Lâm Văn Bé
Sau năm 1975, người Việt Nam bỏ nước ra đi tị nạn đă bị Cộng Sản gọi
bằng những danh từ khác nhau. Những danh từ nầy mang những hậu ư
chính trị gian xảo, do đó việc t́m hiểu ư nghĩa chính xác những danh
từ nầy thật cần thiết để chúng ta sử dụng chính xác trong từng
trường hợp.
Người tị nạn.
Khi vào cưỡng chiếm đất miền Nam, cưỡng đoạt tài sản dân miền Nam,
Cộng Sản đă gọi tất cả dân miền Nam là bọn Mỹ Ngụy. Đối với người
dân có cơ may vượt thoát được bằng những cuộc vựơt biển, vượt biên
để xin tị nạn ở các xứ tự do, cộng sản dùng nhiều danh từ thô tục để
điểm mặt người tị nạn.
Trước tiên, trong một hội nghị với các cán bộ tại Hà nội năm 1975,
Trần Phương, Chủ nhiệm Ủy Ban Khoa học Xă hội đă ví von một cách tục
tĩu dân miền Nam là những con điếm cho Mỹ làm t́nh để đổi lấy viện
trợ. Cùng trong tư tưởng dâm ô ấy, Lê Duẩn mạt sát những người di
tản là một bọn ma-cô, đĩ điếm, Phạm văn Đồng chửi người ra đi là bọn
phản quốc, và các nhà báo nhà văn cộng sản, kể cả bọn cộng sản 30
cũng chửi hùa theo là những đồ rác rưởi trôi dạt khắp năm châu bốn
bể. cặn bả xă hội, trây lười lao động, chạy theo bơ thừa sửa cặn » .
Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế c̣n hằn học hơn khi tuyên
bố trong một cuộc phỏng vấn năm 1993 tại Amsterdam: Những người di
tản đáng bị chặt đầu.
Nhưng chẳng bao lâu, Cộng Sản hiện nguyên h́nh là bọn gian manh. Năm
1990, khi Cộng Sản bắt đầu nhận tiền của người tị nạn gởi về, bọn đĩ
điếm được cộng sản «nâng cấp» lên là Việt kiều, và ân t́nh hơn, Đỗ
Mười tuyên bố Việt Kiều là những khúc ruột ở bên ngoài ngàn dặm của
dân tộc.
Tưởng cần hiểu từ nguyên chữ Việt kiều để thấy rơ thâm ư của Cộng
Sản. «Kiều» chữ Hán có nghĩa là ở nhờ, ở làng khác hay nước khác
được dùng làm tỉnh từ cho những danh từ như «kiều dân» là người sống
ở ngoài lănh thổ mà người đó đă được sinh ra, «kiều bào» là đồng bào
ở nước ngoài. Dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, người Hoa sống ở VN được
gọi là Hoa Kiều và chế độ Hà Nội gọi những người Việt sống ở nước
ngoài và ủng hộ họ là «Việt kiều yêu nước».
Người Việt bỏ xứ ra đi tị nạn không phải là Việt kiều, kiều bào, v́
những người nầy đă không chấp nhận chế độ Cộng Sản, đă sinh cơ lập
nghiệp vĩnh viễn trên một quốc gia khác, đă có quốc tịch của một
quốc gia khác. Gọi người tị nạn là Việt kiều, Cộng Sản có gian ư là
muốn «tóm thâu» cái khối chất xám nầy là «con dân» của họ, c̣n đặt
dưới quyền sinh sát của họ. Nghị định số 78/2009/NĐ ngày 22/09/2009
về luật quốc tịch xác định rơ quan niệm nầy, theo đó bao giờ người
mang quốc tịch VN chưa được chính phủ VN cho phéptừ bỏ quốc tịch,
người ấy vẫn c̣n quốc tịch VN dù rằng người ấy đă có quốc tịch Mỹ,
Canada, Úc…Càng lộng ngôn và ngang ngược hơn, với con cháu của người
Việt tị nạn, dù sinh ra và lớn lên tại các quốc gia của ông cha họ
đă định cư, cộng sản cũng xem những người nầy vẫn có quốc tịch Việt
Nam nếu chưa phép làm đơn xin bỏ quốc tịch và chưa được chính phủ VN
chấp thuận.
Về điểm nầy, chúng ta thấy rơ chánh sách trơ tráo, đánh lận con đen
của Cộng Sản. Theo điều 13, khoản 2, Luật Quốc tịch sửa đổi năm 2008
, «Người VN định cư ở nước ngoài vẫn có quốc tịch VN. Sau 5 năm từ
khi luật nầy có hiệu lực, kiều bào phải đến cơ quan đại diện của
chính phủ VN tại nước ngoài để đăng kư xin giữ quốc tịch, nếu không,
sau ngày 1/7/2014 sẽ mất quốc tịch».
Sau 5 năm, chỉ có khoảng 6000 người ghi tên xin giữ quốc tịch. Trái
với dự tính v́ số người xin giữ quốc tịch quá ít, tháng 7/2014, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng kư luật gia hạn cho người muốn giữ quốc tịch
thêm 5 năm nữa, tức là sẽ chấm dứt ngày 1/7/2019.
Ngôn từ Cộng Sản thật lươn lẹo, lật lọng. Cho đến ngày 1/7/2019,
người Việt ở hải ngoại mặc nhiên vẫn c̣n quốc tịch VN, vẫn bị chi
phối bởi Luật quốc tịch VN giải thích «rộng răi» theo luật rừng.
Chính bà Ngô Bá Thành, chuyên viên xách động xuống đường thời VNCH,
được CS phong cho chức Chủ nhiệm Ủy Ban Pháp Luật của Quốc Hội đă ví
von : Việt Nam có một rừng luật và áp dụng luật rừng.
Và cho đến đầu năm 2014, chính phủ VN vẫn c̣n khư khư giữ quan niệm
cha chú nầy với người Việt tị nạn. Trong bài huấn từ của Nguyễn
Thanh Sơn, Thứ Trưởng Bộ Ngoại giao đặc trách Cục Người Việt nước
ngoài đă nhắn nhủ cho phái đoàn «Việt Kiều yêu nước» về quê ăn Tết,
ông nhắc lại lời của Thủ Tướng Vơ Văn Kiệt 20 năm trước như sau :
«Cộng đồng người Việt ra đi sau chiến tranh và định cư ở nước ngoài
rất đặc thù, không giống các cộng đồng ngoại kiều khác. Những thuyền
nhân ra đi đa số là v́ mục tiêu kinh tế chứ không phải mục đích
chính trị. Có bộ phận những người ra đi sau cuộc chiến tranh mang
theo tư tưởng hận thù của những người thua trận và được tuyên truyền
rất nhiều điều ghê sợ không có thực về chủ nghĩa cộng sản ... Nghị
quyết 36 của Bộ Chính trị đă khẳng định rơ chủ trương, chính sách
của đảng, nhà nước, coi cộng đồng người Việt nam ở nước ngoài là bộ
phận không tách rời của dân tộc Việt Nam, tức là những người máu mủ
ruột thịt thực sự, không phân biệt đó là thành phần nào, đó là ai.
(Xuân quê hương 2014 – danlambao 3/2/2014).
Đối với những Việt Kiều yêu nước, Cộng Sản muốn gọi tên ǵ th́ cứ
gọi và sai bảo điều ǵ th́ cứ làm. Nhưng đối với người Việt tị nạn
Cộng Sản, họ không phải là Việt kiều mà là người Mỹ, người
Canadiens, người Pháp, người Úc, người Đức gốc Việt… Phải gọi chính
danh như vậy và phải tôn trọng quyền chọn lựa của họ là không chấp
nhận chế độ cộng sản.
Việt Kiều và Nghị Quyết 36.
Không người Việt tị nạn nào ngu xuẩn tự xưng ḿnh là Việt kiều, nếu
có, đó là những Việt kiều yêu nước. Tưởng cần biết qua lai lịch của
những Việt kiều yêu nước nầy.
Đa số những Việt Kiều nầy là những sinh viên xuất ngoại du học từ
thời Việt Nam Cộng Ḥa nhờ học bổng của Plan Colombo hay các quốc
gia Âu Mỹ. Từ cuối năm 1970, một số con em của những người có thế
lực, nhà giàu cũng được xuất ngoại tự túc. Những sinh viên có học
bổng sau khi hết học bổng không chịu về nước v́ sợ đi quân dịch, nên
t́m cách ở lại tại các quốc gia đă du học một cách bất hợp pháp.
Phương thức thông thường là kết hôn với người dân sở tại để có quốc
tịch, và để biện minh cho hành động hèn nhát, họ chạy theo các phong
trào sinh viên phản chiến ở Pháp, Mỹ, Canada để chống chiến tranh
Việt Nam mà theo họ là do Mỹ và chế độ quân phiệt miền Nam chủ động.
Họ được cộng sản lợi dụng để tuyên truyền và được phong danh hiệu là
Việt kiều yêu nước. Sau 1975, nhiều đám sinh viên phản chiến phản
quốc nầy từ Nhựt, Âu châu, Mỹ chạy sang Canada xin tị nạn cùng lúc
với thân nhân của họ vừa di tản đến. Họ trương cờ đỏ sao vàng ở
những tụ điểm của họ, một số xin về nước để lấy uy với bạn bè, nhưng
chính phủ cộng sản lạnh lùng với họ, có khi c̣n bắt họ bởi lẽ cộng
sản dư biết những Việt kiều yêu nước nầy chỉ là bọn hèn, theo đóm ăn
tàn.
Từ cuối thập niên 1990 xuất hiện thêm một số Việt kiều yêu nước già,
nguyên gốc là HO, có học và vô học, v́ không hội nhập được vào xă
hội định cư nên đi đi về về Việt Nam để sống với tiền xă hội của
quốc gia định cư, một số khác thất nghiệp muốn về VN để kiếm việc,
làm ăn buôn bán. Để đạt được ư định, họ lập công với cộng sản bằng
những mưu chước hèn hạ, phản bội lại đồng hương và đồng đội họ, xâm
nhập vào các hội đoàn, cơ quan ngôn luận để quấy phá. Nghị Quyết 36
nhờ sự tiếp tay của những Việt Kiều trở cờ phản bội nầy.
Nhiều người Việt tị nạn không biết hay xem thường những tác hại của
Nghị Quyết 36 viện lẽ không làm chính trị. Ban hành vào tháng 3 năm
2004, Nghị Quyết 36 nhằm mục đích chiêu dụ người Việt ở hải ngoại về
nước và đem tài sản về nước để gọi là đầu tư, đồng thời t́m cách
khống chế lực lượng người Việt ngoài nước. Nói chung, Nghị Quyết 36
có thể tóm lược trong 5 điểm:
- Giúp người tị nạn trong việc sinh sống
- Giúp người tị nạn đoàn kết lẫn nhau
-Thu góp tiền bạc và chất xám
- Biện pháp đối với các thành phần chống lại chánh phủ và Đảng ở hải
ngoại
- Tổ chức văn hóa vận và t́nh báo ở hải ngoại
Nhận định từng điểm, NQ 36 mang bản chất gian xảo, trịch thượng .
Làm sao CS có khả năng và uy tín giúp người Việt hải ngoại trong
cuộc sinh sống trong khi họ đă đẩy đa số người dân trong nước đến
chổ bần cùng và mất cả đạo lư, và càng tệ hại hơn, họ xuất cảng tệ
trạng ăn cắp tràn lan tại những nơi mà cán bộ của họ đi qua, làm xấu
xa dân tộc. Tại Nhật, Mă Lai, Thụy Điễn, nhiều cửa hàng treo bảng
hiệu : Cảnh cáo Ăn cắp vặt, No dogs, no Vietnamese.
Họ nói giúp người tị nạn đoàn kết với nhau, nhưng thực sự họ đưa
công an và Việt kiều yêu nước xâm nhập các đoàn thể để gây đố kỵ,
đánh phá nhau. Chuyện thu góp tài sản th́ quá rơ, từ việc gởi tiền
đến Việt kiều du lịch mang về nước tiêu xài cung cấp cho cộng sản
12% GDP, duy chỉ có chuyện thu góp chất xám là một cuộc thảm bại .
Một số tác hại của NQ 36 đă thấy rơ trong một số công tác chiến lược
như sau:
- Trường dạy tiếng Việt và sinh hoạt tập thể cho thanh thiếu nhi là
ḷ huấn luyện, tuyên truyền
Tại những nơi có đông đảo người Việt, cán bộ cộng sản chủ động hay
hợp tác với các đoàn thể, tư nhân mở trường dạy tiếng Việt, đưa sách
báo từ VN sang, hay soạn sách theo quan điểm tuyên truyền cho cộng
sản. Những buổi sinh hoạt tập thể là những cơ hội thuận lợi để cán
bộ hay thầy cô thân cộng rỉ tai, hướng dẫn những măng non theo tư
tưởng cộng sản. Tùy mức độ ảnh hưởng, chính sách văn hóa vận nầy tạo
một tư tưởng chống đối của giới trẻ với ông cha trong công cuộc
chống cộng.
Trong đại hội «Tổng kết 10 năm thực hiện NQ36 và công tác đối với
người Việt nước ngoài» ngày 22 tháng 5, 2014, Thứ Trưởng Giáo Dục
Trần Quang Quư đă có chỉ thị rơ rệt «…Cần sớm có quy chế về việc dạy
tiếng Việt cho người Việt nước ngoài, đặc biệt thế hệ thứ ba, thứ tư
để việc kết nối giao lưu được thuận lợi…»
- Xâm nhập các cơ quan truyền thông
Cộng Sản đă tung ra hàng triệu mỹ kim để thành lập, hùn vốn để mua
chuộc các cơ sở truyền thông ở hải ngoại, bề mặt chửi bới Cộng Sản
linh tinh, nhưng thỉnh thoảng gài vào những bản tin, bài viết vận
động chính trị chiến lược có lợi cho cộng sản. Trong bản tổng kết
Hội nghị Người Việt nước ngoài lần thứ hai từ ngày 27-29 tháng 09
năm 2012 ở TP Hồ Chí Minh, Thứ Trưởng Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy
Ban Người Việt nước ngoài đă nói rơ chương tŕnh hành động: «Tăng
cường công tác thông tin đối ngoại , tăng cường đầu tư cho các
chương tŕnh dành cho người Việt ở nước ngoài như đài phát thanh,
TV, báo chí, thông qua tổ chức các buổi giao lưu văn hóa, nghệ
thuật, triễn lăm tranh ảnh về đất nước, các hoạt động từ thiện, du
lịch, sinh hoạt khoa học, sinh hoạt các nhóm trong cộng đồng người
Việt hải ngoại…»
Khuynh đảo, lừa gạt, xảo trá là sở trường của Cộng Sản. Chúng áp
dụng kỹ chiến thuật tuyên truyền của Goebbels (Bộ Trưởng Thông tin
Tuyên truyển của Đức Quốc Xă) : Nhắc đi nhắc lại hoài một sự việc
không đúng sự thật, ban đầu người ta không tin, lần lần người ta bán
tin bán nghi sau cùng người ta tin là sự thật. Internet và báo chí
là những phương tiện hữu hiệu dể chúng bôi lọ những người quốc gia
tranh đấu chân chính, làm yếu đi lực lượng chống cộng. để từ đó
chúng đưa người của chúng vào các hội đoàn. Nhiều tổ chức tranh đấu
chính trị đă bị chẻ làm đôi, làm ba và khi các cộng đồng hay tổ chức
này bị chúng đánh cho yếu đi hay tan vỡ th́ chúng dùng tiền để mua
chuộc đám Việt kiều - Việt gian nhảy ra làm b́nh phong cho chúng
hoạt động. Mặc dù chúng dùng mọi mưu chước nhưng cho đến nay, chúng
vẫn không thành công lắm trong công tác vận động quần chúng ở Bắc
Mỹ, Úc và vài quốc gia ở Tây Âu.
Nhưng Cộng Sản có hai bộ mặt chồng chéo nhau : dịu ngọt và bạo lực.
Tạp chí Cộng Sản gần đây đă viết: «…Tính đến nay, có hơn 100 tổ chức
chính trị phản động người VN ở hải ngoại đang nuôi chí phục thù nhằm
thực hiện ư đồ đen tối phục quốc. Cầm đầu các hội, các nhóm trên là
những phần tử cực đoan, từng là ngụy quân ngụy quyền cũ, có nhiều nợ
máu với cách mạng. Chúng đă, đang móc nối, cấu kết chặt chẻ với nhau
và với bọn phản động trong nước để hoạt động chống phá cách mạng
nước ta …» (TCCS. Phát huy vai tṛ của Cộng đồng
http://tapchicongsan.orgvn ngày 28/05/2013)
Chánh sách vừa chiêu dụ vừa khủng bố của Cộng Sản đă có tác dụng
phần nào trên các vùng đất có người Việt định cư ở Bắc Âu và Đông
Âu, nơi có đông đảo người lao động xuát khẩu, di dân bất hợp pháp và
du sinh. Trong thập niên qua, các ṭa đại sứ hay lănh sự Cộng sản đă
nỗ lực thiết lập 13 cộng đồng người Việt theo chủ trương của NQ 36:
«… Nếu chúng ta phát huy cao độ các lợi thế của các lực lượng người
Việt Nam ở nước ngoài để phân hóa, cô lập các lực lượng phản động
th́ chúng ta có thể hạn chế một cách hiệu quả, thiết thực các thế
lực thù địch…». Mười ba cộng đồng cộng sản nầy là : 4 tại các quốc
gia trước đây là cộng sản (Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga, Đông Đức), 4 tại
các quốc gia có nhiều lao động xuất khẩu (Hàn Quốc, Đài Loan, Qatar,
Angola), 5 tại các quốc gia ít có người tị nạn (Na Uy, Thụy Điển,
Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Sĩ – ( chú thích: tại Thụy Sĩ c̣n có một
cộng đồng chống Cộng của người Việt tị nạn). Các chủ tịch các cộng
đồng nầy là người cộng sản, chỉ làm bù nh́n, việc điều khiển Cộng
Đồng do sứ quán hay ṭa lănh sự đảm nhiệm theo quyết định Q12 năm
2008 (Mobiliser les Vietnamiens à l’étranger, p.50).
Ngày 18 tháng 8 , 2014, Trung ương đảng đă tổ chức một cuộc «mạn
đàm» tại Praha (Tiệp Khắc) qui tụ những nhân vật cao cấp của Bộ
Chính Trị từ trong nước và các đại sứ, đại diện 14 cộng đồng người
Việt ở Đông Âu, Bắc Âu , kể cả Thụy Sĩ, Anh, Bỉ để «trao đổi công
tác xây dựng tổ chức, vận động quần chúng, lôi cuốn giới trẻ tham
gia và phát huy các sinh hoạt cộng đồng»
- Gởi sư quốc doanh ra hải ngoại lập chùa, tu viện
Chùa là nơi gia đ́nh người Việt tị nạn gặp nhau để lễ Phật, niệm
kinh, và c̣n là nơi sinh hoạt xă hội, văn hóa. Biết như vậy, Nguyễn
Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy Ban Người Việt nước ngoài đă kư kết với Ḥa
Thượng Thích Thanh Tứ (Tứ chớ không phải Thích Thanh Từ) Phó Chủ
tịch Hội Đồng Trị sự Giáo Hội Phật giáo VN ngày 16 /07/2009 một văn
kiện nhằm «phối hợp cộng tác phât sự ở nước ngoài, mở rộng quan hệ,
hoạt động của giáo hội sang các nước có đông kiều bào sinh sống». Từ
mươi năm nay, tại hải ngoại có nhiều chùa, tu viện được thành lập,
mà sinh hoạt chùa không theo truyền thống tôn nghiêm của Phật pháp.
Những ngôi chùa nầy tổ chức đại nhạc hội, du lịch, thi hoa hậu và
nhiều sinh hoạt của đời thường. Một số thầy chùa, sư nữ gốc là công
an, tác phong không phù hợp với người tu hành, làm người phật tử
chân chính chán ngán. Ngôi chùa trở nên cơ sở kinh tài cho cá nhân
và đảng, sư quốc doanh làm công tác báo cáo, tuyên truyền cho chế
độ. Nghị Quyết 36 đă làm tổn hại rất nhiều đời sống tâm linh của
người tị nạn.
Người Việt ở hải ngoại
Ngoài ra, chúng ta thường có thói quen gọi chúng ta thuộc cộng đồng
người Việt hải ngoại (diaspora) mà Cộng Sản gọi là người Việt nước
ngoài. Nếu từ ngữ nầy đúng với tất cả các sắc tộc khác nhưng đối với
người Việt, có khi không đúng hẳn bởi lẽ trong số người Việt hải
ngoại lại có thêm những người không phải là người tị nạn. Đó là
những người xuất khẩu lao động, di dân kinh tế hợp pháp và bất hợp
pháp, các du học sinh thân cộng hay theo Cộng. Hiểu như vậy, sự
chính xác của từ ngữ sử dụng cần phân biệt theo nội dung và hoàn
cảnh.
Bảng 1- Tổng số người Việt tị nạn Cộng Sản ở hải ngoại
Quốc gia Số người
Nguồn
Hoa Kỳ
1 548 450
US Census 2010
Úc
233 390
Census Explorer 2011
Canada
220 420
Canada Census 2011
Pháp
200 000
Các nhà biên khảo ở Pháp
Đức
125 000
Wikipedia và một số nguồn liệu
Anh
65 000
UK Census 2011& phỏng định
Tây/Bắc Âu 100 000
Các nguồn từ địa phương
Tổng cộng 2 492 260
Nguồn: Lâm Vĩnh B́nh.
Bảng 2- Số người Việt xuất khẩu lao động, du sinh, định cư hợp pháp
và bất hợp pháp tại hải ngoại (Việt Kiều)
Đông Âu
Số người
Á Châu
Số người
Nga
46 000
Đài Loan
180 000
Tiệp Khắc
50 000
Hàn Quốc
120 000
Ba Lan
20 000
Mă Lai
85 000
UKraine
10 000
Trung Quốc
30 000
Slovakia
5 000
Nhựt
38 000
Áo
5 000
Cambốt
600 000
Hungary
4 000
Thái Lan
100 000
Azerbeijan
10 000
Trung Đông 10
000
Lào
20 000
Angola
40 000
Bangladesh
27 000
Cộng
200 000
1 200 000
Tổng cộng : 1 400 000
Nguồn :
- Người Việt ờ nước ngoài www.vietkieu.info;
- Wikipedia,
- Migration Policy Institute.
- World Facts Book
Chú thích :
Bảng thống kê trên, tuy xuất xứ từ các cơ quan thẩm quyền nhưng chỉ
là những con số ước lượng gồm có:
- 700 000 người Việt ở Cambốt, Thái Lan và Lào là người Việt đă sống
lâu đời nhiều thế hệ tại các quốc gia nầy, đại đa số đă nhập tịch.
Về người Việt ở Cambot, số thống kê chỉ là phỏng định v́ quốc gia
nầy không có thống kê. Theo Wikipedia, và World Facts Book, người
Cambốt gốc Việt chiếm 5% dân số tức khoảng 600 000 người. Bertrand
Didier trong bài Vietnamiens au Cambodgevà Annuska Derks trong A
picture of the Vietnamese in Cambodia tŕnh bày chi tiết các giai
đoạn di cư, định cư, diện mạo của người Việt ở Cambốt (có thể đọc
online).
Migration Policy Institute thiết lập thống kê người di dân VN
(immigrants) vào tháng 9 năm 2013 dựa vào ước lượng của United
Nations Population Division công bố một con số thấp hơn chỉ gồm
người di cư xuất khẩu lao động: Cambot: 37 000, Lào: 11 000, Thái
Lan: 6000.
- 700 000 người ở Đài Loan, Hàn Quốc, Mă Lai, Nhựt, Trung Quốc, Đông
Âu , Nga, Bangladesh, Trung Đông và Phi Châu. Dân số VN tại các quốc
gia nầy thuộc nhiều diện khác nhau:
- một số là cư dân hợp pháp phần lớn là phụ nữ lấy chồng người Đài
Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mă Lai và những du học sinh tại các quốc
gia Đông Âu, Nga, được nhập tịch tại các quốc gia nầy
- một số là người xuất khẩu lao động và cư dân bất hợp pháp.
Như vậy tổng số người Việt ở hải ngoại là :
- Người tị nạn Cộng sản: 2.500 000 người (số tṛn) Bảng 1
- Người Việt di cư kinh tế, xuất khẩu lao động, du học sinh, định cư
bất hợp pháp: 1 400 000 người Bảng 2
Tổng cộng số người Việt ở hải ngoại: 3 900 000 người.
Một cách dễ nhớ: 4 triệu người.
Nguồn : Lâm Vĩnh B́nh, Giá Tự Do
Về tổng số người Việt ở hải ngoại, thống kê của nhiều người viết,
ngay cả những nhà nghiên cứu khoa bảng thường có khuynh hướng khuếch
đại con số, bởi lẽ thay v́ sử dụng thống kê chính thức của các quốc
gia sở tại, họ lại sử dụng những thống kê của Cục Người Việt nước
ngoài của Cộng Sản mà bản chất là gian dối, thiếu chính xác. Đan kể
như luận án tiến sĩ : Mobiliser les Vietnamiens de l’étranger :
enjeux, stratégies et effets d’un nationalisme transnational của
Christophe Vigne do Institut de recherche sur l’Asie du Sud-Est
contemporaine (IRASEC) xuất bản năm 2012 cho biết là người Việt ở
hải ngoại là 4.3 triệu người trong đó người Việt ở Mỹ là 2.2 triệu
(thay v́ 1.5 triệu) và ở Canada là 250 000 (thay v́ 220 000). «Le
RSVN estime à environ 4.3 M le nombre de Vietnamiens résidents à
l’étranger. La communauté vietnamienne des États-Unis est de loin la
plus nombreuse avec 2.2M de personnes. Environ 250 000 Viet Kieu
vivent au Canada, 120 000 en Allemagne et 60 000 en Russie…(p. 13).
Kết luận
Chúng tôi vừa phân tích hai từ ngữ người tị nạn và Việt kiều để phân
biệt hoàn cảnh lúc ra đi và vị trí chính trị đối với chế độ cộng
sản. Tuy nhiên, khi phải nhắc đến một từ ngữ khác có chữ kiều là
kiều hối (mà cộng sản dùng thay cho danh từ ngoại tệ), cái biên giới
giữa người tị nạn và Việt Kiều như không c̣n nữa bởi cả hai đều dùng
kiều hối để nuôi dưỡng và củng cố chế độ trong nước.
Thật vậy, kể từ khi Clinton bắt tay với VN năm 1995, người Việt tị
nạn về nước ào ạt v́ đủ thứ lư do, thăm gia đ́nh, du lịch, du hí…
Thật là khó hiểu khi nhiều người đă ra đi t́m cái sống trong cái
chết để vượt biển, vượt biên sau những ngày đói rách, khổ nhục hay
bị lao tù, và trên đất mới, sau đó cũng không bao lâu, họ lại quay
trở về để tiếp tục luồn cúi, nịnh bợ công an, cán bộ phường xă,
những người trước đó không lâu là kẻ thù của họ. Vui thú, vinh quang
ǵ? Cứ mỗi lần Tết đến, có khoảng nửa triệu người về VN ăn Tết, mỗi
người mang về VN để chi tiêu trung b́nh khoảng 4000 mỹ kim, như vậy
Cộng sản có được dễ dàng ít nhất 2 tỷ mỹ kim kiều hối chỉ trong hai
tháng. Ngoài ra, việc gởi tiền về VN triền miên từ 40 năm nay để nói
là giúp đỡ thân nhân cũng là hiện tượng cần suy nghĩ, bởi lẽ chính
số kiều hối khổng lồ nầy đă nuôi dưỡng, củng cố chế độ và duy tŕ
một lớp thân nhân ỷ lại lười biếng, thỏa hiệp với công an để được dễ
dàng trong cuộc sống. Dưới lăng kính nầy, người tị nạn có khác ǵ
những Việt kiều yêu nước hay xuất khẩu lao động thân cộng?
Theo Viện Nghiên cứu Quản Lư Kinh Tế Trung Ương (Central Institute
for Economic Management CIEM), « tính từ năm 1991 đến 2013, lượng
kiều hốigởi về hơn 90 tỷ mỹ kim, là chiếc phao cứu tinh cho nhiều
doanh nghiệp và là nguồn tài chính quan trọng cho quốc gia. Số tiền
trên không kể đến 28% «kiều hối chui» không qua đường dây chính thức
và những khoản tiền tiêu khi Việt kiều về thăm nhà. Chỉ năm 2013, số
kiều hối gởi về là 11 tỷ. Mỹ là quốc gia chuyển kiều hối về VN nhiều
nhất (57% trong tổng số kiều hối chính thức), kế đó là Úc (khoảng
9%), Canada (8%), Đức (6%), Pháp (4%) . Kiều hối là nguồn vốn thứ
hai tại VN sau FDI (chú thích của người viết: Foreign Direct
Investment là tiền ngoại quốc đem vào VN đầu tư) giúp tăng tiết
kiệm, đầu tư, giảm nợ, cải tiến bảng xếp hạng tín nhiệm quốc gia,
giúp ổn định tỉ giá, cán cân thanh toán và tăng dự trử ngoại hối .
Tóm lại, kiều hối dùng để trả sinh hoạt hằng ngày, đầu tư vào sản
xuất kinh doanh và trả nợ». (Cứu tinh của nền kinh tế VN /Alan Phan
- ngày 18/12/2014.)
Thông tin trên phát xuất từ một cơ quan kinh tế chiến lược đầu năo
của cộng sản đă cho thấy không phải là nhóm Việt kiều Đông Âu, hay
nói chung những Việt kiều thân Cộng đă gởi tiền về nước để nuôi chế
độ mà chính đa số làngười tị nạn. Chỉ tại 5 quốc gia có đông đảo
người tị nạn, đặc biệt là Hoa Kỳ, đă đóng góp hàng năm cho cộng sản
VN 84% ngoại tệ. Có ǵ phi lư hơn, khi người Việt ở Mỹ, Úc, Canada,
Pháp, Tây Đức là thành tŕ chống Việt Cộng, nhưng đồng thời cũng là
đại ngân hàng tài trợ cho Việt Cộng. Giải quyết cái phi lư nầy phải
là chuyện số một phải làm, tuy đă muộn màng lắm rồi, trước khi nói
đến những chuyện tranh đấu khác.
Lâm Văn Bé
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
42 năm t́nh
cảm đồng môn
42 Năm T́nh
Chúc mừng hội ngộ
Tôi và Tiểu Đoàn 7
TQLC
Thơ gửi Đại Gia
Dấu ấn vào đời
USA 20 năm và Tôi
Hăy c̣n đó niềm
tin
Pleiku và hoài
niệm
Kư sự
những ngày tháng 2
Một mảnh đời
Xuân quê hương
Một chuyến về
thăm nhà
Tết đến
Một buổi
chiều, hai người già
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Về từ Tân Cảnh
Cô đơn và ước mơ
Trên đồi cao
Phạm Thị
Thàng - Nữ anh hùng đất G̣ Công
Bạn cũ năm mươi năm
Hương xưa ngày ấy
Đại Bàng gẫy cánh - F5
Sự thật đời tôi / Trung Tướng Trần Văn Minh
Thèm
Sao chổi
Đừa con dâu
Đại đội 17 "Hoàng Gia" 1
-
2
Sau cuộc biển dâu
Những người lính Dù
Tiễn nhau ngàn dặm cũng chia phôi
Tấm Poncho
Người bạn học và
ông thầy cũ
Mối hận ngh́n trùng!
Những mùa Trung Thu
Tấm ảnh hai người
lính
Tin quan trọng gửi
đến các anh em TPB ở Việt Nam
Chim bay về biển
Văn chương
Việt Nam và chữ “Y”
Hạnh phúc và bất hạnh
Chữ "Tín"
Nếu ngày ấy...
Thuận An
Thôi ! Ḿnh
về Linh Xuân Thôn, đi em !
Văn hoá phương Nam
Thức tỉnh
Sự xâm lăng văn
hóa của việt cộng
Tác giả
“Những Đồi Hoa Sim” đă chết trên đồi hoa sim
Hành trang và lư
tưởng
Góp nước miếng
húp chung
Đêm chờ sáng 1975
Thuốc lào trong tù....
Người chồng một đêm
Khóa 8 B+C/72
SQTB/Thủ Đức họp mặt
Trở về cố hương
Trôi theo ḍng đời
Ngộ chiêu
T́nh người
trong cuộc chiến
Khóc bạn
Cư An Tư Nguy
Con c̣n nợ ba
Không Quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Những
người chiến sĩ đáng hănh diện
Nắng chiều vẫn đẹp
Hạnh phúc vẫn
long lanh
Con Trâu đâu có cải tạo
Nhớ nhà
Bác sĩ trong tù
Nhà bốn anh em
Tháng Sáu và Tôi
Chuyện về một cô gái
Chuyện một người mang tên Nguyễn Thị Di Tản
Cái giường đôi
Ưu việt nhất !!!
Hậu nhân trả lời VC
Huỳnh Tấn Mẫm
Chúng tôi vẫn sống
Bọt không cần vớt
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa, Chuyện kể từ đầu
Làm sao để chôn hai Chế Độ?
Cà-phê lính
Cuộc trùng phùng
bi thảm
Tuổi trẻ nghĩ ǵ ?
Tiển con
Nhớ anh linh Anh
hùng Nguyễn Ngọc Trụ
40 năm nhớ về
C̣n đó niềm đau
Viết cho con cháu
Tưởng nhớ bác Thái Văn Kiểm
Người bạn thân
Người già cả, người bệnh tật
Người tỵ nạn và
Việt kiều
Sự ra đi
của hai vị Tướng Tư Lệnh
Nhạc Sĩ Thục Vũ
Câu chuyện
của Nguyễn Thị Thái Ḥa
Một thoáng Pleiku
Bạn đồng môn khóa 2 CSQG
Quân đội bị quên
lăng của Việt Nam Cộng Hoà
Nhạc sĩ Lê
Trạch Lựu và bài hát Em Tôi
Bắc Kỳ
Văn chương trào
phúng truyền khẩu
Mậu Thân Huế – Nhân chứng sống
Kỷ niệm với Hồ Ngọc Cẩn
Điều c̣n lại sau
40 năm
Thương
Tiếc những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù
Anh là áng mây trôi
Tâm thức
người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc
Rợp bóng cờ
Trên núi Hoàng Liên
Kư ức mùa Xuân
Để tưởng niệm một
người Anh
San Jose, năm hết tết
đến
Valentine trong di sản Chiến Tranh
T́nh như gió thoảng
Thằng Thời
40 năm cuộc sống người thương phế binh VNCH
Ăn Tết thôn quê
Hạt bụi nào trong mắt
Giọt nắng cho người
Gặp tướng Ngô Quang Trưởng Lần Cuối Cùng...
Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam VN
Quê Hương, chùm khế ngọt
Quả tim người tử tù
Anh hùng Ngụy Văn Thà
Người ở lại Hoàng Sa
Trận Hoàng
Sa, biểu tượng hội tụ ḷng yêu nước
Ngày 19-01: Tưởng Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Em gái hậu phương Dạ Lan là ai?
Hồi kư Việt Nam
Để nhớ một thời áo trận
Con dao xếp trong ngày Tết Tây
Người về từ Đại Dương
Lễ Tưởng Niệm Tử
Sĩ Hoàng Sa
Lăo Mốc
Lên núi t́m chồng
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013
Bài vở cũ 2012