TÙ CỰU (XM520)
“Con ngựa phóng trên đồng cỏ, dưới chân nó là một thảm cỏ xanh mịn
như nhung, nó không biết phía trước là một vực thẳm đang chờ sẵn, và
con ngựa đă lao đầu xuống vực sâu v́ mắt đă bị bịt. Người dân Xă Hội
Chủ Nghĩa chính là những con ngựa đó.”
Anh hùng Nguyễn Ngọc Trụ.
Tôi tŕnh diện cải tạo tại trường Lê Quang Định chiều 26-06-1975,
hạn chót dành cho cấp Thiếu và Tr. Úy. Tối khuya ngày 28, tất cả
được dồn lên xe. Không biết đi đâu. Chúng đưa chúng tôi đi quanh đi
quẩn, đi lung tung, đi lắt đi léo, lúc ngừng lúc chạy. Cuối cùng,
sau hơn chục giờ lươn lẹo, chúng tôi được “đổ quân” gần chân núi Bà
Đen, vùng Trảng Lớn Tây Ninh, nơi có Bộ Tư Lệnh Tiền Phương cua Sư
Đoàn 25 cũ, cách nơi xuất phát không đầy 2 giờ lái xe.
Như vậy, bài học đầu tiên mà Bác Đảng đă dạy cho chúng tôi là: Lắt
Léo Lươn Lẹo. Sau đó chúng tôi được tổ chức thành tổ, khối, trại.
Tôi ở trại L4T1 gồm có 14 Khối, mỗi khối là một nhà 120 người, và cứ
10 người là 1 tổ, khoảng hơn tháng sau được “biên chế” lại chỉ c̣n
5,6 khối cho 1 Trại. Tôi ở khối 13, khối 14 là Nữ. Khối 13 và 14
cộng lại cũng chưa đủ 120, nên tạm thời sinh hoạt chung. Ngày kế
tiếp, các cô được phân công tháo gỡ đinh từ những thùng đạn pháo
binh, c̣n tù nam th́ rào kẽm gai quanh trại.
Tôi vừa làm rào tự nhốt ḿnh vừa nh́n quanh quẩn.Thấy ngọn “cờ đỏ
sao vàng” đang tự măn ưỡn ẹo theo gió phía sân trại bộ đội, tôi đâm
thù cái “cờ vàng sao đỏ” của Ô. Thiệu, cái cờ mà trước đó mấy năm
tôi cho là tiếng cú kêu báo trước một chuyện chẳng lành, 2 lá cờ
trông y hệt nhau tuy 2 màu cờ có đối nghịch nhau về màu sắc. Một
chút hoang tưởng, tôi húyt gió bài “Cờ bay, cờ bay…”.
Ngay khi ấy, có tiếng nói ngay sát sau lưng tôi “Hay lắm, nào, chúng
ta cùng hát”, và người đó hát vài câu trong bài hát tôi đang húyt
gió, trong đó có câu anh sửa lại “…Sài G̣n ơi, chờ quê hương giải
phóng…”. Người đó chính là Nguyễn Ngọc Trụ, người mà sau đó không
lâu đă đi vào huyền sử lan truyền khắp các trại tù vùng Trảng Lớn,
Tây Ninh. Anh Trụ trông khoảng 30, người tầm thước, da trắng trẻo,
đeo cặp kính dầy cộm, phong cách điềm đạm và trí thức, ăn nói nhẹ
nhàng, nhưng từng lời dứt khoát.
Sau này tôi được nghe biết thêm anh có vợ 2 con, Trung Úy, có bằng
Cao Học Luật/Công Pháp Quốc Tế với Luận Án Tiến Sĩ sắp hoàn thành,
và là Giảng Viên dậy tại Trường Vơ Bị Đà Lạt môn thuộc về Luật và
Chính Trị. Đó, lúc đầu tôi chỉ biết về anh có bấy nhiêu v́ anh và
tôi không ở chung một nhà, thậm chí cũng không c̣n cùng trại v́ hơn
tháng sau đó có đợt “biên chế”. Biên-chế có nghĩa là chuỷên trại
hoặc sắp xếp lại nhân sự… Trước hết, Tù Nữ/K.14 được đem đi khỏi
Trảng Lớn Tây Ninh. Anh Trụ vẫn ở lại T1, c̣n tôi th́ chuyển qua T3
cách T1 khoảng 1km.
Qua trại mới, những người tù bắt đầu bị khủng bố nhiều tuần bằng một
đợt thẩm vấn chính thức đầu tiên. Buổi sáng hôm ấy, mọi người được
lệnh nghỉ “lao động” ở nhà viết tờ tự khai; tới buổi chiều và dưới
sự giám sát của Quản Giáo, từng người đọc bản tự khai, những người
khác phê b́nh thảo luận để đánh giá sự thành khẩn của bản tự khai đó
và có ghi vào biên bản để nộp cho Quản Giáo. Ngày kê tiếp, trong lúc
tiếp tục mổ xẻ những bản tự khai, th́ có 2 vệ binh, mặt đằng đằng
sát khí, tới kêu tên từng người một dong đi với 2 khẩu AK luôn luôn
thúc đằng sau. Pḥng thẩm vấn là những lều tranh kín tường, trên một
khu đất lớn hơn một Sân Vận Động và xa khỏi trại, trước mỗi cửa lều
có một vệ binh tay cầm súng đứng gác. Vừa bước vào trong lều, người
bị thẩm vấn đă bị kinh hoàng bởi 2 khuôn mặt rất đanh ác đang ngồi
chờ sẵn, 1 tên vặn vẹo hỏi c̣n tên kia quan sát. Cứ như vậy trong
nhiều tuần lễ, người đă và sắp bị thẩm vấn đều hoang mang lo sợ, ai
cũng có thể nghĩ ḿnh sắp bị bắn tới nơi, v́ hầu như ai cũng bị buộc
vào tội chết.
Sau đợt vừa thẩm vấn vừa khủng bố, Cách Mạng chính thức cho Tù hưởng
sự “vinh quang” lao động của đời tù khổ sai như bất tận; gọi là
“chính thức” v́ trước đó cũng đă phải lao đông cực khổ nhưng không
“quy hoạch” bằng, thế mà chỉ sau vài tháng “không chính thức” nhiều
người chỉ c̣n da bọc xương. Tuy thế, trên đường đến lao trường,
chúng tôi lại có dịp được gặp những người khác trại và được nghe
nhiều tin tức về Nguyễn Ngọc Trụ. Càng ngày càng có nhiều chuyện kể
về sự anh hùng bất khuất của anh, nhất là sau mỗi đợt Học Tập Chính
Trị, mà lúc đó tôi cho là được thêu dệt nhiều hơn là sự thật.
Một hôm nghe tin Quang và Vũ ở T1 trốn trại và bị bắt lại, cả 2 hoặc
1 trong 2 người là học tṛ của Trụ, khóa cuối cùng trường Vơ Bị
Đà-Lạt. Trước khi trốn, 2 người nhờ anh giữ một lá thơ đế chuyển cho
gia đ́nh họ khi có điều kiện, và anh Trụ đă tiêu hủy lá thơ ngay sau
khi được tin họ bị bắt lại. Sau tin 2 người trốn bị bắt lại, là tin
anh Trụ bị bắt biệt giam, lí do là 2 người kia bị ép cung, khai là
đă trốn trại theo lệnh của Thầy Trụ rồi sẽ dẫn đường đem “tàn quân
quay lại tấn công giải thoát trại giam”. Khi nghe tin anh Trụ bị
biệt giam, tôi xét lại về y nghĩ mà tôi đă cho là có nhiều phần thêu
dệt trong những chuyện rất anh hùng về anh. Sau này, khi chuyển qua
nhiều trại khác và được nghe kể về anh Trụ từ chinh những người đă
từng ở chung với anh, th́ tôi thấy sự thực về anh Trụ c̣n “ghê gớm”
hơn những cái mà tôi cho là “có phần thêu dệt”.
-Không nhận tội “tay sai đế quốc, bán nước, có nợ máu với nhân dân”:
Chỉ trong ṿng vài tháng đầu tiên, mỗi người tù phải viết và đọc
nhiều chục bài viết (dưới h́nh thức bản lư lịch, tự khai, thâu
hoạch…) xác nhận ḿnh là kẻ có tội như đă nêu trên. Lúc ấy, dù chỉ
tự kể tội một cách “chung chung”, tôi cũng cảm thấy thật xấu hổ. Tôi
phải nói ra điều này, để từ cái hèn mọn của riêng ḿnh mới thấy được
sự vĩ đại của Người Anh Hùng. Trong tất cả những bài viết như vậy,
anh Trụ chỉ ghi tên, chức vụ, và hoàn toàn để trống “phần nhận tội”.
Anh khẳng định công việc anh đă làm là phục vụ cho một tương lai
Việt Nam độc lập, dân chủ, nhân bản. Thực hiện một lí tưởng như vậy
sao gọi là có tội.
- Cộng Sản và Mỹ đều là hiểm họa của dân tộc Việt Nam: Trong những
giờ gọi là “Thảo Luận” tại Khối, có Quản Giáo “chủ tŕ”, hay những
ngày lên lớp” tại Hội Trường đông hàng ngàn người mà Giảng Viên là
những Cán Bộ Chính Trị từ cấp cao ở xa tới, Nguyên Ngọc Trụ đă dơng
dạc lên án cả Mỹ lẫn Cộng Sản: Mỹ lợi dụng xương máu Việt Nam và của
cả nhân dân Mỹ để phục vụ quyền lợi phe nhóm. C̣n chủ Thuyết Cộng
Sản chỉ là hoang tưởng, đă lỗi thời không thuyết phục được người văn
minh. Giữa 2 cái họa, không thể đương đầu cùng một lúc, anh đành tạm
chọn cái họa nhẹ là Mỹ để đương đầu với cái họa lớn là Cộng Sản, mặc
dầu anh phản dối sự hiện diện của Quân Đội Mỹ tại Việt Nam. Súng Mỹ,
súng Nga, hay súng Tầu đều là kẻ thù của dân tộc Việt Nam.
- Người dân trong xă hội Xă Hội Chủ Nghĩa giống con ngựa bị bịt mắt:
Trước hàng ngàn người trong hội trường T1, dĩ nhiên trước mặt cả bầy
Cán Bộ các cấp, anh Trụ kể dụ ngôn về một con ngựa. …Con ngựa phóng
trên đồng cỏ, dưới chân nó là một thảm cỏ xanh mịn như nhung, nó
không biết phía trước là một vực thẳm đang chờ sẵn, và con ngựa đă
lao đầu xuống vực sâu v́ mắt đă bị bịt. Người dân Xă Hội Chủ Nghĩa
chính là những con ngựa đó. -Chuyện mới nhất kể về ngày đầu biệt
giam:
Cuối tháng 3/2008, tôi may mắn t́m liên lạc được với 1 người ở chung
một khối và thân với anh Trụ, tên là T.T.T. hiện ở Mỹ. Anh xác nhận
những ǵ tôi nghe được về anh Trụ đều đúng, nhưng vẫn c̣n ít so với
sự thực về anh Trụ. Theo anh T.T.T. kể lại, không lâu sau khi 2
người trốn trại bị bắt, th́ có một buổi tập trung toàn trại T1 tại
Hội Trường, anh TTT. ngồi bên cạnh anh Trụ, chủ tọa buổi nói chuyện
là một “đoàn cán bộ cấp cao” cầm đầu bởi 1 Trung Tá. Khi viên Tr. Tá
nói là có một người cầm đầu tổ chức phản động…, th́ anh Trụ đă đứng
lên nói với tên Tr. Tá: “Tôi biết người mà ông định nói là ai, là
tôi chứ ǵ? Tôi không cầm đầu ai cả, tôi chỉ bày tỏ chính kiến, tôi
không thích chế độ Cộng Sản, ông có muốn nói chuyện với tôi về Lư
Thuyết Cộng Sản không?”. Cả hội trường 1000 người im phăng phắc. Cả
đám lư thuyết gia CS khựng lại trước sự quyết liệt kiên cường của
một kẻ sĩ anh hùng. Sau một thoáng lúng túng, viên Trung Tá nói sẽ
nói chuyện với anh sau rồi bảo anh ngồi xuống. Anh TTT. cũng nói
thêm là trước hôm có buổi tập trung tại hội trường, anh Trụ đă nhờ
anh chuyển lời trối trăn đến gia đ́nh nếu có thể.
Ngoài những điều nghe về anh Trụ mà tôi đă phối kiểm, tôi cũng đă
chứng kiến 5 tháng cuối đời của anh, tận mắt tôi đă chứng kiến bọn
giết người hèn hạ đă trơ trẽn dựng lên một tṛ hề thật lố bịch gọi
là Ṭa Án để sát hại anh, và chính anh T.T.T. là 1 trong những người
đă chôn anh Trụ tại khu An Dưỡng Biên Ḥa cũ (không phải tại Trảng
Lớn Tây Ninh như có người đă viết mà tôi không nhớ là ai).
Vào một buổi tối giữa tháng 5/1976,một số tù Trảng Lớn bị chuyển đi
xa đợt đầu tiên,và tôi có tên trong danh sách này. Khoảng 4 giờ
chiều th́ có một đoàn xe tới đậu giữa sân trại tôi là T3.Từng đoàn
tù từ những trại lân cận bị dẫn đến và tống lên xe, sau đó mới đến
tù T3, mỗi xe 40 người.Tôi đếm được tất cả 25 chiếc xe, và tôi được
lệnh lên chiếc xe cuối cùng.
Trong xe, không kể 2 thằng vệ binh ngồi 2 bên ở cuối xe, tôi đếm kể
cả tôi là 24 người, Non và Tỷ bị trói ngồi bên trong (bị tố cáo là 2
tên C.I.A hạng bét, biệt giam trước đó 1 tháng). Trời sắp tối th́ có
1 chiếc xe con chạy tới đậu sát bên xe tôi, một người tay bị trói
quặt đằng sau được lôi ra và tống lên xe tôi: Nguyễn Ngọc Trụ. Anh
Trụ bị tống vào trong, cùng với Non và Tỷ. Lúc đi ngang chỗ tôi, lợi
dụng bước chân anh chao đảo v́ tay bị trói, tôi đứng lên vờ như đỡ
cho anh khỏi bị ngă và nắm cánh tay anh bóp bóp, anh mỉm cười nh́n
tôi rồi gật đầu chào mọi người. Một người nào đó nói vừa đủ nghe với
anh Trụ “Xin anh đừng chết”. Như vậy đoàn xe có 25 chiếc, chúng tôi
ở xe thứ 25, và trong xe thêm anh Trụ nữa là 25 người. Xe bắt đầu
chạy khi trời tối hẳn.
Lại một lần nữa Bác Đảng cho ôn lại bài “Lắt Léo Lươn Lẹo”, xe lúc
ngừng lúc chạy, măi khoảng 2 giờ đêm th́ chúng tôi được đổ xuống khu
Trung Tâm An Dưỡng, Biên Ḥa. Anh Trụ bị tống thẳng vào thùng sắt
Connex ngay cổng trại. Non,Tỷ được cởi trói và đứng xếp hàng chung
với mọi người. Chúng tôi 24 người cùng 40 người nữa bị chia ra và
sáp nhập chung với anh em Cảnh Sát, đă ở đây từ trước, vào 3 đội
Mộc, Rèn, Chăn Nuôi; tôi vào đội Mộc có cả nhà văn Nguyễn Hữu Nhật
tức thi sĩ Động Đ́nh Hồ.
Khu An Dưỡng gồm nhiều trại, mỗi trại khoảng 1000 người và được gọi
là T1, T2, T3,…Tôi không nhớ trại tôi ở là T mấy, nhưng chắc chắn
một điều là chiếc connex đựng anh Trụ nằm ngay sát cổng trại tôi ở,
nơi lúc nào cũng có vệ binh đứng gác. Ngay từ cổng là một con đường
khá lớn sát hàng rào bên trái, kéo dài thẳng tắp suốt bề ngang trại.
Từ cổng theo con đường này đi vào, đầu tiên sẽ thấy bên phải là 2
dẫy nhà nằm song song nối tiếp nhau dọc theo hàng rào chiều dọc của
trại, Quang và Vũ ở nhà đầu. Qua khỏi 2 dăy nhà là sân trại, cuối
sân là 1 cái hội trường thật lớn bằng tôn (nghe nói là nhà ướp và mổ
xác của Mỹ để lại), nơi sẽ là ṭa án xử anh Trụ 5 tháng sau. Cứ tiếp
tục theo con đường ngang, qua khỏi sân trại tới cuối hàng rào là dăy
4 căn nằm song song nhau, tôi ở nhà đầu tiên sát con đường, và bên
kia con đường đối diện với nhà tôi ở là một dăy hơn chục cái cầu
tiêu nổi dành cho cả trại.
Mỗi ngày cỡ 8 giờ sáng th́ anh Trụ có khoảng 15-20 phút đi cầu tiêu.
Trên đường đến khu cầu tiêu, anh phải đi ngang nhà có Quang và Vũ,
băng qua chiều ngang sân trại tới nhà tôi ở th́ quẹo vào khu cầu
tiêu, trên tay cầm lon “gô” nước để làm vệ sinh, thường có 1 tên vệ
binh cầm súng đi theo. Dáng anh đi trông thất thểu, nhưng nét mặt
rất an nhiên, và đặc biệt miệng lúc nào cũng mỉm cười. Vào những
ngày không lao động, anh em thường đứng dọc theo hiên nhà dơi nh́n
theo anh. Có lần anh hướng về phía Quang và Vũ đang đứng trong đám
anh em, nói “Thầy không hề buồn giận em, thầy biết bằng mọi cách họ
sẽ giết thầy.” Anh em vẫn thường xuyên tiếp tế cho anh bằng cách lén
buộc sẵn một gói nhỏ đồ ăn vào cái cầu tiêu trong cùng, nơi được chỉ
đinh dành riêng cho anh, mặc dầu trong khu cầu tiêu lúc ấy đă được
bảo đảm hoàn toàn không có ai, dĩ nhiên anh phải ăn tại chỗ, chung
quanh đầy cứt đái.
Đợt thăm nuôi đầu tiên trong đời tù bắt đầu gần những ngày cuối
tháng 10/1976. Đội Mộc có 5 người, trong đó anh Nguyễn Hữu Nhật và
tôi, được thăm vào ngày 29/11/1976 cũng là ngày cuối cùng của đợt
thăm nuôi. Buổi tối ngày Thứ Bẫy cuối cùng của tháng 10/76, tôi cùng
mấy người nữa được chỉ định đi theo 2 vệ binh đẩy nước ra Khu Thăm
Nuôi, để đổ nước vào những cái lu đặt trong những lều thăm, cách
trại khoảng 2km. Trên đường quay lại trại, có 4 người bộ đội đứng
chờ. Chúng tôi được lệnh lôi từ trong một bụi rậm ra một chiếc quan
tài bằng gỗ mộc, khiêng lên chiếc xe và đẩy tiếp. Đến gần trại th́
bọn họ bảo chúng tôi ngừng lại,họ bắt chúng tôi dấu chiếc quan tài
vào một bụi cỏ cao gần đó, và họ cấm không được nói cho ai biết.
Chúng tôi thật hoang mang, và không biết chính chiếc quan tài đó sẽ
dành cho anh Trụ ngày hôm sau.
Sáng hôm sau, tôi nhớ chắc chắn là ngày Chúa Nhật cuối cùng của
tháng 10/1976, không thấy anh Trụ ra khu cầu tiêu như thường lệ, có
lẽ họ cho anh đi cầu sớm hơn. Khoảng 7 giờ sáng th́ các Nhà Trưởng
được lệnh đi “giao ban”. Cỡ gần tiếng sau th́ anh Nhà Trưởng quay về
tập họp cả nhà lại, thông báo về phiên ṭa xử Nguyễn Ngọc Trụ, đọc
tên những người được tham dự phiên ṭa gồm Nhà Trưởng và các Tổ
Trưởng Tổ Phó, lệnh trên cấm không được bàn tán, nhưng làm sao cấm
được, và người ta đoán non đoán già về số phận người anh hùng,người
th́ bảo chỉ cảnh cáo, kẻ th́ đoán mấy năm, cũng có người bảo phải
vài chục năm… Tôi nghĩ tới chiếc quan tài dấu trong bụi rậm, và nói
khẽ với một người bạn: Tử H́nh.
Tự nhiên ruột gan tôi như có ai đang bóp nhào nháo cả lên. Trong một
lúc, tôi thấy người và cảnh chung quanh như đang thấy một đoạn phim
mà không có tôi trong đó. Tôi không có tên trong danh sách đi dự
phiên ṭa, nhưng tôi xin và được chấp thuận cho đi thay một người bị
“Tào Tháo đuổi” (h́nh như là “Hùng Mặt Mâm”, không thuộc đoàn tù từ
Trảng Lớn). Những bạn tù từ những trại quanh vùng cũng bị điệu đến,
chật kín cả hội trường.
CÔNG LƯ LÀ CÔNG LƯ, CÔNG LƯ LUÔN LUÔN THẮNG
Bên ngoài, chung quanh hội trường, là một hàng rào bộ đội súng cầm
tay. Bên trong, mấy chục cái ghế nhỏ được xếp thành 2 hàng ở trên
cùng, dành cho các lănh đạo và cán bộ các trại.
Trên sân khấu có vài cái bàn dài kê liền nhau trải vải bên trên, sau
bàn phía trên cao là h́nh Ông Thần Đói Hồ Chí Minh với lá đại kỳ Cờ
Đỏ Sao Vàng trông thật lạnh lùng chết chóc. Mặt tiền sân khấu,ở trên
cao là mấy hàng chữ đỏ nền vàng mà nổi bật nhất là mấy chữ “Ṭa Án
Quân Sự Khu 7”, trên và dưới sân khấu cả 2 bên là những toán bộ đội
vơ trang đứng nghiêm chỉnh. Vành móng ngựa là 1 tấm “cover”, đó là
nửa cái ống cống bằng sắt, có khía, h́nh bán nguyệt, đường kính
khoảng trên 1m50, của Mỹ để lại. Khi mọi người, mọi việc đă được ổn
định đâu vào đấy, tất cả được lệnh đứng lên. Một tiếng hô nghiêm
thật to, Thượng Úy Măo Chính Trị Viên Tiểu Đoàn cùng tên Đại Úy Tiểu
Đoàn Trưởng ra tận cửa đứng nghiêm chào đoàn xử án và mời lên sân
khấu.
Trên sân khấu, ngồi chính giữa bàn là 2 tên lớn nhất đều mang quân
hàm Trung Tá, phái đoàn khá đông, cả chục tên, có đứa ngồi hàng ghế
dưới sân khấu. Sau đó, anh Nguyễn Ngọc Trụ được dẫn ra, cởi trói, bị
đứng vào trong tấm sắt tṛn gọi là vành móng ngựa. Một cây đèn dầu
được thắp lên, kèm theo một lời thuyết minh rất dơng dạc: Cây đèn
này là tượng trưng cho ánh sáng công lư. Một tấm sắt “tàn dư Mỹ
Ngụy” và một cây đèn tù mù để tượng trưng cho ánh sáng công lí cách
mạng!!! Khắp cả Thế Giới, có sân khấu hề nào hí lộng hơn, ngu xuẩn
hơn, khôi hài hơn cái sân khấu được tạo ra bởi “đỉnh cao trí tuệ
loài người” như thế này?
Bản ly lịch đọc trước ṭa, tôi chỉ c̣n nhớ một phần: Nguyễn Ngọc
Trụ,Trung Úy, Cao Học Luật, Giáo Sư Chính Trị Trường Vơ Bị Đà Lạt;
tên cha là Nguyễn văn Thắng, Trung Tá Cảnh Sát, đang cải tạo ngoài
Bắc; (mẹ và vợ: không nhớ); có vợ và 2 con. Sau vài thủ tục lấy lệ,
ṭa hỏi: Sau khi nghe giới thiệu Thành Phần Xử Án, tội phạm N.N.Trụ
có cần thay đổi ai không?
– Thưa quí ṭa, tôi nghĩ không cần thiết. Ṭa hỏi tiếp, “N.N.Trụ,
anh có phải là nhà trí thức không?”. Anh Trụ ngắn gọn: Thưa quí ṭa,
đúng. Tiếp theo là những câu hỏi để gài tội, một cách vu vơ rất khờ
khạo. Tên Trung Tá đóng vai “Công Tố” lôi cả ông bà cha mẹ ra để
buộc tội “bị cáo”. Những lời buộc tội, được đọc từ một tờ giấy viết
sẵn mà cứ vấp váp v́ đọc không thông, tới bây giờ vẫn c̣n t́m được
trên những tờ báo trong nước như: tay sai đế quốc, phản động, nợ
máu… Chủ yếu tên “Công Tố” tập trung vào tội: “đă cử người trốn trại
để đưa tàn quân quay lại giải thoát đồng bọn, đă xúi dục những “cải
tạo viên” chống lại đường lối chính sách khoan hồng...” Phiên ṭa
không có luật sư biện hộ, nhưng anh Trụ được phép phát biểu sau phần
buộc tội.
Anh phủ nhận tất cả mọi lời cáo buộc, và dẫn giải rằng những người
đang kết tội anh mới chính là kẻ có tội. Anh nói rất ngắn gọn, nhưng
thật sắc bén. Một lần nữa, tại ṭa, anh xác nhận anh chỉ muốn giảng
giải Thuyết Cộng Sản cho chính những người gọi là Cộng Sản mà không
biết ǵ về Lư Thuyết Cộng Sản. Đáp lại lời cáo buộc “không chịu cải
tạo”, anh nói: “Tôi rất muốn được “cải tạo”, nên mới bày tỏ hết tư
tưởng ra để cho cách mạng thấy mà cải tạo, đấy là tôi đă đáp ứng
đúng yêu cầu “thành khẩn khai báo” của Cách Mạng, và tôi đă thành
khẩn khai báo tư tưởng bằng chính những lời phát biểu thật thà của
tôi. Thưa quí ṭa, Công Lư là Công Lư, Công Lư luôn luôn thắng. Tôi
tin vào Công Lư và chấp nhận mọi số phận cho niềm tin đó.”
Sau mươi phút gọi là nghị án, chắc các quan ṭa vào bên trong làm
điếu thuốc lào hay nhấm nháp cái ǵ đó, v́ với thời gian mươi phút
làm sao vừa “nghị” vừa đánh máy xong bản án dài mấy trang, ông ṭa
Trung Tá cầm mấy tờ giấy đánh máy sẵn, đọc liền tù t́ hàng trăm chữ
“Chiếu” với “Xét V́” rồi mới tới chữ “… Quyết Định: “Tử H́nh Tội
Phạm Nguyễn Ngọc Trụ”. Bản án phải được thi hành ngay sau khi phiên
ṭa bế mạc”. Tới đây th́ “ánh sáng công lư cách mạng” từ tù mù đă
trở thành tối thui, v́ chiếc đèn dầu đặt trên bàn đang bập bùng với
cái bóng đèn đă bị muội khói ám đen nghịt.
Ngay khi 2 chữ “tử h́nh” vừa phán xong, một người trong đoàn xử án
thổi tắt phụp “ngọn đèn công lư” đă bị ám khói đen thui, vừa lúc có
2 thằng vệ binh phóng tới anh Trụ, mỗi đứa một bên, chộp 2 cánh tay
anh kéo giựt về sau và trói, tên thứ 3 tiến lên tay cầm một cái giẻ.
Anh Trụ nói lớn “Xin đừng bịt mắt tôi.”. Anh không vùng vẫy chống
cự, nhưng anh cố ưỡn thẳng người lên, hướng về phía anh em và kịp
nói to “Chào các anh em ở lại tôi đi.” trước khi bị nhét giẻ vào mồm
và bịt mắt dẫn đi.
Không kể những thủ tục rườm rà, phiên ṭa chỉ diễn ra không đầy 1
giờ. Mọi người giải tán, cả ngàn người không một tiếng nói, chờ nhau
ra khỏi hội trường. Đoàn tù im lặng cúi đầu lầm lũi bước,chỉ nghe
tiếng những bước chân mộng du trên sỏi đỏ,và xen lẫn thỉnh thoảng có
tiếng “chó cắn ma” tru lên lạc lơng “khẩn trương lên”. Cả ngày hôm
ấy không ai thiết ăn, dù có đồ ăn thăm nuôi chia sẻ với nhau. Thấm
thía hơn bao giờ câu “Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ.”
Dù đă bị cũng như chứng kiến biết bao nhiêu thương đau mà “đảng và
Cách Mạng” đă gieo rắc, đôi khi tôi vẫn nghi ngờ tấm ḷng…khát máu
của loài ma cà-rồng. Suốt hơn 30 năm sau phiên ṭa ấy, đôi khi tôi
vẫn thầm mơ ngủ “Hay là bản án tử h́nh ấy chỉ làm giả để răn đe số
đông, c̣n anh Trụ th́ được đem đi giam nơi khác?”, v́ chính chúng tự
biết anh Trụ không làm ǵ hết mà chỉ có “tội” nói thật ḷng. Măi cho
tới khi t́m được anh T.T.T. vào cuối tháng 3/2008 (ở khác nhà nhưng
cùng một trại với tôi trong Khu An Dưỡng Biên Ḥa), tôi mới hoàn
toàn hết nghi ngờ ḷng dạ của cái đảng cướp của giết người kia, v́
chính anh T.T.T. là người đào lỗ và chôn cái xác chi chít những lỗ
đạn của anh Trụ. Xin đọc môt đoạn trong thơ của T.T.T. viết ngày
25-03-2008:
“Sáng sớm khoảng 3 giờ sáng, tổ của tôi, gồm toàn là cuộc trưởng
cảnh sát lớn tuổi và chỉ có tôi là người trẻ của quân đội, bị kêu đi
công tác khẩn; khi ra đến cổng trại th́ có một toán bộ đội khoảng
mười người đón nhận chúng tôi. Mướ người tù mà đến mười bộ đội đi
kèm, chúng tôi linh cảm có điều ǵ ghê gớm sắp xảy ra. Đi khoảng 200
thước th́ có tiếng lên đạn, tiếp theo là tiếng hô đứng lại, t́nh
h́nh rất là căng thẳng; một người bộ đội đi vào lề đường và kêu
chúng tôi vào lôi chiếc xe bốn bánh loại dùng để kéo (rờ-mọt), ở
trên xe có cái ḥm gổ.
Đi khoảng 500 thước th́ dừng một lần, và chúng tôi cũng không định
hướng được là đi đâu; đến khoảng 5 giờ sáng th́ nằm nghỉ ở ngoài một
ụ đất cao quá đầu người. Đến sáng th́ chúng tôi nhận ra được là đang
nằm ở khu chống pháo kích của thiết giáp VNCH, gồm nhiều ô vuông với
vách đất có chỗ cho thiết giáp ra vào. Đến gần trưa th́ có một đoàn
xe jeep băng qua trảng trống đi thẳng đến chỗ chúng tôi, đám bộ đội
đi với chúng tôi lại lên đạn và nói là ngồi yên không được nhúc
nhích. Tôi nh́n thấy một người cao lớn hơn những người khác bị trói
và xô đẩy đi vào trong ô vuông phía sau vách đất, khoảng 10 phút sau
th́ chúng tôi nghe nhiều tràng AK và 2 tiếng súng ngắn một phút sau
đó. Sau hai tiếng súng ngắn, chúng tôi được hộ tống vào trong ụ đất,
và thấy cuốc xẻng đă có sẳn tại chỗ, anh Trụ nằm dưới chân cột chân
bị trói và mắt bị bịt.
Một tên Trung tá VC hỏi chúng tôi có ai là học tṛ anh Trụ không và
nói “tên này ngoan cố đến cùng”, chúng tôi lắc đầu không nói ǵ cả.
Một tên Trung tá khác nói với chúng tôi “Các anh làm thủ tục của các
anh đi”, khi thấy chúng tôi không hiểu anh ta nói tiếp “Quỳ lạy và
cầu nguyện đi”, chúng tôi không ai nhúc nhích, hắn ta bèn nói tiếp
“Chôn nó đi”. Tôi cởi trói và tháo băng bịt mắt cho anh Trụ, trên
người anh lỗ chỗ toàn vết đạn và máu ra không nhiều, da anh trắng
bệt, gương mặt b́nh thản không có vẻ đau đớn ǵ nhiều. Chúng tôi
chôn anh xong về láng mới nghe kể chuyện xăy ra tại toà. …Đó là
những ǵ tôi có thể tường thuật cho anh được, c̣n về tâm sự th́
không có ǵ đặc biệt, tuy nhiên tôi mong gặp gia đ́nh anh Trụ để có
thể nói ra những ǵ anh Trụ đă nói với tôi trước khi bị nhốt
connex…..”. (những “ô vuông với vách đất” trong thư của T. có lẽ là
những “ụ thiết giáp”).
Có nhiều người coi “Hồn Thiêng Sông Núi” như là một vị thần đầy phép
tắc để khấn vái. Một cách giản dị, tôi chỉ hiểu Hồn Thiêng Sông Núi
chính là Di Sản Văn Hóa, là Lịch Sử Dựng Nước và Giữ Nước bằng xương
máu của Cha Ông mà bổn phận thế hệ đang thừa hưởng phải giữ ǵn và
phát triển, để bảo hộ cho những thế hệ tương lai tiếp nối. Trong y
nghĩa đó, Tâm và Huyết của anh Trụ đă làm lên Hồn Thiêng Sông Núi,
mà nhà ái quốc Phan Bội Châu gọi là “hồn thành thánh” và “phách hóa
thần”. Nguyễn Ngọc Trụ, một kẻ sĩ anh hùng, chính là Hồn Thiêng Sông
Núi.
TÙ CỰU (XM520)
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
42 năm t́nh
cảm đồng môn
42 Năm T́nh
Chúc mừng hội ngộ
Tôi và Tiểu Đoàn 7
TQLC
Thơ gửi Đại Gia
Dấu ấn vào đời
USA 20 năm và Tôi
Hăy c̣n đó niềm
tin
Pleiku và hoài
niệm
Kư sự
những ngày tháng 2
Một mảnh đời
Xuân quê hương
Một chuyến về
thăm nhà
Tết đến
Một buổi
chiều, hai người già
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Về từ Tân Cảnh
Cô đơn và ước mơ
Trên đồi cao
Phạm Thị
Thàng - Nữ anh hùng đất G̣ Công
Bạn cũ năm mươi năm
Hương xưa ngày ấy
Đại Bàng gẫy cánh - F5
Sự thật đời tôi / Trung Tướng Trần Văn Minh
Thèm
Sao chổi
Đừa con dâu
Đại đội 17 "Hoàng Gia" 1
-
2
Sau cuộc biển dâu
Những người lính Dù
Tiễn nhau ngàn dặm cũng chia phôi
Tấm Poncho
Người bạn học và
ông thầy cũ
Mối hận ngh́n trùng!
Những mùa Trung Thu
Tấm ảnh hai người
lính
Tin quan trọng gửi
đến các anh em TPB ở Việt Nam
Chim bay về biển
Văn chương
Việt Nam và chữ “Y”
Hạnh phúc và bất hạnh
Chữ "Tín"
Nếu ngày ấy...
Thuận An
Thôi ! Ḿnh
về Linh Xuân Thôn, đi em !
Văn hoá phương Nam
Thức tỉnh
Sự xâm lăng văn
hóa của việt cộng
Tác giả
“Những Đồi Hoa Sim” đă chết trên đồi hoa sim
Hành trang và lư
tưởng
Góp nước miếng
húp chung
Đêm chờ sáng 1975
Thuốc lào trong tù....
Người chồng một đêm
Khóa 8 B+C/72
SQTB/Thủ Đức họp mặt
Trở về cố hương
Trôi theo ḍng đời
Ngộ chiêu
T́nh người
trong cuộc chiến
Khóc bạn
Cư An Tư Nguy
Con c̣n nợ ba
Không Quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Những
người chiến sĩ đáng hănh diện
Nắng chiều vẫn đẹp
Hạnh phúc vẫn
long lanh
Con Trâu đâu có cải tạo
Nhớ nhà
Bác sĩ trong tù
Nhà bốn anh em
Tháng Sáu và Tôi
Chuyện về một cô gái
Chuyện một người mang tên Nguyễn Thị Di Tản
Cái giường đôi
Ưu việt nhất !!!
Hậu nhân trả lời VC
Huỳnh Tấn Mẫm
Chúng tôi vẫn sống
Bọt không cần vớt
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa, Chuyện kể từ đầu
Làm sao để chôn hai Chế Độ?
Cà-phê lính
Cuộc trùng phùng
bi thảm
Tuổi trẻ nghĩ ǵ ?
Tiển con
Nhớ anh linh Anh
hùng Nguyễn Ngọc Trụ
40 năm nhớ về
C̣n đó niềm đau
Viết cho con cháu
Tưởng nhớ bác Thái Văn Kiểm
Người bạn thân
Người già cả, người bệnh tật
Người tỵ nạn và
Việt kiều
Sự ra đi
của hai vị Tướng Tư Lệnh
Nhạc Sĩ Thục Vũ
Câu chuyện
của Nguyễn Thị Thái Ḥa
Một thoáng Pleiku
Bạn đồng môn khóa 2 CSQG
Quân đội bị quên
lăng của Việt Nam Cộng Hoà
Nhạc sĩ Lê
Trạch Lựu và bài hát Em Tôi
Bắc Kỳ
Văn chương trào
phúng truyền khẩu
Mậu Thân Huế – Nhân chứng sống
Kỷ niệm với Hồ Ngọc Cẩn
Điều c̣n lại sau
40 năm
Thương
Tiếc những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù
Anh là áng mây trôi
Tâm thức
người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc
Rợp bóng cờ
Trên núi Hoàng Liên
Kư ức mùa Xuân
Để tưởng niệm một
người Anh
San Jose, năm hết tết
đến
Valentine trong di sản Chiến Tranh
T́nh như gió thoảng
Thằng Thời
40 năm cuộc sống người thương phế binh VNCH
Ăn Tết thôn quê
Hạt bụi nào trong mắt
Giọt nắng cho người
Gặp tướng Ngô Quang Trưởng Lần Cuối Cùng...
Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam VN
Quê Hương, chùm khế ngọt
Quả tim người tử tù
Anh hùng Ngụy Văn Thà
Người ở lại Hoàng Sa
Trận Hoàng
Sa, biểu tượng hội tụ ḷng yêu nước
Ngày 19-01: Tưởng Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Em gái hậu phương Dạ Lan là ai?
Hồi kư Việt Nam
Để nhớ một thời áo trận
Con dao xếp trong ngày Tết Tây
Người về từ Đại Dương
Lễ Tưởng Niệm Tử
Sĩ Hoàng Sa
Lăo Mốc
Lên núi t́m chồng
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013
Bài vở cũ 2012