Ts. Lê Thiện Phúc
(Ngôn ngữ học)
Mặc dù "văn hóa" là ư niệm rất trừu tượng mặc dù hàng ngày chúng ta
vẫn thường đề cặp tới trong sinh hoạt đời sống cũng như trong các
lănh vực văn học nghệ thuật.
Sau năm 1975, ở Việt Nam không hiếm xảy ra những lạm dụng cụm từ "văn hóa" trong nhiều t́nh huống chẳng hạn như "gia đ́nh văn hóa" hay "lời nói thiếu văn hóa", nhưng ít ai để ư tới cái ư nghĩa của "văn hóa" là ǵ cả!
Văn hóa, theo định nghĩa của một từ ngữ tương đương trong tiếng Anh "culture" là một tổng hợp đặc tính của một nhóm người nào đó trong xă hội. Theo một nghiên cứu khoa học, văn hóa được ăn sâu trong mỗi cá nhân (Mey 2004: 32); nhưng nó thường được bàn thảo như là thực thể dựa theo sự hiểu biết chung của một xă hội, quốc gia hay dân tộc, chẳng hạn như văn hóa Trung Quốc, văn hóa Nhật Bản hay văn hóa Việt Nam. Nói khác đi, khi nói đến văn hóa Việt Nam là người ta nói đến những đặc thù của người Việt. Tuy nhiên những đặc thù nầy có được sự chấp nhận hay không là do quan niệm của những người liên hệ trong cuộc, hay tùy theo cấp độ ư nghĩa muốn được áp dụng.
Thí dụ, trong một nghiên cứu về ngôn ngữ xă hội, văn hóa Việt Nam được phân biệt xa hơn đó là nền văn hóa dựa trên nền tảng Nho giáo và văn hóa theo định hướng chủ nghĩa Cộng sản (Nguyen 2008: 275). Nếu văn hóa Việt Nam được áp dụng hay định nghĩa dựa theo định hướng chủ nghĩa Cộng sản th́ một trong những nét đặc thù của văn hóa Việt Nam là lá cờ đỏ ngôi sao vàng, là "nhân dân làm chủ, nhà nước quản lư và đảng lănh đạo". Liệu cộng đồng người Việt tỵ nạn hải ngoại có chấp nhận những nét văn hóa Việt Nam như vậy hay không là một chuyện khác! Chính v́ vậy mà khi người Việt hải ngoại về Việt Nam thăm thân nhân không tránh khỏi bỡ ngỡ, lúng túng trước những bảng hiệu "gia đ́nh văn hóa", "nhà văn hóa" hay "trung tâm văn hóa". Người Việt hải ngoại lúng túng trước các bảng hiệu như vậy là điều tất nhiên, bởi v́ họ đâu có biết ǵ về văn hóa Việt Nam theo định hướng chủ nghĩa Cộng sản!
Như vậy cái ư nghĩa đích thực của văn hóa Việt Nam là ǵ?
Muốn quán triệt cái ư nghĩa đích thực của văn hóa Việt Nam là ǵ th́ ta nên tách rời mọi ư niệm hay thành kiến chính trị để quay về nguồn gốc văn hóa Việt Nam dựa trên tinh thần nhân bản tự nhiên chứ không phải bị áp chế bởi bất cứ h́nh thức chính trị nào. Lẽ tất nhiên muốn được độc lập trong tư duy hay cách suy nghĩ của ḿnh th́ người suy nghĩ phải được sống trong một môi trường tự do, nơi đó nhân quyền được triệt để tôn trọng.
Dù sao, văn hóa Việt Nam có thể nói là đă gắn liền với tư tưởng nho giáo từ hơn một ngàn năm lịch sử của dân tộc. Như vậy, trong bài viết nầy khi bàn về văn hóa Việt Nam tôi căn cứ vào tư tưởng nho giáo, bởi v́ đây chỉ là một bài viết ngắn, không có tầm vóc nghiên cứu sâu xa trước một ngàn năm lịch sử dân tộc Việt Nam của chúng ta.
Do đó , khi bàn về văn hóa Việt Nam chúng ta không thể không nhắc đến năm ư niệm Nhân, Lễ Nghĩa, Trí, Tín, mà theo nho giáo th́ được gọi là "Ngũ Thường". Nó chính là năm yếu tố luân lư căn bản để trở thành nhân cách một con người. Nói khác đi, người có nhân cách phải có đủ năm yếu tố: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Nhân là cách đối nhân xử thế, là tấm ḷng yêu thương con người, yêu quê hương đất nước, là thái độ biết gắn cái riêng của ḿnh vào cái chung của xă hội, với sự ràng buộc giữa người và người, bằng những mối liên quan gắn kết với nhau. Nó c̣n được gọi chung là luân thường đạo lư: Vua – tôi, cha – con, vợ - chồng, anh – em và bằng hữu.
Lễ là nghi thức thể hiện qua cách hành xử, ứng xử
hợp ḷng người trong cuộc sống; qua đó, xă hội hay người khác đánh
giá sự hiểu biết của một cá nhân. Chữ lễ v́ vậy là lễ phép, đức độ
kính trên nhường dưới trong đạo vua – tôi, cha – con, vợ - chồng,
anh – em. Nó c̣n thể hiện qua những h́nh thức lễ nghi theo các
truyền thống để rồi trở thành một nét văn hóa của dân tộc.
Nghĩa thể hiện vai tṛ, trách nhiệm của con người với con người,
giữa người với đời, với xă hội. Cũng chính v́ vậy mà ở đời trong
thời nào cũng cần có nghĩa, hay có trách nhiệm với quê hương đất
nước, với gia đ́nh ḍng họ, ông bà cha mẹ, vợ con, anh em bằng hữu.
Biết ơn khi ḿnh đă nhận được những điều may mắn trong cuộc sống.
Nhiều người biết quan tâm giúp đỡ mọi người trong xă hội, làm từ
thiện, chính là để tỏ ḷng tri ân với đời. Nghĩa cũng là biết sống
cho mọi người chứ không chỉ sống cho riêng cá nhân ḿnh.
Tuy nhiên, nếu muốn làm được việc nghĩa th́ phải có trí, phải có một sự hiểu biết căn bản: Biết khi nào cho, cho như thế nào. Có nhân, có nghĩa mà không có trí th́ nhiều khi cái nghĩa cử cao đẹp của ḿnh trở thành vô nghĩa; cái hành động đạo đức của ḿnh có thể trở thành vô đạo đức; bởi v́ vô h́nh chung ta lại đi tiếp giáo cho giặc, và rốt cuộc ta gây ra thảm họa cho nhiều người hiền lương vô tội. Tóm lại, trí là một sự hiểu biết, người không trí tức là không có sự hiểu biết th́ không làm được ǵ hữu ích cả. Ngày xưa đánh giá chữ trí của một con người qua sự hiểu biết về đạo quân tử; ngày nay, ngoài sự hiểu biết về lĩnh vực văn hóa xă hội, triết học th́ cần có một sự hiểu biết về khoa học tự nhiên cần thiết cho cuộc sống hiện đại. Hiểu biết nhiều có thể làm được nhiều việc có ích với đời nếu người đó có nhân, có nghĩa trong tâm.
Có có đủ bốn yếu tố: nhân, lễ, nghĩa, trí, mà không có tín th́ cũng chưa vẹn toàn. Một người không có uy tín hay không có ḷng tin đối với người khác th́ cũng chẳng được ai tôn trọng. Chữ tín trong cuộc sống hàng ngày rất quan trọng, bởi v́ sống ở đời ai cũng cần có một uy tín nhất định trong quan hệ với mọi người xung quanh. Có được uy tín với bạn bè, với người chung quanh th́ sẽ tạo được sự tin tưởng của họ, và nhờ đó sẽ dễ dàng được họ giúp đỡ, hỗ trợ trong cuộc sống. Uy tín là giữ lời hứa - nói th́ phải làm.
Có được nhân, lễ, nghĩa, trí, tín chính là có được năm yếu tố kết hợp thành nhân cách của con người để có được sự hài ḥa trong mối quan hệ giữa các cá nhân trong xă hội, hay trong gia đ́nh.
Theo truyền thống Việt Nam th́ đơn vị cơ bản của xă hội là gia đ́nh chứ không phải là cá nhân. Do đó, sự hài ḥa trong mối quan hệ giữa các cá nhân được đánh giá cao hơn thành tích cá nhân (Phạm 2008: 79). Vẻ đẹp thể chất và dáng điệu bề ngoài được coi là quan trọng đối với cả nam giới và phụ nữ, nhưng đức hạnh của người phụ nữ luôn luôn được ca ngợi. Hiếu nghĩa, t́nh huynh đệ, và ḷng trung thành vợ chồng cũng được đánh giá cao. Người Việt Nam có khuynh hướng nội tâm. Đức hạnh của một người thường được giữ kín trong ḷng; do đó sự mong muốn của họ được thể hiện gián tiếp bằng cách nói gợi ư, ṿng vo, và họ suy nghĩ cẩn thận trước khi nói (Nguyễn 1987: 103).
Các khái niệm về gia đ́nh, sự ḥa hợp, đạo đức, hiếu nghĩa, t́nh huynh đệ, và ḷng trung thành vợ chồng được ăn sâu trong văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Hầu hết các giá trị văn hóa cho thấy Nho giáo có mặt trong xă hội Việt Nam từ hàng ngàn năm (Marr 1981: 101-135; Duiker 1995: 81). Văn hóa Việt Nam đă bị ảnh hưởng chủ yếu của Trung Quốc trong nhiều thế kỷ v́ sự gần gũi về địa lư và liên lạc phát sinh từ xung đột chính trị và kinh tế (Nguyễn 1995: 56). Theo ông Dương Quảng Hàm (1968: 1) th́ xă hội Việt Nam đă trải qua sự thống trị của Trung Quốc trong hơn một ngàn năm, giữa 207 TCN và 939 AD.
Trước khi giành được độc lập vào năm 939 AD, người dân Việt Nam đă bị ảnh hưởng sâu sắc của Trung Quốc trong mọi khía cạnh của cuộc sống từ thời gian đó. Ví dụ, trong giáo dục, người Việt Nam đă học chữ Trung Quốc, theo lời dạy của Khổng Tử và thông qua tư tưởng và văn hóa Trung Quốc. Trong gần một ngàn năm độc lập đến cuối thế kỷ XIX, qua nhiều vương quốc trong đó có Ngô, Đinh, tiền Lê, Lư, Trần, Hậu Lê và Nguyễn, kư tự Trung Quốc vẫn c̣n được sử dụng bởi tất cả các tổ chức chính phủ (Dương 1968,1-2). Khi hệ thống giáo dục Việt Nam chủ yếu dựa vào Nho giáo, hệ thống chữ viết Trung Quốc được dùng để giảng dạy và dần dần được biết đến như chữ nho (kịch bản Nho giáo), và các học giả trong Nho giáo được gọi là Nhà nho hoặc Thầy nho (giáo viên Nho giáo).
Sự ảnh hưởng của Nho giáo đă đạt đỉnh cao trong xă hội Việt Nam vào năm 1075, khi vua Lư Nhân Tôn tuyển dụng viên chức trong những người có học (Dao 1951: 254, Dương 1968: 81, Defrancis 1977: 14). Theo Jamieson (1993: 11), bắt đầu vào cuối thế kỷ mười lăm, Nho giáo đă trở thành một ảnh hưởng lớn, chi phối xă hội Việt Nam. Từ quan điểm này, Jamieson (1993: 16-17) cho rằng, trước hết, trẻ em Việt Nam được giảng dạy ḷng hiếu thảo (Hiếu), vâng lời và kính trọng cha mẹ, không chỉ trong hành vi, mà c̣n trong ngôn ngữ.
Trọng tâm của Nho giáo là dạy về sự áp dụng cho đúng danh vị của đối tượng bằng phương tiện ngôn ngữ. Theo đó, mỗi người cần chọn những từ thích hợp để làm hài ḷng, thuyết phục hoặc ảnh hưởng đến người khác (Vũ 1997: 58). Những ǵ Khổng Tử gọi là "chính danh" cũng theo ư niệm nầy, chủ yếu có tác dụng đạo đức để các cá nhân duy tŕ một trật tự xă hội tốt (Lương 1988: 241). Theo Khổng Tử th́ một trật tự xă hội tốt có nghĩa là duy tất cả các tầng lớp xă hội đúng theo vị trí thích hợp của họ (Feibleman 1976: 95).
Theo ông Nguyễn Xuân Thu (1986: 67) th́ những người có học thức cao th́ được đánh giá cao trong xă hội Việt Nam. Trong quá khứ có nhiều học giả từng là các nhà lănh đạo trong xă hội, là động lực phát triển xă hội và tấm gương luân lư để mọi người noi theo. Các phân tầng xă hội cũ được xếp theo thứ tự giá trị từ cao: sĩ, nông, công, thương, và sự đáng giá như vậy vẫn c̣n ăn sâu trong tâm trí của nhiều người Việt Nam, đặc biệt là những người trong thế hệ cũ, tức những người lớn tuổi. Tuy nhiên, mặc dù "sĩ" đứng ở vị trí đầu tiên trong phân tầng xă hội, trong giáo dục truyền thống Việt Nam, "lễ" vẫn được xếp ưu tiên thứ nhất. Như vậy, trước khi được xếp hàng "sĩ", hay "học giả", người ta phải được giáo dục tốt về "lễ", với trọng tâm có thể được liên kết với lịch sự, một đặc tính văn hóa được nhiều người quí trọng.
Từ một góc độ khác, Wangdao (1997: 75) cho rằng một trong những ưu điểm lớn của Khổng Tử là "phép tắc" (một thuật ngữ thay thế cho "nghi lễ" hoặc "lễ" bằng tiếng Việt) được áp dụng trong các nghi thức nhằm hướng dẫn và hạn chế trong mối quan hệ giữa những người trong gia đ́nh và xă hội, thí dụ như quan hệ giữa hoàng tử và các bộ trưởng, giữa người cha và con cái, và sự minh định thứ bậc giai cấp như vậy là nhằm bảo đảm trật tự và ổn định xă hội.
Theo truyền thống, trong xă hội có thứ bậc của Việt Nam, sự diễn tả ḷng biết ơn hay sự xin lỗi thường không được thể hiện qua lời nói như "cảm ơn" hay "Tôi xin lỗi", nhưng nó được thể hiện qua hành vi phi ngôn ngữ (ví dụ như sự im lặng hoặc một nụ cười). Người trong một địa vị xă hội cao hơn, chẳng hạn như cha mẹ và giáo viên, thường không trực tiếp nói ra lời cảm ơn với người ở cấp thấp hơn họ (như trẻ em hoặc học sinh) để tỏ ḷng biết ơn về một việc nhỏ, chẳng hạn như đóng cửa sổ hoặc đưa hộ một cuốn sách (Huỳnh 1987: 30). V́ vậy, khi trong văn hóa Âu Tây, việc sử dụng các cụm từ "xin vui ḷng" và "cảm ơn" được coi là qui ước thực dụng xă hội, thích hợp với ngôn ngữ lịch sự trong các t́nh huống khác nhau. Trong văn hóa Việt Nam, bài tỏ "cảm ơn" với thân trong gia đ́nh khi được giúp một công việc thường lệ nào đó có thể được coi là hành vi xúc phạm (Yates 2004: 5). Điều này là bởi v́ nó mâu thuẫn với đức hạnh trong học thuyết Nho giáo trong năm mối quan hệ con người (Ngũ Luận), trong đó phân bổ một vai tṛ cho từng thành viên trong gia đ́nh (Marr 1981: 58). Những mối quan hệ tạo thành năm quy tắc đạo đức, cụ thể là "thứ dân trung thành với nhà vua, trẻ em vâng lời và hiếu thảo với cha mẹ, vợ phụng sự cho chồng, người trẻ th́ vâng lời người lớn tuổi hơn, c̣n bạn bè th́ trung thành với nhau (Phạm 2008: 103). Theo đó, hành vi ngôn ngữ lịch sự xuất phát và gắn liền từ văn hóa Việt Nam, và như vậy, ngôn ngữ lịch sự được xác định bởi văn hóa (Holmes 1992: 285). Điều c̣n giải thích một phần nào rằng trong nền văn hóa Nho giáo Châu Á hay Việt Nam nói riêng, sử dụng quá nhiều lời cảm ơn và xin lỗi thường tạo ra cảm giác khó chịu đối với người nghe (Phạm 2008: 78).
Tóm lại, trọng tâm của văn hóa Nho giáo Việt Nam là những ư niệm chính danh qua ngôn ngữ để xác nhận vị trí của một cá nhân trong xă hội và gia đ́nh nhằm để làm xin vui ḷng và thuyết phục hoặc gây ảnh hưởng đến người khác. Cần nói thêm, ư niệm chính danh khuyến khích mọi người hành xử thích hợp với vai tṛ hay vị thế của họ theo từng thời điểm và t́nh huống liên hệ. Điều nầy rất cần thiết để không gay ra xung đột với người khác, nhưng không dễ dàng áp dụng bởi v́ người ta thường hay lầm lẫn vai tṛ và trách nhiệm của ḿnh trong từng thời điểm và t́nh huống; thí dụ một người đàn ông có thể là cha, là anh, là em, là bạn, là thầy hay là học tṛ v.v.
(Những bài kế tiếp tôi sẽ tŕnh bày về Ngôn Ngữ Việt Nam)
Tài liệu tham khảo
Dao, Duy Anh (1951). Việt Nam Văn Hoá Sử Cương. (Vietnamese
History). Bon Phuong. Saigon.
DeFrancis, John (1977). Colonialism and Language Policy in Viet Nam.
The Hague. Paris. New York: Mouton Publishers. .
Duiker, William J. (1995). Vietnam: Revolution in Transition.
Boulder. San Francisco. Oxford: Westview Press.
Duong, Quang Ham (1968). Việt Nam Văn Học Sử Yếu [Vietnamese
Literary Brief History], 10th edition, Trung Tam Hoc Lieu (in
Vietnamese). Dai Nam Publisher, California. USA.
Feibleman, J. K. (1976). Understanding Oriental Philosophy: A
Popular Account for the Western World. New York: Horizon Press.
Holmes, Janet (1992). An Introduction to Sociolinguistics. New York:
Longman (1992). An Introduction to Sociolinguistics. New York:
Longman.
Huynh, Dinh Te (1987). Vietnamese Culture. California State
Department of Education
Jamieson, N. (1993). Understanding Vietnam. University of California
Press.
Luong, Hy V. (1988). Discursive Practices and Power Structure:
Person-Referring Forms and Sociopolitical Struggles in Colonial
Vietnam. In American Ethnologist, Vol. 15, No. 2 (May, 1988), pp.
239-253.
Marr, D. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945.
University of California Press. Berkeley. Los Angeless. London.
Mey, Jacob L. (2004). Between Culture and Pragmatics: Scylla and
Charybdis? The Precarious Condition of Intercultural Pragmatics.
Intercultural Pragmatics 1, 1; 27–48
Nguyen Dang Liem (1987). Cross-Cultural Adjustment of the Vietnamese
in the United States. In Truong Buu Lam (ed.), Borrowings and
Adaptions in Vietnamese Culture. University of Hawaii. Honolulu.
Hawaii, pp.100-114
Nguyen Xuan Thu (1986). Vietnamese Refugees in Australia: Some
Tentative Answers. In Nguyen Xuan Thu and Desmond Cahill (eds.)
Understanding Vietnamese Refugee in Australia. School of Community
Studies, Phillip Institute of Technology. Australia. pp. 67-83.
Nguyen, Duc Hoat (1995). Politeness markers in Vietnamese Requests
(manuscript). Thesis (PhD). Monash University, Department of Asian
Language and Studies.
Nguyen, Ngoc Tuan (2008). Socialist Realism in Vietnamese
Literature: An Analysis of the relationship between literature and
politics. VMD Verlag Dr. Muller Aktiengesellschaft & Co. KG.
Saarbrücken, Germany.
Pham, Thi Hong Nhung (2008). Vietnamese Politeness in Vietnamese -
Anglo-Cultural Intactions: A Confucian Perspective. A thesis
submitted for the degree of Doctor of Philosophy at The University
of Quensland in Ausgust, 2008.
Vu Thi Thanh Huong (1997). Politeness in Modern Vietnamese: A
Sociolinguistic Study of a Hanoi Speech Community. (PhD Thesis)
Department of Anthropology, University of Toronto.
Wangdao, D. (1997). Understanding Confucius. Beijing: Chinese
Literature Press.
Yates, Lynda (2004). The ‘secret rules of language’:Tackling
Pragmatics in the Classroom. Prospect Vol. 19, No. 1 (April 2004)
Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây
biểu chương...
Lễ nghi
quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu,
huy hiệu... QLVNCH
Tiến
tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về
Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6
Gươm lạc giữa rừng hoa
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ
Sắc lệnh về
quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ
quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !
140
chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại
VN
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Tổng Thống Abraham Lincoln
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo
vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng
Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc
Luận về Tậm Lư
Chính Trị
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?
Một tài liệu 42 năm cũ
Dựng
Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi
Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974
Những điều nên biết về
Medicare 2016
Remember C-Rations?
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Tướng lănh VNCH
Bài phỏng
vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột
tháng 3, 1975
Đại Tá
Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần
Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975
tại Sài G̣n
Chuyện của một
ngôi trường
Luận về khoa bảng
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền
Phiếm luận
về mộng mơ qua văn chương và triết học
Chính sách
thuế khóa
Cách viết hoa
trong tiếng Việt
Đoàn
thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa
ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa
Việt Nam
Tiếng Việt ba miền -
Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?
TT
Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?
HCM đă âm mưu
bán nước từ năm 1924
Vài nét
về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải
chiến Midway
Adm
Chester Nimitz
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc
hành quân Lam Sơn 719
Những trận đánh đi vào quân sử
Nguyên nhân xụp
đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng
Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh
chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh
Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng
Nguyên do chính khiến VN bất tử
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và
huyền thoại
Vài nét hoạt
động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến
VNCH
Trung
Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72,
TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng
12 năm 1965
Nhảy Dù và
Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử:
Mậu thân Huế
Trận KAMPONG
TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v
Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn
Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ
QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát
Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân
VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc
Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về
thành nội Tết Mậu Thân
Một ngày với Đô Đốc
Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh
anh dũng và trung thành với Tổ Quốc
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần -
Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối
tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng
Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết
hiên ngang
Chuyến công tác cuối
cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá
BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người
chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà
Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh
một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của
Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn
thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị
bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng
sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi
trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường
BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh
hùng
Lịch sử h́nh thành
QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận
Vong
Người lính
VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người
lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù
bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh
chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính
VNCH
Sự thật về cái chết
của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số
quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những
chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn
Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1,
Phần 2,
Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ
1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn
Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên
Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
QLVNCH
Những người trở về
với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam,
Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ
lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức -
1974
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc
Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù
CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước
Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội
chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối
của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc
Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành
Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú
Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di
sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền
ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc
Kinh