Hành Trang Và Lư Tưởng

Teresa Trần Kiều Ngọc

Lời nói đầu: Rời Việt Nam sang Úc khi c̣n đang học lớp 2, cô Trần Kiều Ngọc đă để lại những cảm xúc thật sâu đậm trong ḷng mọi người qua bài nói chuyện thật sâu sắc – “Hành Trang và Lư Tưởng”, trong buổi Lễ Giỗ Cố GS Nguyễn Ngọc Huy lần thứ 25 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng Người Việt Tự Do NSW/Úc Châu. Để chia sẻ rộng hơn đến các bạn trẻ Việt Nam khắp nơi, cô Kiều Ngọc đă chuyển bài nói chuyện sang tiếng Anh. Cầu mong đại gia đ́nh Việt Nam chúng ta ḥa chung nhịp đập ước mơ cho một Việt Nam tươi sáng và dân chủ. Mong lắm thay!

Con xin kính chào tất cả quư ông bà và tất cả anh chị em.
Hôm nay con xin chia sẻ về chủ đề ‘Hành trang và lư tưởng’. Đây là bài nói chuyện mà một cách đặc biệt con muốn nói với các bạn trẻ. Con xin phép ông bà, cô chú bác, anh chị kiên nhẫn lắng nghe hết tâm t́nh của con, v́ những ǵ con sắp nói đây có thể không có ǵ là mới lạ cả. Con chỉ muốn được nhắc lại với các bạn trẻ trong ngày hôm nay. Để bắt đầu, con xin được dành chút ít thời gian để kể về hành tŕnh trở về quê hương và t́m ơn gọi trong cuộc đời con như thế nào.

Con rời Việt Nam sang Úc khi con c̣n đang học lớp 2. Đối với người lớn thực sự mà nói, họ phải lo toan với muôn vàn khó khăn để làm lại từ đầu trên đất khách quê người. Nhưng với một đứa trẻ như con lúc bấy giờ th́ chỉ buồn nhất v́ không c̣n được nghe và nh́n thấy mặt chữ tiếng Việt khi đến trường nữa. V́ vậy, ngày ngày sau khi tan trường, con lội bộ ṃ mẫm đến một thư viện công cộng để t́m sách tiếng Việt mà đọc. Vào đầu thập niên 90, sách vở Việt Nam lúc bấy giờ c̣n rất khan hiếm. Không có sách thiếu nhi với những h́nh ảnh và màu sắc lộng lẫy như bây giờ! Nhưng chỉ cần lật qua những trang sách trong quyển sách dày cộm với những hàng chữ quen thuộc và các dấu thanh sắc huyền hỏi ngă nặng là con cảm thấy hạnh phúc lắm rồi!

Rồi thời gian cứ dần trôi đi … Những lời văn lột tả về quê hương, về cuộc sống, về con người VN của những nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn như Khái Hưng, Nhất Linh… cũng như những vần thơ u uẩn của bà Huyện Thanh Quan càng ngày càng thấm vào trí năo của con khiến con luôn nghĩ về quê hương Việt Nam. Con rất muốn biết h́nh ảnh của đất nước Việt Nam thật sự như thế nào mà v́ chỉ có một thời gian ngắn ngủi là bảy năm được sống ở quê nhà nên con chưa một lần cảm nghiệm được hết vẻ đẹp của quê hương ḿnh. Vào năm cuối cùng của bậc đại học, con quyết tâm t́m hiểu ơn gọi đi tu. Lẽ dĩ nhiên, nếu dấn thân phục vụ và sống đời tận hiến, con sẽ không chọn nơi nào khác hơn là được phục vụ trên chính quê hương ḿnh.

Con đă chọn tập sự tại Ḍng Tu Phaolô, thành phố Pleiku. Hành trang con mang theo cho chuyến đi chỉ vỏn vẹn có một cỗ chuỗi hạt mân côi để con cầu xin Chúa cho con có được sự b́nh an cùng với một bức h́nh của mẹ con làm niềm an ủi khi con buồn và nhớ mẹ và vài bộ quần áo mà con mang theo. Sau gần hai ngày hành tŕnh, vào một buổi tối mùa đông, con cũng t́m được nơi con muốn đến. Nhà ḍng nằm thoai thoải trên một sườn đồi thơ mộng và ch́m đắm trong sương mù lúc về đêm.

Phải nói, chuyến đi Pleiku như là một định mệnh làm thay đổi thái độ sống và cuộc đời của con. Có ba trải nghiệm mà con luôn ghi khắc trong ḷng. Trải nghiệm thứ nhất là hầu như vào mỗi đêm, con đều nghe văng vẳng tiếng khóc đau đớn của các trẻ mồ côi, khuyết tật. Có những em bẩm sinh đă bị dị dạng, mù ḷa và bất toại, có em vừa mù lẫn cả bất toại. Tiếng khóc của trẻ hoà lẫn với tiếng thở dài của các maseour làm con không sao ngủ được. Việt Nam quả là một đất nước cả ngày lẫn đêm đều ch́m đắm trong đau khổ!

Trải nghiệm thứ hai của con là buổi tối trước ngày khởi hành vào rừng thăm làng phong cùi, con đă thức suốt đêm, mắt trắng dă v́ mường tượng đến cái chết thảm thương của ḿnh sau khi bị lây bệnh cùi. Nỗi sợ hăi đó bao trùm lấy con suốt đêm và luôn cả buổi sáng, suốt chặng đường dài mấy tiếng đồng hồ cho đến khi con đứng trước mặt những người cùi. H́nh ảnh của những thanh niên, cụ già vẫy tay chào đón, bàn tay ngón c̣n ngón mất với những ánh mắt c̣n chút hy vọng xót xa của những trẻ em sinh ra và lớn lên trong làng phong cùi nhảy lên reo mừng v́ có người lạ đến thăm. Mọi sợ hăi về cái chết bỗng chốc đều tan biến trong con. Con nhận ra t́nh yêu mạnh hơn là sự sợ hăi về cái chết. T́nh yêu chiến thắng, vượt xa và bỏ mặc sợ hăi sau lưng.

Trải nghiệm thứ ba làm con nhớ nhiều nhất, đó là hầu như đi đến đâu con cũng thấy người ta hay nói dối. Già trẻ, lớn bé ai cũng biết nói dối. Gặp ai có thể tin được, con đều vặn hỏi họ, tại sao ở đây người ta thích nói dối như vậy. Nhưng cái khổ nhất là ḿnh đă bị lừa mà vẫn cảm thấy xót xa và thương họ vô cùng! Ḿnh không thể bỏ quên họ được. Và nếu bỏ mặc họ, con cho đó là một trọng tội đối với tổ quốc. Dù trải nghiệm đó có xấu xa đi chăng nữa, nó vẫn lại là một sự nhắc nhở giúp con nhớ đến thực trạng tồi tệ của đất nước ḿnh ngày nay. Thực trạng đó đang khát khao chờ mong chúng ta biết yêu thương, đoái hoài nh́n đến để có sự đổi thay.

Bây giờ nh́n lại, con nhận ra hai điều quan trọng trong cuộc sống. Đó là chuẩn bị hành trang cho cuộc hành tŕnh sống có lư tưởng. Đời sống con người là một cuộc hành tŕnh. Chúng ta cần có lư tưởng sống để góp phần vào việc xây dựng, phát triển cho sự trường tồn của đất nước cũng như nhân loại. Cuộc sống không định hướng, không mục đích, là một cuộc sống buồn tẻ, vô vọng. Đây là một cuộc sống đi ngược với định luật tự nhiên v́ con người vốn sinh ra là phải có hy vọng để sinh tồn và phát triển.

Song, có lư tưởng mà không có sự chuẩn bị, suy tính kỹ càng để đạt tới mục đích th́ cũng không khác ǵ là chuyện mơ mộng hăo huyền mà thôi. Con nhớ, Chiến sĩ Vơ Đại Tôn đă từng nói: “Tôi có thể ăn nửa chừng, uống nửa chừng, ngủ nửa chừng nhưng tôi không thể tranh đấu nửa vời”. Chúng ta không thể chỉ bỏ ra chút ít công sức mà đ̣i hỏi nhận lại một kết quả thần kỳ. Chúng ta phải có sự chuẩn bị hành trang cần thiết cho một cuộc hành tŕnh đầy cam go để đi tới đích. Hành trang con muốn nói ở đây là tư tưởng, tư duy, là cách chọn lựa và thái độ hành xử của ḿnh. Lư tưởng cũng như niềm mơ ước của chúng ta phải thực sự h́nh thành trong tư tưởng, trong sự mong muốn cháy bỏng của chúng ta trước khi biến thành hiện thực qua hành động. Mọi việc chúng ta làm ngày hôm nay đều có sự ảnh hưởng nhất định đến tương lai. V́ vậy chúng ta phải có sự chuẩn bị tư tưởng, lập trường và mục đích rơ ràng ngay hôm nay.

Chắc hẳn tất cả mọi người hiện diện nơi đây, đại gia đ́nh của con đều có chung niềm khát khao, ước mơ nh́n thấy quê hương Việt Nam có được dân chủ và tự do. Nếu một ngày đất nước ḿnh thật sự có tự do dân chủ, con nguyện xin bỏ tất cả, nếu có thể, con sẽ cầm cuốc cùng với người dân ḿnh, trồng những hạt lúa mới trên đất nước thanh b́nh của chúng ta.

Nhân dịp kỷ niệm 40 năm người Việt rời bỏ quê hương đi t́m tự do, để trưng dẫn thêm về hành trang tư tưởng, con xin chia sẻ một vài suy nghĩ cá nhân, mà theo con, nếu chúng ta không kịp thời xét lại, nó sẽ cản bước trong cuộc hành tŕnh t́m tự do cho đất nước Việt Nam.

Ơn nghĩa và sức mạnh thật sự
Trước hết con muốn nói về chuyện ơn nghĩa và sức mạnh thật sự. Ở đây con không nói về công ơn của những bậc tiền nhân, của ông bà, cha mẹ và của những người đă hy sinh cả cuộc đời cho chúng con có được ngày hôm nay, để được hưởng tự do và biết bao nhiêu quyền lợi cũng như sống hạnh phúc trên đất nước Úc. Ơn nghĩa đó suốt đời chúng con không quên và chúng con cũng sẽ không bao giờ trả hết. V́ ngày nào c̣n mang ơn th́ ngày ấy thế hệ cao niên và thế hế trẻ chúng con c̣n yêu thương nhau, c̣n kết chặt, c̣n gắn bó, c̣n chung sức để đi suốt chặng đường đấu tranh c̣n lại cho tự do Việt Nam. Tuy nhiên, có một món nợ ơn nghĩa khác mà theo con, chúng ta cần phải thanh toán ṣng phẳng. Đó là món nợ nước Úc đă tiếp nhận và “cưu mang” chúng ta trong suốt 40 năm qua.

Đức tính nhớ ơn của người Việt là một đức tính cao đẹp và chúng ta không phủ nhận việc đề cao vấn đề đền đáp ơn nghĩa. Bốn mươi năm rồi, hầu như hễ có dịp, là chúng ta luôn nhắc đến chuyện ḿnh mang ơn nước Úc. Chúng ta luôn nhắc đến là v́ trên thực tế, chúng ta chưa bao giờ trả hết món nợ đó. Thân phận của người thọ ơn lúc nào cũng ở thế yếu kém, cần sự giúp đỡ, không bao giờ ngang hàng được với những người đă ra ơn giúp ḿnh. V́ c̣n mang ơn quá nhiều, nên chúng ta vẫn chưa thật sự có sức mạnh và ảnh hưởng trên đất nước này. Đối với con, cách trả ơn hay nhất cho nước Úc là bằng chính thành công nỗ lực của chúng ta, đóng góp vào các vai tṛ lănh đạo, kinh tế, truyền thông, chính trị Úc. Chỉ khi nào chúng ta có những đóng góp lớn lao, chúng ta nắm quyền chi phối sức mạnh thương mại, tài chính, công nghệ th́ lúc bấy giờ chúng ta mới thật sự được nể trọng. Lúc qua sông, thuyền là thứ ta cần nhưng khi đă lên bờ, chúng ta phải bỏ nó lại, chúng ta không thể đội thuyền lên đầu mà tiếp tục lên đường. Nếu không, con thuyền sẽ trở thành gánh nặng cho chúng ta. Cũng như thế, khi chúng ta hoạn nạn, nước Úc giúp chúng ta, chúng ta cần trả ơn cho xong, nếu không, việc mang ơn đó sẽ là mối trở ngại lớn cho việc tạo nên sức mạnh và tầm ảnh hưởng thật sự của người Việt trên đất nước này.

Con xin lấy ví dụ về dân tộc Do Thái. Dân tộc Do Thái là dân tộc có bản năng sinh tồn mạnh mẽ. Họ sống lưu vong suốt 2000 năm, bị các dân tộc khác áp bức, bóc lột nhưng họ vẫn tồn tại, phát triển và đạt được những thành tựu lớn cả thế giới phải kính nể. Như Albert Einstein, người đạt giải Nobel năm 1921 cho những đóng góp của ông về vật lư hoặc gần gũi nhất là Frank Lowy ở Úc, một trong những nhà tỷ phú giàu nhất nước Úc với tổng tài sản hiện nay là khoảng $7.5 tỷ Úc. Chưa kể đến rất nhiều người Do Thái nắm các chức vụ lănh đạo trong các ngân hàng lớn trên thế giới. Họ ḥa nhập vào xă hội mới, họ lao động, họ thành công và khi có ảnh hưởng lớn trong xă hội, họ đủ khả năng thay đổi môi trường xă hội đó theo cách thức họ mong muốn.

Nước Úc và các nước giàu mạnh trên thế giới bắt buộc phải đặt quyền lợi của họ trước chuyện bảo vệ hay tương trợ chúng ta. Hiện giờ, nước Úc cho ḿnh rất nhiều thứ, từ việc cho tiền để chúng ta mua, mướn trụ sở, phát triển các dịch vụ an sinh xă hội trong cộng đồng Việt Nam. Đây là quyền lợi của họ và cũng là quyền lợi của ḿnh. Hai quyền lợi đi chung với nhau th́ rất dễ. Nhưng nếu quyền lợi của một VN tự do dân chủ đi ngược lại với quyền lợi của nước Úc th́ liệu họ có c̣n hỗ trợ ḿnh nữa hay không?

Một ví dụ về việc xây cất tượng đài chiến sĩ Úc Việt tại tiểu bang Nam Úc vào năm 2004. Tượng đài chiến sĩ Úc Việt là một h́nh thức nhắc nhở sự kiện những người lính đồng minh Úc trước đây đă cùng sát cánh tranh đấu với những người lính Việt Nam Cộng Ḥa. Tượng Đài cũng là một cách để ghi nhận sự đóng góp của người Việt tại Nam Úc. Lần đó, chính phủ Liên Bang không ủng hộ việc làm này. Họ cũng không cho tiền chúng ta xây cất tượng đài. Họ bị áp lực từ phía chính quyền Cộng Sản Việt Nam. Rất may lúc đó, chính phủ Nam Úc ủng hộ chúng ta, họ đă giúp cho ḿnh một khoảng đất tại trung tâm thành phố Adelaide, tất cả phần c̣n lại là do chúng ta tự bỏ tiền túi mấy trăm ngàn ra để xây. Chúng ta c̣n sẽ tiếp tục làm được và làm hơn thế nữa! Chúng ta phải luôn tự đặt câu hỏi: Nếu nước Úc bỏ rơi ḿnh, cắt giảm hết mọi chi phí, ḿnh có sống được không? T́m hiểu một trong những nguyên nhân khiến miền Nam Việt Nam Cộng Ḥa sụp đổ năm 1975 cho con có cảm tưởng, chúng ta thua v́ hầu như chúng ta thiếu sức mạnh thật sự, chúng ta thiếu sự đoàn kết trong tư tưởng. Khi các đồng minh ngừng cung cấp vũ khí, lính viện trợ, chúng ta thua cuộc, chúng ta trơ trọi một ḿnh. Người Mỹ khóc lóc thương tiếc cho năm mươi mấy ngàn lính Mỹ của họ nhưng không biết họ có thật sự xót xa đau buồn cho mấy triệu người dân Việt Nam của ḿnh không? Chúng ta không thể quá tin tưởng vào bất cứ sự giúp đỡ nào từ bên ngoài mà quên đi sức mạnh của toàn dân Việt Nam, v́ đó mới chính là sức mạnh thật sự của chúng ta.

Làm chính trị – Tham chính và lập trường chính trị
Có một tư tưởng nữa mà con muốn chia sẻ. Phải nói, đây là lời thú tội của con v́ trong quá khứ con đă vấp phạm. Hồi đó, nếu có ai hỏi con có làm hay biết ǵ về chính trị không? Con phản ứng rất nhanh không cần suy nghĩ: “Không, cháu không làm chính trị, cháu không biết ǵ về chính trị hết”. Lúc đó con rất tự hào là ḿnh đă trả lời câu nói một cách khôn ngoan, ḿnh giữ được thái độ trung lập, không đảng phái, quá an toàn cho bản thân. Bây giờ nh́n lại, con mới nhận ra đó mới chính là một câu trả lời chính trị, một câu trả lời ích kỷ, chỉ nghĩ đến sự cầu an cho bản thân. Tư tưởng của con lúc bấy giờ không khác ǵ là nghoảnh mặt làm ngơ, chối bỏ quyền lợi của dân tộc, vong ơn cả với đất nước ḿnh đang sống, nơi con đă hưởng biết bao quyền lợi của một thể chế chính trị tốt đẹp. Lời nói và thái độ đó không khác ǵ phó mặc và đem hai tay dâng hiến dân tộc, đất nước cho những kẻ xấu. Như cố mục sư Martin Luther King đă từng nói: “Thế giới phải ch́m đắm trong đau khổ không phải v́ tội ác của những kẻ xấu, mà là v́ sự im lặng của những người tốt” .

Sau này con t́m được định nghĩa của hai từ chính trị mà con rất tâm đắc: “Chính trị là nghệ thuật vươn tới lănh đạo dân tộc, xây dựng, củng cố và phát triển đất nước, mang lại sự tốt đẹp cho quốc gia dân tộc. Thể chế chính trị của một quốc gia định đoạt số phận hiện tại và chi phối cả tương lai của một quốc gia, trong đó có quyền lợi thiết thực của người dân sống trong quốc gia đó. Vậy có nghĩa là nếu người dân không quan tâm đến chính trị, tức là người dân tự phó mặc số phận của ḿnh cho nhà cầm quyền muốn làm ǵ th́ làm, phó mặc mọi sai lầm, áp bức, bất công, kể cả sự sỉ nhục cứ áp đặt lên đời sống hôm nay và tương lai của ḿnh và của cả một dân tộc.”

Vậy, chính trị là một điều cao quư, đáng được chúng ta tự hào dấn thân vào việc làm chính nghĩa này. Con xin mạn phép giải thích thêm hai chữ chính trị với các bạn trẻ: chính trị có hai h́nh thức khác nhau. Một là tham chính, hai là lập trường chính trị. Ví dụ như các bạn tích cực tham gia vào một đảng phái chính trị nào đó mà các bạn thích, hoặc trở thành bộ trưởng, dân biểu, thượng nghị sĩ … th́ gọi là tham chính. Tuy nhiên, nếu các bạn muốn trở thành bác sĩ, kỹ sư hay bất cứ ngành nghề nào khác và không thích tham chính th́ cũng không sao, nhưng các bạn không thể không có tư tưởng, suy nghĩ hay quan điểm chính trị. Khi các bạn đi bầu cử, biết phân biệt đúng sai về các đường lối chính sách của đất nước, biết phê b́nh hay dở và ít nhiều quan tâm đến t́nh trạng đất nước th́ đó là có lập trường chính trị. Về t́nh h́nh Việt Nam, chúng ta đă biết Cộng Sản là xấu, là ác, là giả dối nhưng khi ai hỏi tới, chúng ta không nói được ít nhất hai chữ ‘giả dối’ đối với Cộng Sản Việt Nam th́ chúng ta phải cần tự xét lại. Nếu người ngoại quốc nh́n vào hàng trăm, hàng ngàn người Việt Nam trả lời như con trước đây th́ chính nghĩa của chúng ta nằm ở đâu? Chúng ta là ai? Ai sẽ sống chết cho quê hương Việt Nam thay chúng ta?

Chúng ta đừng đánh giá thấp thái độ hay việc làm của chúng ta. Chỉ cần mỗi người góp một chút thôi hay có lập trường rơ ràng về chính trị hoặc tham chính là chúng ta đă góp sức mọn để ‘rao giảng chân lư, sự thật’ và giúp cho dân tộc VN sớm ngày thoát ách Cộng Sản. Hiện nay, nước Việt Nam có 90 triệu dân, chỉ cần chấm dứt chế độ Cộng Sản sớm một ngày th́ chúng ta sẽ bớt được 90 triệu ngày đau khổ cho người dân. Chế độ Cộng Sản c̣n tồn tại thêm một ngày, th́ người dân phải hứng chịu thêm 90 triệu ngày ch́m trong bể khổ.

Sợ hăi
Để kết thúc bài chia sẻ này, con xin kể một câu chuyện về sợ hăi. Như chúng ta biết, sợ hăi đă làm thay đổi thế giới, giết chết niềm tin, hy vọng và lạc quan. Ḷng người tan ră v́ lo sợ.
Chuyện thần thoại Ả Rập kể rằng:
Một hôm dịch tả gặp đoàn thương gia tiến về thủ đô Bát-đa. Người dẫn đầu đoàn xe hỏi hắn:
– Dịch tả đi đâu mà vội vàng thế?
Dịch tả trả lời ngắn gọn:
– Ta về Bát-đa giết hại năm ngàn mạng người.
Vài ngày sau đó, trên đường từ Bát-đa trở về, đoàn thương gia lại gặp dịch tả. Người hướng dẫn đoàn tức giận mắng hắn:
– Nhà ngươi nói rằng chỉ giết hại có năm ngàn người, vậy mà bây giờ con số người chết tại bát-đa lên đến năm chục ngàn. Nhà ngươi thật dối trá.
Dịch tả ôn tồn trả lời:
– Không, ta nói thật. Ta chỉ giết có năm ngàn người không hơn không kém. Chính là nỗi lo sợ đă giết chết số người đông đảo c̣n lại đó.

Câu chuyện thần thoại cho ta thấy ‘sợ hăi’ không thể giết chết chúng ta. Điều giết chết chúng ta là những ǵ từ trong tư tưởng mà ra. Mấy đêm trước khi con soạn bài nói chuyện này, con cũng rất sợ. Con sợ những ǵ con nói sẽ không được mọi người đón nhận và thương mến con. Nhưng con tự nghĩ, con là con cháu của Vua Hùng, của Lư Lê Trần, của Hai Bà Trưng..tất cả mọi người ở đây cũng giống như con, đều là con cháu của Quang Trung. Chúng ta có một sợi dây vô h́nh liên kết chúng ta lại, đó là t́nh yêu thương của giống ṇi. Nếu đứng trước nguy cơ diệt chủng, t́nh yêu thương đó chắc chắn sẽ được bộc lộ một cách rơ rệt hơn nữa. Vậy th́ đứng trước đại gia đ́nh của con, cớ ǵ mà con phải sợ nói lên những điều ḿnh nghĩ.

Muốn tranh đấu cho một lư tưởng cao đẹp, ta phải t́m thấy sự b́nh an trong chính nghĩa và tin tưởng vào con đường chân lư ḿnh đi. Nếu bỏ cuộc nửa chừng là v́ chúng ta chưa đủ niềm tin, chưa đủ thiết tha và sẵn sàng chết cho lư tưởng của ḿnh. T́nh yêu thật sự không biết đến sợ hăi. Có một câu nói của Thánh Nhân: “T́nh yêu không biết sợ hăi; trái lại, t́nh yêu hoàn hảo loại trừ sợ hăi, v́ sợ hăi gắn liền với h́nh phạt và ai sợ hăi th́ không đạt tới t́nh yêu hoàn hảo.”

Một trong những bài diễn văn nổi tiếng nhất của thế kỷ XX là bài diễn văn của Cố Mục Sư Martin Luther King, người đă bị giết hại năm 1968 v́ tranh đấu cho quyền b́nh đẳng của người da đen tại Hoa Kỳ: “Tôi có một giấc mơ, tôi mơ rằng một ngày nào đó mọi thung lũng đều được bạt đi, những nơi cong queo sẽ được làm cho bằng phẳng, và những chỗ ngoằn ngoèo sẽ được kéo cho ngay thẳng”.

Tổng thống Abraham Lincoln đă bị sát hại v́ lư tưởng dân chủ và b́nh đẳng. Cố mục sư Martin Luther King cũng cùng chung số phận. Tổng thống Nelson Mandela đă phải trải qua 27 năm tù v́ tranh đấu cho tự do và b́nh đẳng. Những con người này không chỉ có những lời nói để thuyết phục mà họ c̣n nói bằng chính mạng sống của ḿnh. “Tự do tôn giáo hay là chết”, hoặc “tự do dân chủ hay là chết”. Những người dám giương cao những khẩu hiệu như thế trong một chế độ độc tài, chối bỏ tất cả những quyền tự do cơ bản con người thật đáng được chúng ta noi theo. Nói như TổngThống Nelson Mandela: “Đó là một lư tưởng mà nếu cần tôi sẵn sàng chết cho lư tưởng đó “. Thật ra, đó không chỉ là lư tưởng mà c̣n là một đ̣i hỏi của ơn gọi làm người Việt Nam. Sống cho sự thật, sẵn sàng chết cho sự thật! Không uốn cong lưỡi để cầu thân nịnh bợ, không thỏa hiệp để được chút đặc ân hay không dễ dăi, dối trá để cho xuôi thuận công việc. Nếu muốn sống như thế th́ có khác ǵ là chết trong dai dẳng, nhọc nhằn rồi c̣n ǵ nữa!

Tuổi trẻ trong nước đă hy sinh mạng sống v́ lư tưởng tự do dân chủ cho Việt Nam. Hỡi tuổi trẻ Việt Nam ở hải ngoại, chúng ta c̣n sợ, c̣n chần chờ ǵ nữa! Chuyến đi của cuộc đời chúng ta rồi cũng có lúc sẽ kết thúc. Nếu có sợ, th́ chỉ sợ trước khi nhắm mắt, chúng ta đă chưa từng dám sống cho sự thật và lư tưởng để rồi không c̣n ai trên mặt đất này biết đến tinh thần bất khuất của giống ṇi, của những người Việt Nam máu đỏ da vàng!

Teresa Trần Kiều Ngọc

 


VĂN CHƯƠNG

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả

Cây viết Bất Khuất

42 năm t́nh cảm đồng môn  
42 Năm T́nh  
Chúc mừng hội ngộ  
Tôi và Tiểu Đoàn 7 TQLC  
Thơ gửi Đại Gia 
Dấu ấn vào đời  
USA 20 năm và Tôi  
Hăy c̣n đó niềm tin  
Pleiku và hoài niệm  
Kư sự những ngày tháng 2  
Một mảnh đời  
Xuân quê hương
Một chuyến về thăm nhà
Tết đến
Một buổi chiều, hai người già
Đời người như thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng ḿnh
Hai h́nh ảnh - một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè không thể quên !
Họp mặt
Những cái tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh của 5 ngày t́m về một thời tuổi trẻ  
Kỷ niệm Quân trường: Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Về từ Tân Cảnh  
Cô đơn và ước mơ  
Trên đồi cao  
Phạm Thị Thàng - Nữ anh hùng đất G̣ Công  
Bạn cũ năm mươi năm  
Hương xưa ngày ấy
Đại Bàng gẫy cánh - F5  
Sự thật đời tôi / Trung Tướng Trần Văn Minh  
Thèm 
Sao chổi  
Đừa con dâu

Đại đội 17 "Hoàng Gia" 1 - 2  
Sau cuộc biển dâu  
Những người lính Dù 
Tiễn nhau ngàn dặm cũng chia phôi  
Tấm Poncho
Người bạn học và ông thầy cũ  
Mối hận ngh́n trùng!  
Những mùa Trung Thu  
Tấm ảnh hai người lính  
Tin quan trọng gửi đến các anh em TPB ở Việt Nam
Chim bay về biển  
Văn chương Việt Nam và chữ “Y”  
Hạnh phúc và bất hạnh 
Chữ "Tín"  
Nếu ngày ấy...  
Thuận An 
Thôi ! Ḿnh về Linh Xuân Thôn, đi em !  
Văn hoá phương Nam 
Thức tỉnh  
Sự xâm lăng văn hóa của việt cộng  
Tác giả “Những Đồi Hoa Sim” đă chết trên đồi hoa sim  
Hành trang và lư tưởng
Góp nước miếng húp chung  
Đêm chờ sáng 1975  
Thuốc lào trong tù....  
Người chồng một đêm 
Khóa 8 B+C/72 SQTB/Thủ Đức họp mặt  
Trở về cố hương 
Trôi theo ḍng đời  
Ngộ chiêu  
T́nh người trong cuộc chiến  
Khóc bạn  
Cư An Tư Nguy  
Con c̣n nợ ba
Không Quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Những người chiến sĩ đáng hănh diện
Nắng chiều vẫn đẹp
Hạnh phúc vẫn long lanh
Con Trâu đâu có cải tạo  
Nhớ nhà  
Bác sĩ trong tù  
Nhà bốn anh em 
Tháng Sáu và Tôi  
Chuyện về một cô gái  
Chuyện một người mang tên Nguyễn Thị Di Tản  
Cái giường đôi  
Ưu việt nhất !!!  
Hậu nhân trả lời VC Huỳnh Tấn Mẫm  
Chúng tôi vẫn sống  
Bọt không cần vớt
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa, Chuyện kể từ đầu
Làm sao để chôn hai Chế Độ?
Cà-phê lính
Cuộc trùng phùng bi thảm
Tuổi trẻ nghĩ ǵ ?
Tiển con
Nhớ anh linh Anh hùng Nguyễn Ngọc Trụ
40 năm nhớ về
C̣n đó niềm đau
Viết cho con cháu
Tưởng nhớ bác Thái Văn Kiểm  
Người bạn thân
Người già cả, người bệnh tật
Người tỵ nạn và Việt kiều
Sự ra đi của hai vị Tướng Tư Lệnh
Nhạc Sĩ Thục Vũ
Câu chuyện của Nguyễn Thị Thái Ḥa
Một thoáng Pleiku
Bạn đồng môn khóa 2 CSQG
Quân đội bị quên lăng của Việt Nam Cộng Hoà
Nhạc sĩ Lê Trạch Lựu và bài hát Em Tôi
Bắc Kỳ
Văn chương trào phúng truyền khẩu
Mậu Thân Huế – Nhân chứng sống
Kỷ niệm với Hồ Ngọc Cẩn
Điều c̣n lại sau 40 năm
Thương Tiếc những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù
Anh là áng mây trôi
Tâm thức người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc
Rợp bóng cờ
Trên núi Hoàng Liên
Kư ức mùa Xuân
Để tưởng niệm một người Anh
San Jose, năm hết tết đến
Valentine trong di sản Chiến Tranh
T́nh như gió thoảng
Thằng Thời
40 năm cuộc sống người thương phế binh VNCH  
Ăn Tết thôn quê
Hạt bụi nào trong mắt
Giọt nắng cho người
Gặp tướng Ngô Quang Trưởng Lần Cuối Cùng...
Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam VN
Quê Hương, chùm khế ngọt
Quả tim người tử tù
Anh hùng Ngụy Văn Thà
Người ở lại Hoàng Sa
Trận Hoàng Sa, biểu tượng hội tụ ḷng yêu nước
Ngày 19-01: Tưởng Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Em gái hậu phương Dạ Lan là ai?  
Hồi kư Việt Nam
Để nhớ một thời áo trận
Con dao xếp trong ngày Tết Tây
Người về từ Đại Dương
Lễ Tưởng Niệm Tử Sĩ Hoàng Sa
Lăo Mốc
Lên núi t́m chồng


Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013 
Bài vở cũ 2012