FALLS CHURCH, Virginia (NV) - “Harry Trần Ngọc
Huế là một chiến binh lỗi lạc và ông đă phải trả giá đắt cho sự
trung thành với tổ quốc ḿnh trong cuộc chiến Việt Nam.” Đó là lời
mà Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ James Webb (Dân Chủ-Virginia) viết về người
cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (QLVNCH) này trong một bức
thư đề ngày 4 Tháng Tư vừa qua.
Qua một người bạn giới thiệu, tôi được gặp người đàn ông mà nhiều
người trong Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, trong đó có
Thượng Nghị Sĩ Webb, từng là bộ trưởng Bộ Hải Quân, gọi là “anh hùng
của những anh hùng (Hero of the Heroes).”
Tướng cao to, khỏe mạnh, mặc dù tuổi đă ngoài 60, bàn tay trái chỉ
c̣n hai ngón nguyên vẹn, cộng với một vài vết thẹo trên khuôn mặt và
phía dưới cằm, ít ai ngờ rằng, con người này đă từng vào sinh ra tử
biết bao lần, nhất là cuộc chiến lấy lại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ
Binh và Đại Nội Huế, hồi Tết Mậu Thân 1968.
V́ những hành động anh hùng của ḿnh, ông Harry Trần Ngọc Huế đă
được Hoa Kỳ tặng thưởng một huy chương “Ngôi Sao Bạc” (Silver Star)
và một huy chương “Ngôi Sao Đồng” (Bronze Star). Ngoài ra, ông cũng
được chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa tặng Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân
Chương cùng nhiều huy chương cao quư khác. Harry là tên các cố vấn
Mỹ đặt cho ông.
Cuộc tái chiếm Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh
Là đại đội trưởng Đại đội Hắc Báo, lực lượng tổng trừ bị của Sư Đoàn
1 Bộ Binh QLVNCH, Trung úy Trần Ngọc Huế đă khôn khéo và dũng cảm
chỉ huy trận chiến một mất một c̣n với quân đội Bắc Việt để lấy lại
quyền kiểm soát Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1, nơi đầu năo chỉ huy tái chiếm
lại Huế vào Tết Mậu Thân 1968.
Người cựu chiến binh này kể: “Lúc đó, Đại đội Hắc Báo của chúng tôi
là Lực Lượng Phản Ứng Cấp Thời (Fast Reaction Forces) đóng tại sân
bay Thành Nội. Đêm đó là mùng một Tết và quân đội Bắc Việt đă tấn
công nhà đèn, Thiết Đoàn 7 Thiết Giáp, Phú Văn Lâu, Ṭa Hành Chính
Tỉnh và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1. Ngoài đường phố tràn ngập lính Bắc
Việt, phi trường bị pháo kích dữ dội...”
Ông kể tiếp: “Chúng tôi có 6 trung đội, sau khi bố trí quân, tôi về
nhà nghỉ. Một lúc sau, thấy pháo dữ dội quá, tôi trở dậy, mặc đồ
lính đi. Trong đêm tối, tôi thấy đặc công Bắc Việt đi hàng hàng lớp
lớp ngoài đường.”
“Lúc đó, tôi rất lưỡng lự, không biết có nên đi hay không v́ con gái
đầu ḷng của tôi mới sinh được một tháng. Tôi có thể trở về nhà với
vợ con, nhưng nghĩ lại trách nhiệm của người lính và một chỉ huy.
Hơn nữa, nếu nước mất nhà tan, th́ chưa chắc gia đ́nh tôi yên ổn.
Thế là tôi tiếp tục đi phía sau họ để đến phi trường,” người anh
hùng này kể tiếp.
Khi đến sân bay, theo lời ông kể, đặc công Bắc Việt đă tiếp cận bộ
chỉ huy Đại đội Hắc Báo của Trung úy Huế.
“Họ chiến đấu rất hăng say. Họ mặc quần đùi, đeo súng AK bá xếp. Tuy
nhiên, các anh em Hắc Báo đă dũng cảm chiến đấu và đánh bật đối
phương ra khỏi phi trường. Chúng tôi cứu được hai lính thủy quân lục
chiến Hoa Kỳ, lúc đó có nhiệm vụ bảo vệ phi trường, khỏi tay quân
địch,” ông Huế kể tiếp.
Sau đó, đơn vị Hắc Báo lại được lệnh của Trung tá Ngô Văn Chung,
trưởng pḥng 3, Sư Đoàn 1, qua giải cứu Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, đang bị
địch vây hăm.
“Liền đó, tôi nghe trên điện đàm tiếng Trung tá Chung nói: Đây là
lệnh của mặt trời (ẩn danh của Tướng Ngô Quang Trưởng). Nếu không
thi hành sẽ bị đưa ra ṭa án mặt trận”. Ông Huế kể.
Qua hệ thống vô tuyến chỉ huy, ông Huế cũng nghe được lệnh của Trung
tá Chung ra lệnh cho Thiết Đoàn 7, đồn trú tại An Cựu, đưa xe tăng
sang cứu Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn.
“Tuy nhiên, Trung tá Chí, thiết đoàn trưởng Thiết Đoàn 7 Thiết Giáp,
cho sư đoàn biết là hiện tại bộ chỉ huy của ông đang bị pháo và đặc
công uy hiếp nặng nề,” ông Huế kể tiếp.
Sau khi ổn định t́nh h́nh, Trung úy Huế tập trung anh em Hắc Báo lại
và ban lệnh hành quân kế tiếp.
Ông kể: “Tôi nói với anh em rằng, một nửa đại đội pḥng thủ phía Nam
sông Hương đă chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và tôi đă mất liên
lạc. Nay Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đang bị vây hăm, t́nh thế thập tử nhất
sinh, tất cả đều trông cậy vào Hắc Báo chúng tôi. V́ sự sống c̣n của
anh em và gia đ́nh, v́ sự sống c̣n của đồng bào và thành phố, chúng
tôi quyết phải đánh, dù bất cứ giá nào.”
Sau khi nghe đại đội trưởng Huế nói, tất cả đều hô to “Xin thề! Xin
thề! Xin thề!” và “Huế ơi, có chúng tôi đây!”
“Đó là lời thề của các chiến sĩ Hắc Báo trước khi xung trận,” cựu
đại đội trưởng Hắc Báo cho biết tiếp.
Nhờ sống ở Huế lâu và rất rành đường đi nước bước trong thành phố,
nên ông Huế dễ dàng dẫn quân luồn lách qua những ngả đường, đến nơi
mà địch hoàn toàn không biết.
Người cựu chiến binh QLVNCH này say sưa kể: “Khi đến bên này Cầu
Kho, tôi thấy bên kia cầu, gần cổng chính vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn,
địch đang lúc nhúc đào công sự, chuẩn bị tấn công. Bên trong bộ tư
lệnh không thể nào ra được. Ngoài nhân viên Việt Nam c̣n có một số
cố vấn Mỹ trong đó. Nếu bộ tư lệnh mà bị chiếm là coi như rắn mất
đầu. Thế là chúng tôi phải dốc toàn lực đánh một mất một c̣n với
địch.”
Theo ông Huế, Hắc Báo là đơn vị đầu tiên của Sư Đoàn 1 có súng M16,
được coi là tối tân nhất lúc đó. Họ cũng sử dụng súng phóng hỏa tiễn
M72, đại liên 30ly và đại bác 57ly không giật.
“Từ bên này cầu, tôi cho bố trí ba khẩu đại liên bắn trực xạ làm
quân địch rối loạn. Cùng lúc đó, chúng tôi dùng cả lựu đạn khói làm
địch không thấy đường. Sau khi hy sinh một tiểu đội, chúng tôi chiếm
lại cầu và mở đường vào bên trong bộ tư lệnh,” ông Huế kể tiếp như
vậy.
Người đầu tiên Trung úy Huế gặp khi vào bên trong bộ tư lệnh là
Trung tá Trần Văn Cẩm, tham mưu trưởng sư đoàn. Trung tá Cẩm liền
chỉ cho đại đội trưởng đại đội Hắc Báo biết nơi địch quân đang chiếm
đóng trong khu vực. Đó là khu vực Đại đội 1 Quân Y Sư Đoàn, bệnh xá
và câu lạc bộ.
“Không chần chờ, tôi cho lệnh chiến đấu,” ông Huế kể.
Đơn vị Hắc Báo dùng lựu đạn đi đến tấn công từng pḥng, giết và bắt
một số tù binh một cách dễ dàng.
“Chiến thuật của Hắc Báo lúc đó là cận chiến nhằm bắt sống tù binh
để khai thác. Nếu không được mới dùng lựu đạn tấn công,” ông Huế cho
biết như vậy.
Tôi hỏi: “Làm sao mà đặc công có thể thoát băi ḿn để vào được bên
trong bộ tư lệnh nhiều thế?”
“Đó là một đường cống, lỗ thoát nước. Đó chính là nơi mà đặc công ḅ
vào,” ông trả lời.
“Sau khi chiếm cửa hậu phía Bắc của thành Mang Cá, tôi thấy một cảnh
hăi hùng. Địch đang ḅ lê ḅ càng dọc theo bên ngoài bờ thành. Thế
là các khẩu đại liên của Hắc Báo cứ thế mà ‘quét’ vào. Cuộc chiến
bắt đầu từ 10 giờ sáng mà măi đến 3 giờ chiều mới kết thúc,” ông
Trần Ngọc Huế nói.
Ông nói tiếp: “Lúc đó, chúng tôi chiến đấu với tinh thần sống tự do
hay là chết.”
Ngay sau đó, ông đă được tặng thưởng huy chương Anh Dũng Bội Tinh
với Ngôi Sao Bạc (Gallantry Cross with Silver Star) do chính Tướng
Creighton Abrams, tư lệnh Các Lực Lượng Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt
Nam, gắn lên ngực áo. Cũng trong dịp này, ông được lên đại úy và
chính Tướng Ngô Quang Trưởng gắn lon cho ông.
Ngày 19 Tháng Sáu, 1969, Ngày Quân Lực VNCH, ông Trần Ngọc Huế được
thăng cấp thiếu tá.
Viên ngọc của “Huế”
Sinh ra và lớn lên tại Huế, cái tên Trần Ngọc Huế của ông c̣n có
nghĩa là “ḥn ngọc của Huế xuất phát từ nhà Trần.”
Năm 12 tuổi ông đă vào trường Thiếu Sinh Quân. Sau khi đậu tú tài,
chàng thanh niên Trần Ngọc Huế vào trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt,
khóa 18. Ra trường năm 1963, ông được điều ngay về Sư Đoàn 1 Bộ
Binh.
Kể từ năm 1969, ông lần lượt làm tiểu đoàn trưởng các tiểu đoàn 1/3,
5/2 và 2/2 thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
Tháng Ba, 1971, Tiểu Đoàn 2/2 của ông cùng với các tiểu đoàn khác,
dưới sự chỉ huy của Đại tá Ngô Văn Chung, trung đoàn trưởng Trung
Đoàn 2, được điều động tham gia cuộc hành quân Lam Sơn 719 với nhiệm
vụ đột kích bằng trực thăng vận vào mục tiêu chiến lược Tchepone,
Nam Lào. Theo kế hoạch, sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiếm và kiểm
soát mục tiêu chính của cuộc hành quân, ông Huế sẽ được Tướng Phạm
Văn Phú đáp trực thăng xuống gắn lon trung tá và tiểu đoàn của ông
sẽ được lệnh hành quân về phía Tây Nam Lào, giải vây cho hai tiểu
đoàn 3/3 và 4/3.
Sau khi giải vây được cho tiểu đoàn bạn, Tiểu Đoàn 2/2 lại bị địch
bao vây.
Ông Huế kể: “Lúc đó, pháo bắn vào dữ quá. Tôi bị thương nặng nơi
mặt, đầu và cổ. Ban chỉ huy ra lệnh mở đường máu rút lui. Anh em đ̣i
khiêng tôi rút lui, nhưng tôi không chịu. Tôi không muốn anh em bị
thiệt hại v́ mang tôi đi. Chúng tôi xuống 600 người nhưng chỉ thoát
được 50 người. Toàn bộ số c̣n lại bị bắt hoặc hy sinh. Đó là ngày 21
Tháng Ba, 1971.”
Sau đó, ông Huế được anh em tù binh khiêng đi dọc đường ṃn HCM về
tới Vĩnh Linh. Phía địch quân đưa ông lên xe lửa và mang ra nhốt tại
nhà tù Hỏa Ḷ. Vài tháng sau, ông bị đưa lên nhốt ở các trại tại Sơn
Tây, Hoàng Liên Sơn, Yên Bái, Lạng Sơn và Cao Bằng.
Ông Huế kể tiếp: “Sau khi Hiệp Định Paris được kư kết hôm 27 Tháng
Giêng, 1973, theo quy định, địch phải thả tôi. Lúc đó, tôi đang ở Kỳ
Cùng th́ địch đưa về Hà Tây. Sau đó, họ đưa tôi cùng một số anh em
khác vào bờ sông Thạch Hăn để trao trả tù binh. Nhưng tự nhiên địch
chia chúng tôi ra làm hai nhóm, nhóm bị bắt tại các nơi khác và nhóm
bị bắt ở Lào. Lúc đó, tôi đă mường tượng một điều ǵ đó không tốt.”
“Các anh bị bắt ở Lào là thuộc quyền Mặt Trận Lào Yêu Nước,” một cán
bộ Bắc Việt nói với ông Huế như vậy, theo lời kể của ông.
Ông kể tiếp: “Thế là họ đưa chúng tôi về ngă ba Đường Thành, Hà Nội,
và giam tiếp. Chúng tôi phản đối bằng cách tuyệt thực và cạo đầu.
Thế là chúng c̣ng tay và đánh đập chúng tôi. Sau đó, chúng tôi bị
đưa đi Yên Bái và nhốt cách ly. Kế đến, chúng lựa ra 11 người đầu
năo, trong đó có tôi, đưa lên nhốt ở Cao Bằng.”
“Năm 1974, chúng tôi bị đưa về Nghĩa Lộ làm trại cải tạo chuẩn bị
đón thêm tù binh. Sau đó, chúng tôi lại bị đưa trở lại về Yên Bái để
làm đường chiến lược Tây Bắc,” ông kể tiếp.
Năm 1978, khi Việt Nam rục rịch chiến tranh với Trung Quốc, ông Huế
lại bị đưa về Nam Hà. Đến Tháng Tư, 1982, ông được chuyển về Hàm
Tân. Tháng Bảy, 1983, ông được thả.
Về Sài G̣n, ông bị quản thúc tại gia trong nhiều năm cho đến năm
1991, ông sang Hoa Kỳ diện cựu sĩ quan chế độ cũ.
Cuộc sống mới tại Hoa Kỳ
Hồi ở Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 1, ông Huế có một người
bạn thân là David Wiseman, lúc đó là cố vấn Mỹ. Ông Wiseman cũng
từng bị thương ba lần tại Việt Nam và rất cảm kích tinh thần chiến
đấu của người bạn Trần Ngọc Huế.
Sau năm 1975, ông David Wiseman không biết người bạn của ḿnh sống
chết ra sao. Ông cầm tấm h́nh của ông Huế đi khắp vùng thủ đô
Washington D.C. và đưa cho mọi người xem. Mỗi lần ông đưa tấm h́nh
ra, ông đều nhận được một cái lắc đầu.
Cho đến một hôm, ông Wiseman tham dự một buổi tiệc gây quỹ của Hội
Gia Đ́nh Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam tại Virginia và gặp ông Ngô
Đức Am, em rể của bà Khúc Minh Thơ, chủ tịch hội.
Thật là may mắn cho ông Wiseman v́ ông Am chính là người ở chung
trại tù với ông Huế.
Sau khi xem tấm h́nh, ông Am cho ông Wiseman biết ông Huế vẫn c̣n
sống ở Việt Nam. Thế là ông Wiseman t́m cách liên lạc với ông Huế.
Việc đầu tiên là ông Wiseman gởi cho ông Harry một bức thư ngắn
trong đó kèm theo năm tờ giấy $20. Bức thư chỉ có vài hàng: “Harry,
tôi biết anh c̣n sống. Tôi đă t́m anh 20 năm nay. Tôi sẽ t́m mọi
cách đưa anh sang Mỹ. Nếu anh qua Mỹ tôi sẽ giúp. Nếu anh muốn ở
lại, tôi sẽ gởi tiền về giúp. Anh c̣n thích hút thuốc Salem không?”
Khi đến Hoa Kỳ năm 1991, chính ông Wiseman là người ra đón gia đ́nh
ông Huế tại phi trường Washington National Airport. Sau đó, ông
Wiseman lo mướn nhà cho gia đ́nh ông Huế, giúp mua sắm một số vật
dụng cần thiết.
Theo ông Huế cho biết, ông Wiseman đă qua đời cách đây bốn năm.
Kể từ khi biết Harry đến Hoa Kỳ, các cố vấn Mỹ, mà nhiều người sau
này trở thành bạn thân và coi Harry như anh em ruột, gọi điện thoại
và đến thăm tới tấp. Ai cũng muốn giúp ông ổn định cuộc sống mới.
Năm 1994, nhờ bạn bè Mỹ giúp đỡ, cựu chiến binh Trần Ngọc Huế và ba
cô con gái, Coco, Vicky và Elly, vào làm cho ngân hàng Navy Federal
Credit Union cho đến nay.
Một người lính đầy danh dự
Dù trong hoàn cảnh nào, cựu chiến binh Harry Trần Ngọc Huế luôn giữ
được khí tiết và danh dự của một người lính QLVNCH. V́ thế, ông được
nhiều người rất kính nể.
“Mỗi người có một cách sống riêng. Bản thân tôi luôn sống với danh
dự của một quân nhân QLVNCH. Người ta (các cố vấn Mỹ) đă rời bỏ quê
hương sang giúp ḿnh th́ ḿnh phải giúp họ hoàn thành nhiệm vụ. Sống
với họ phải sống xứng danh quân đội VNCH. V́ thế, tôi có những cảm
t́nh rất khó tin với các cố vấn Mỹ,” ông Huế chia sẻ như vậy.
Ông Ned Devereaux, cố vấn cũ và từng bị thương với ông cố vấn
Wiseman và ông Huế ngày 8 Tháng Mười Một, 1970, cho biết: “Khi tôi
gặp Harry lần đầu tiên, tôi biết ngay ông là một người lính chuyên
nghiệp, một sĩ quan chuyên nghiệp, một người mà khi ra lệnh tôi sẽ
theo ngay, không thắc mắc. Harry đă làm tôi cảm thấy ḿnh là một
thành viên trong gia đ́nh quân đội của ông. Những ǵ ông làm đă giúp
tôi hoàn thành nhiệm vụ dễ dàng.”
“Nếu phải viết một câu về Harry, tôi sẽ viết, Harry thật sự là một
anh hùng, một người trung thành với tổ quốc, cấp trên, gia đ́nh và
binh sĩ của ḿnh và tôi coi Harry như một người anh em cùng huyết
thống và thật sự kính nể ông,” ông Devereaux viết như vậy trong
email gởi cho tôi.
Ông Thái Quang Ty, một trung sĩ đại đội Hắc Báo tham gia trận đánh
lấy lại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, đang sống tại thành phố
Atlanta, Georgia, kể: “Anh Huế là một chỉ huy tài giỏi và mưu lược.
Lúc tôi ở cùng đơn vị với anh, Hắc Báo đánh đâu thắng đó, chưa thua
một trận nào. Ở mỗi trận đánh, anh đều quan sát trước địa h́nh trước
khi giàn quân. Các chỉ huy khác thường xua binh sĩ đi trước, riêng
bản thân anh lúc nào cũng đi sát binh sĩ. Chính v́ vậy làm cho tinh
thần anh em hăng say.”
Qua điện thoại, ông Richard Weyand, cố vấn đại đội Hắc Báo từ năm
1967 đến 1969 và hiện sống tại thành phố Kenosha, Wisconsin, nói:
“Harry là người dấn thân nhất cho cuộc chiến. Cách chỉ huy của ông,
sự trung thành của ông và sự can đảm của ông làm tôi tự hào khi được
làm việc với ông trong hai năm trời.”
Một cố vấn khác của đơn vị Hắc Báo, ông William Bolt, hiện là trung
tướng hồi hưu sống tại thành phố Columbia, South Carolina, kể qua
điện thoại: “Trong một trận đánh tại phía Nam thành phố Huế vào cuối
năm 1968, chính ông Harry đă cơng ông Richard Weyand ra sau khi ông
này bị thương trong một băi ḿn. Harry quả thực là một người can
đảm. Ông là một người yêu nước và là người hy sinh nhiều nhất cho
đất nước của ông mà tôi được biết.
Khi Giáo Sư Sử Học Andrew Wiest, trường đại học University of
Southern Mississippi, chuẩn bị viết tác phẩm “Vietnam's Forgotten
Army, Heroism and Betrayal in the ARVN,” ông vô t́nh biết được Harry
Trần Ngọc Huế qua ông Jim Coolican, cựu Đại Tá Thủy Quân Lục Chiến
Hoa Kỳ và là cố vấn của ông Huế hồi Tết Mậu Thân 1968.
Giáo Sư Wiest kể: “Tôi sang thăm Việt Nam năm 2000 và thấy rất
nhiều. Một điều tôi ít thấy nói đến là QLVNCH. Về Mỹ tôi quyết định
viết một cuốn sách về đề tài này. Trong lúc nghiên cứu t́m tài liệu,
nhiều người cho tôi biết phải t́m và viết về Harry Trần Ngọc Huế.
Thế là tôi nhờ cựu cố vấn Jim Coolican giúp tôi.”
“Tôi nghĩ Harry là một biểu tượng xứng đáng nhất của Việt Nam và Hoa
Kỳ. Cũng như bao nhiêu người khác sau chiến tranh, đến Hoa Kỳ với
hai bàn tay trắng. Giờ đây, cả ba cô con gái của ông đều tốt nghiệp
đại học và có việc làm ổn định. Harry đă thực hiện được giấc mơ Mỹ
của ḿnh,” giáo sư này nói tiếp.
Ông kết luận: “Harry là người yêu nước nhất mà tôi gặp từ trước đến
nay.”
Vào Tháng Mười Hai tới đây, Giáo Sư Andrew Wiest sẽ cho ra mắt tác
phẩm nêu trên.
Đại úy Harry Trần Ngọc Huế được Tướng Creighton Abrams, Tư Lệnh Quân
Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, gắn huy chương “Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi
Sao Bạc” (Gallantry Cross with Silver Star), sau trận Mậu Thân 1968
Bàn tay chỉ c̣n hai ngón nguyên vẹn của Harry Trần Ngọc Huế và những
tấm huy chương.
Harry Trần Ngọc Huế: “Lúc đó, chúng tôi chiến đấu với tinh thần sống
tự do hay là chết.”
Cựu hắc báo Harry Trần Ngọc Huế đứng cạnh bức h́nh mà cựu cố vấn
David Wiseman đă cầm để đi t́m ông trong một thời gian dài.
Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây
biểu chương...
Lễ nghi
quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu,
huy hiệu... QLVNCH
Tiến
tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về
Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6
Gươm lạc giữa rừng hoa
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ
Sắc lệnh về
quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ
quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !
140
chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại
VN
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Tổng Thống Abraham Lincoln
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo
vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng
Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc
Luận về Tậm Lư
Chính Trị
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?
Một tài liệu 42 năm cũ
Dựng
Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi
Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974
Những điều nên biết về
Medicare 2016
Remember C-Rations?
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Tướng lănh VNCH
Bài phỏng
vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột
tháng 3, 1975
Đại Tá
Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần
Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975
tại Sài G̣n
Chuyện của một
ngôi trường
Luận về khoa bảng
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền
Phiếm luận
về mộng mơ qua văn chương và triết học
Chính sách
thuế khóa
Cách viết hoa
trong tiếng Việt
Đoàn
thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa
ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa
Việt Nam
Tiếng Việt ba miền -
Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?
TT
Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?
HCM đă âm mưu
bán nước từ năm 1924
Vài nét
về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải
chiến Midway
Adm
Chester Nimitz
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc
hành quân Lam Sơn 719
Những trận đánh đi vào quân sử
Nguyên nhân xụp
đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng
Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh
chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh
Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng
Nguyên do chính khiến VN bất tử
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và
huyền thoại
Vài nét hoạt
động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến
VNCH
Trung
Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72,
TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng
12 năm 1965
Nhảy Dù và
Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử:
Mậu thân Huế
Trận KAMPONG
TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v
Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn
Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ
QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát
Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân
VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc
Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về
thành nội Tết Mậu Thân
Một ngày với Đô Đốc
Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh
anh dũng và trung thành với Tổ Quốc
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần -
Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối
tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng
Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết
hiên ngang
Chuyến công tác cuối
cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá
BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người
chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà
Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh
một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của
Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn
thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị
bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng
sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi
trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường
BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh
hùng
Lịch sử h́nh thành
QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận
Vong
Người lính
VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người
lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù
bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh
chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính
VNCH
Sự thật về cái chết
của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số
quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những
chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn
Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1,
Phần 2,
Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ
1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn
Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên
Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
QLVNCH
Những người trở về
với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam,
Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ
lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức -
1974
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc
Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù
CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước
Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội
chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối
của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc
Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành
Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú
Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di
sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền
ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc
Kinh