-Lưới, xin phép về. Vị Tiểu Đoàn Trưởng vui vẻ chấp thuận và can thiệp ngày đó sẽ xin chuyến máy bay Cesna chở thư, đưa tôi về sân bay Thành Nội Huế. Không ngờ v́ sương mù, gần trưa Cesna mới lên được, nên tôi về đến nhà th́ đám rước dâu đă đi, vội thay bộ đồ trận, khoát chiếc áo đen chú rễ vào, ba chân bốn cẵng chạy. May quá, nhà gái vừa chấp thuận cho cưới vắng mặt rễ, th́ chú rễ ập vào. Sau ngày hợp hôn đúng bảy hôm, tôi lại lên A-Lưới gánh chịu những trận pháo kích, chia sẻ những hiểm nguy với đồng đội. Tôi tạm ngưng chuyện riêng tư ở đây, để chúng ta cùng quay lại t́m nguyên nhân cuộc chiến đấu mất c̣n, mà tôi cùng đồng đội đang gánh chịu.

Lănh hai trái bom nguyên tử, Nhật phải đầu hàng Mỹ, dẫn đến bại trận của phe Trục (Nhật-Đức- Ư). Nhờ giữ được tự do dân chủ dù bị Mỹ chiếm đóng, Nhật đă nhanh chóng vươn lên giàu mạnh như ngày hôm nay.

Nhân dịp Nhật đầu hàng, Việt Minh lợi dụng cướp chính quyền, buộc Bảo Đại thoái vị, và Pháp có cớ trở lại Đông Dương. Chiến tranh Quốc Cọng lại tiếp diễn. Lúc nầy, chế độ thực dân tới thời cáo chung, Anh trao trả độc lập cho các nước bị trị, Pháp c̣n cố bám víu một số quyền lợi, nên mở chiến dịch tại Điện Biên, dụ đại quân Việt Minh vào đó, sẽ bất ngờ cho nhảy dù để tiêu diệt. Không ngờ Cọng Sản tương kế tựu kế, được Tàu trang bị hàng ngàn pháo binh cở lớn, phục quanh trên ḷng chảo. Pháp nhảy dù xuống, xem như vào rọ.

Sau trận Điện Biên Phủ, để tiến đến ḥa b́nh. Hội Nghị Quốc Tế, thực chất hai phe Việt Minh và Pháp, v́ Ngoại Trưởng Trần Văn Đổ, theo lệnh Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm, không tán thành chuyện chia đôi đất nước, đă không kư. Hội Nghị nhóm họp tại Genève 1954, cắt đôi nước ta ở Vỹ Tuyến 17. Quốc Tế giám sát đ́nh chiến buộc Việt Minh rút hết quân ra Bắc, mang theo những người tập kết. Mỹ giúp di tản hơn một triệu người di cư vào Nam. Dân miền Nam, những con người nhân hậu, có dịp chia cơm xẻ với đồng bào ḿnh. Pháp phải rút khỏi Đông Dương. Trao trả quyền tự trị cho chính phủ Bảo Đại, để đến tháng 7 năm 56, hai Miền tổ chức tuyển cử.

Cựu hoàng Bảo Đại đang ở Pháp, giao quyền cho Ngô Đ́nh Diệm. Ông Diệm ra lệnh toàn quốc treo cờ rũ để phản đối Hiệp Định Chia Đôi Đất Nước, đồng thời cải tổ guồng máy hành chính, dành quyền tự trị từ tay thực dân Pháp.

Nhờ đ́nh chiến, phe Cọng, lúc nầy mang tên Việt Minh, đă chôn dấu vũ khí và gài lại người nằm vùng, họ tin với dân số vượt trội ở miền Bắc, nhất là hệ thống tuyên truyền, sẽ dễ dàng thắng phiếu miền Nam nếu có bầu cử.

Dự đoán sẽ không có bầu cử, Miền Bắc quyết chiếm miền Nam bằng vơ lực, họ bắt đầu xây dựng một xă hội chuyên chế bằng đấu tố, cải cách ruộng đất và xây dựng quân đội hùng mạnh. Miền Nam, sau cuộc Trưng Cầu Dân Ư, đă bỏ phiếu truất phế Bảo Đại, bầu Ngô Đ́nh Diệm làm Tổng Thống. Được Mỹ Viện Trợ, ông Diệm chú tâm vào cải tổ kinh tế, lập khu trù mật, xây dựng ấp Chiến Lược, nên dân được sống yên vui một thời gian. Măi năm 63, Việt Cọng xuất đầu lộ diện với danh xưng “Mặt Trận Giải Phóng”, đưa quân từ Bắc vào, phối hợp với số nằm vùng, quậy phá khắp nơi.

Cuộc nội chiến giữa hai phe Quốc Cọng lại tiếp diễn, miền Bắc với chi viện của Khối Cọng, quyết nuốt chửng Miền Nam. Để ngăn chặn làn sóng đỏ, Mỹ giúp Miền Nam cải tổ kinh tế, xây dựng một xă hội phồn vinh, tự do, dân chủ. Tuy nhiên thấy Miền Nam khó đương đầu với cuồng vọng của Khối Cọng, Mỹ t́m cách đưa quân tham chiến. Ban đầu họ đưa cố vấn vào giúp, cho xây dựng ngôi Trường Vơ Bị Quốc Gia, lớn nhất Đông Nam Á tại Đà Lạt, chương tŕnh văn hóa và quân sự với thời gian đào luyện là 4 năm. Tôi may mắn được thu nhận vào Khóa đầu tiên năm 1959. Tiếc là đến năm 63, Việt Minh thành lập Mặt Trận Giải Phóng, bắt đầu quậy phá khắp nơi. Khóa 16 chúng tôi cấp tốc được tung ra chiến trường để kịp đối phó. Một số Khóa kế cũng đành ra trường trước thời gian để đáp ứng nhu cầu chiến sự.

Mậu Thân 68, Mùa Hè Đỏ Lửa 72, và tái chiếm Cổ Thành Quăng Trị đă gây thương vong lớn cho Bắc quân. Nhờ hậu phương Nga và Trung Quốc chi viện tối đa, Việt Cọng tiếp tục dùng chiến thuật biển người, như những thiêu thân xông vào lữa đạn, gây tổn thất đáng kể cho Quân Lực Cọng Ḥa và Đồng Minh.

Mỹ là quốc gia tôn trọng mạng sống con người, khi thấy lính ḿnh chết quá nhiều, phong trào phản chiến bùng nỗ dữ dội khắp nơi. Không thể để sa lầy tại Đông Dương, dưới áp lực của Lưỡng Viện Quốc Hội, Mỹ t́m cách rút chân ra khỏi Việt Nam.

Lúc nầy, quân đội miền Bắc, được Nga Tàu yểm trợ dồi dào cả lương thực lẫn vũ khí, xẻ dọc Trường Sơn thành đường ṃn Hồ Chí Minh, trùng trùng điệp điệp kéo vào, nhưng họ chối bay chối biến việc xâm nhập. Mặt chai mày đá tuyên bố đó là nhân dân miền Nam nổi dậy. Thương vong hai phe càng ngày càng tăng vọt khốc liệt.

Pháp và Mỹ, hai quốc gia tuy bằng mặt, nhưng không bằng ḷng, Pháp c̣n hận chuyện bị Mỹ hất chân ra khỏi Đông Dương, nên t́nh nguyện đứng ra tổ chức việc thương thảo đ́nh chiến. Sau những chuyến đi đêm, từ tháng 5 năm 1968, đến tháng giêng 1973. Hai tên đầu sỏ chung lănh Nobel Ḥa B́nh năm đó, là Lê Đức Thọ và Kissinger, đă qua tận Bắc Kinh, đi đêm mật ước với nhau để bán đứng miền Nam. Chuyện bốn bên cùng thương thảo, chỉ là đóng kịch. Có lẻ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cảm nhận được điều đó, nên phản đối, nhưng cuối cùng đành bó tay. Quả nhiên Hiệp Định Paris chưa kịp khô mực, trong lúc Mỹ rút hết quân, cắt đứt mọi viện trợ, th́ Cọng Quân mang xe tăng đại pháo, rần rộ xâm nhập đánh chiếm Miền Nam.

Dân miền Nam vốn hiền ḥa, đă căm hận khi thấy Sài G̣n yêu quư đổi tên quê một cục là: Thành Phố Hồ Chí Minh. Tên nước lại ḷng tḥng kỳ cục hơn: Cọng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. VC lật lọng, quịt đàn anh Trung Quốc để chào đón Liên Xô, bị Đặng Tiểu B́nh cho một bài học, phá nát 6 tỉnh biên giới, hết núi liền núi, sông liền sông. V́ cùng tổn thất nặng, Tàu c̣n sợ người bạn Liên Sô sau lưng, nên rút về, nhưng rạn nứt Nga Tàu cũng manh nha từ đó.

Mỹ rút khỏi miền Nam, nhưng dấu ấn tự do dân chủ c̣n ở lại đậm nét, có người c̣n cho chính miền Nam đă giải phóng miền Bắc, khi họ nhận thức được, là miền Nam có cuộc sống nhân bản, tiên tiến hơn hẳn miền Bắc. Dương Thu Hương đă ngồi xệp xuống lề đường Sài G̣n để khóc khi thấy mọi người bị Cọng Sản dối gạt để cướp đi bao xương máu dân Việt một cách đau đớn. Một chế độ tàn bạo, gian trá, đă chiến thắng một chế độ nhân bản, văn minh tiến bộ.

Sau 75, có người thấy Nhạc Sĩ Văn Vỹ, bỏ đàn c̣, hành nghề xe ôm. V́ lúc nầy, mọi người đều sáng mắt chứ không riêng ǵ Văn Vỹ. Dân Miền Nam t́m dân Bắc để nhận Họ. C̣n dân Bắc vào Nam để t́m “Hàng”.

Sau khi hàng triệu Quân Cán Chính miền Nam bị đày ải trong các Nhà Tù mệnh danh là Trại Cải Tạo. Nhất là v́ không thể chịu nỗi hà khắc của Cọng Sản, người dân làm một cuộc trốn chạy vỹ đại, có người cho là nếu các cột đèn có chân, chắc cũng bỏ đi. Hàng triệu người bỏ thây trên biển cả, đă đánh động lương tâm nhân loại. Các nước trong Thế Giới Tự Do phải can thiệp để cứu. Phước đức, Mỹ nhận ra được trách nhiệm, đă t́nh nguyện nhận lănh gia đ́nh những người một thời là chiến hữu của họ.

Người Miền Nam trước đây, sống trong xă hội khai phóng, nhân bản. Với con tim nhân ái, đă dang tay đón nhận người anh em phương Bắc, trong cuộc di cư vỹ đại năm 54. Nay họ được Nước Mỹ cưu mang lại, họ “gieo nhân lành, nay gặt quả ngọt”. Nhưng cũng phải nói, chúng ta đă vui vẻ ḥa nhập với xă hội mới, để xây dựng chốn tạm dung thành một xă hội đa văn hóa, giàu mạnh.

Đất nước Mỹ lại không phải của riêng ai, đây là một quốc gia đa chủng, đất hứa của những người có lư tưởng, yêu chuộng tự do, công bằng, bác ái. Xưa kia, các con tôi từng bị chính quyền Cách Mạng phân biệt đối xử, đă có thời cảm thấy lưu vong, phải sống tha phương ngay trên quê hương ḿnh. Chúng từng thấy cha mẹ chúng chịu những “đ̣n thù” của kẻ tự cho là đỉnh cao trí tuệ, nhưng cư xử với đồng bào ḿnh bằng “ḷng hờn căm cao ngút trời” (lời ca trong bản Giải Phóng Miền Nam).

Bộ máy tuyên truyền Việt Cọng c̣n trưng bày Viện Bảo Tàng tội ác Mỹ Ngụy. Họ kể và trưng bày những đày ải của Thực Dân Pháp ở nhà tù Lao Băo, ở đảo Phú Quốc v…v…, Họ quên rờ lên gáy ḿnh, v́ những nơi đang giam giữ đồng bào họ, c̣n kinh khủng hơn Thực Dân Pháp hay đế quốc Mỹ đă làm. Họ hèn nhát bắn chết Đại Tá Đặng Phương Thành Khóa 16, rồi vu tội trốn chạy. Họ lưu dung chị Đặng Thiên Thuần (dung không có dấu nặng), một từ cách mạng dùng bày tỏ ḷng dung thứ các nhà giáo miền Nam, lúc chưa có người thay thế), v́ muốn có sổ lương thực nuôi các con, chị Thuần đă nhận lưu dung, tiếp tục đứng lớp tại Trần Hưng Đạo Đà lạt. Đau đớn thay, sổ lương thực chưa kịp nhận, chị đă chết v́ mệt và đói.

Họ khoe khoang “chiến thắng thần thánh” mà Lê Duẫn rêu rao khắc lên mộ bia ḿnh:
Ta đánh Mỹ, là đánh cho Trung Quốc, cho Liên Xô.
Tố Hữu, đại công thần của Đảng, c̣n tự hào:
Ôi Việt Nam! Từ trong biển máu.
Người vươn lên như một thiên thần.
Ông nịnh bợ một cách vô liêm sĩ:
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu ḷng, con gọi Sta-lin!

Hay:

Thương cha thương mẹ, thương chồng-
Thương ḿnh thương một, thương Ông thương mười.
Nhà thơ t́nh lăng mạn Xuân Diệu, sợ ghép tiểu tư sản, cũng sắt máu:
Thắp đuốc lên cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đ́nh làng hôm nay,
Lôi cổ bọn chúng ra đây
Bắt quỳ gục xuống, đọa đầy chết thôi!


Tài nịnh bợ và lời dối trá, chỉ có những kẻ da mặt dày như da trâu, mới nói mà không đỏ mặt. Cũng như sự tàn ác với chính đồng bào ḿnh. Vượt xa bọn Phát Xít Nhật.

Ngày nay, mạng lưới tuyên truyền cùng bưng bít sự thật, đă mất tác dụng trong thế giới chúng ta. Trận Hải Chiến hào hùng với Tàu Cọng năm 74 để giữ đăo Trường Sa của Quân Lực Việt Nam Cọng Ḥa, không c̣n dấu diếm được ai. Những người chung chăn với họ, như Vũ Thư Hiện, Bùi Tín, Dương Thu Hương, và sau nầy là Trần Đĩnh, đă cho thế giới thấy bộ mặt thật nham nhở của chế độ Cọng Sản.

Hôm nay, ngồi hồi tưởng để viết lại những chuyện xưa, với ḷng thanh thản, buồn cười nhiều hơn là vướng mắc hận thù. Tôi muốn con cháu ḿnh biết rơ tại sao chúng bỏ nước qua đây? Cha mẹ chúng có phải là kẻ từng có tội ác với dân nhân ḿnh, như Cọng Sản nhồi nhét vào đầu óc thế hệ chúng hay không? Hay chỉ là những nạn nhân của một chủ nghĩa Cọng Sản ngoại lai, và guồng máy tuyên truyền láo khoét?

V́ không thể sống chung với chế độ phi nhân, phải đành đứt ruột rời bỏ Quê Hương bản quán sang đây. Hi vọng một ngày nào đó đất nước không c̣n Cọng Sản. Có thể tôi sẽ t́m về. V́ t́nh yêu quê hương, t́nh cảm dành cho nơi chôn nhau cắt rún, nơi có mồ mă cha ông, nơi có bà con quyến thuộc, đă trở thành ḍng máu chảy trong huyết quản.

Nhưng các con tôi có trở về xây dựng Quê Hương hay không, th́ tùy chúng. Tôi chỉ mong chúng, sau khi đọc những ḍng nầy, có thêm hiểu biết và nhận thức, để kề vai với người bản xứ, xây dựng một xă hội tự do, dân chủ, phú cường, cho chúng và con cái. V́, tục ngữ ta có câu: “đất lành th́ chim đậu”.

Nguyễn Cửu Nhồng.
January-2015.

 


VĂN CHƯƠNG

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả

Cây viết Bất Khuất

42 năm t́nh cảm đồng môn  
42 Năm T́nh  
Chúc mừng hội ngộ  
Tôi và Tiểu Đoàn 7 TQLC  
Thơ gửi Đại Gia 
Dấu ấn vào đời  
USA 20 năm và Tôi  
Hăy c̣n đó niềm tin  
Pleiku và hoài niệm  
Kư sự những ngày tháng 2  
Một mảnh đời  
Xuân quê hương
Một chuyến về thăm nhà
Tết đến
Một buổi chiều, hai người già
Đời người như thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng ḿnh
Hai h́nh ảnh - một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè không thể quên !
Họp mặt
Những cái tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh của 5 ngày t́m về một thời tuổi trẻ  
Kỷ niệm Quân trường: Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Về từ Tân Cảnh  
Cô đơn và ước mơ  
Trên đồi cao  
Phạm Thị Thàng - Nữ anh hùng đất G̣ Công  
Bạn cũ năm mươi năm  
Hương xưa ngày ấy
Đại Bàng gẫy cánh - F5  
Sự thật đời tôi / Trung Tướng Trần Văn Minh  
Thèm 
Sao chổi  
Đừa con dâu

Đại đội 17 "Hoàng Gia" 1 - 2  
Sau cuộc biển dâu  
Những người lính Dù 
Tiễn nhau ngàn dặm cũng chia phôi  
Tấm Poncho
Người bạn học và ông thầy cũ  
Mối hận ngh́n trùng!  
Những mùa Trung Thu  
Tấm ảnh hai người lính  
Tin quan trọng gửi đến các anh em TPB ở Việt Nam
Chim bay về biển  
Văn chương Việt Nam và chữ “Y”  
Hạnh phúc và bất hạnh 
Chữ "Tín"  
Nếu ngày ấy...  
Thuận An 
Thôi ! Ḿnh về Linh Xuân Thôn, đi em !  
Văn hoá phương Nam 
Thức tỉnh  
Sự xâm lăng văn hóa của việt cộng  
Tác giả “Những Đồi Hoa Sim” đă chết trên đồi hoa sim  
Hành trang và lư tưởng
Góp nước miếng húp chung  
Đêm chờ sáng 1975  
Thuốc lào trong tù....  
Người chồng một đêm 
Khóa 8 B+C/72 SQTB/Thủ Đức họp mặt  
Trở về cố hương 
Trôi theo ḍng đời  
Ngộ chiêu  
T́nh người trong cuộc chiến  
Khóc bạn  
Cư An Tư Nguy  
Con c̣n nợ ba
Không Quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Những người chiến sĩ đáng hănh diện
Nắng chiều vẫn đẹp
Hạnh phúc vẫn long lanh
Con Trâu đâu có cải tạo  
Nhớ nhà  
Bác sĩ trong tù  
Nhà bốn anh em 
Tháng Sáu và Tôi  
Chuyện về một cô gái  
Chuyện một người mang tên Nguyễn Thị Di Tản  
Cái giường đôi  
Ưu việt nhất !!!  
Hậu nhân trả lời VC Huỳnh Tấn Mẫm  
Chúng tôi vẫn sống  
Bọt không cần vớt
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa, Chuyện kể từ đầu
Làm sao để chôn hai Chế Độ?
Cà-phê lính
Cuộc trùng phùng bi thảm
Tuổi trẻ nghĩ ǵ ?
Tiển con
Nhớ anh linh Anh hùng Nguyễn Ngọc Trụ
40 năm nhớ về
C̣n đó niềm đau
Viết cho con cháu
Tưởng nhớ bác Thái Văn Kiểm  
Người bạn thân
Người già cả, người bệnh tật
Người tỵ nạn và Việt kiều
Sự ra đi của hai vị Tướng Tư Lệnh
Nhạc Sĩ Thục Vũ
Câu chuyện của Nguyễn Thị Thái Ḥa
Một thoáng Pleiku
Bạn đồng môn khóa 2 CSQG
Quân đội bị quên lăng của Việt Nam Cộng Hoà
Nhạc sĩ Lê Trạch Lựu và bài hát Em Tôi
Bắc Kỳ
Văn chương trào phúng truyền khẩu
Mậu Thân Huế – Nhân chứng sống
Kỷ niệm với Hồ Ngọc Cẩn
Điều c̣n lại sau 40 năm
Thương Tiếc những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù
Anh là áng mây trôi
Tâm thức người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc
Rợp bóng cờ
Trên núi Hoàng Liên
Kư ức mùa Xuân
Để tưởng niệm một người Anh
San Jose, năm hết tết đến
Valentine trong di sản Chiến Tranh
T́nh như gió thoảng
Thằng Thời
40 năm cuộc sống người thương phế binh VNCH  
Ăn Tết thôn quê
Hạt bụi nào trong mắt
Giọt nắng cho người
Gặp tướng Ngô Quang Trưởng Lần Cuối Cùng...
Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam VN
Quê Hương, chùm khế ngọt
Quả tim người tử tù
Anh hùng Ngụy Văn Thà
Người ở lại Hoàng Sa
Trận Hoàng Sa, biểu tượng hội tụ ḷng yêu nước
Ngày 19-01: Tưởng Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Em gái hậu phương Dạ Lan là ai?  
Hồi kư Việt Nam
Để nhớ một thời áo trận
Con dao xếp trong ngày Tết Tây
Người về từ Đại Dương
Lễ Tưởng Niệm Tử Sĩ Hoàng Sa
Lăo Mốc
Lên núi t́m chồng


Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013 
Bài vở cũ 2012