Đại Tướng Vanuxem
Dịch giả: Dương Hiếu Nghĩa
Để kính dâng lên những vị
anh hùng trẻ tuổi
người Việt Nam, người Mỹ và người Pháp,
những người đă anh dũng nằm xuống
trong một cuộc chiến cùng chung một mục đích thiêng liêng:
"TỰ DO CHO TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC "
Vanuxem
Xin đốt một nén tâm hương,
kính cẩn cầu nguyện cho anh linh
Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Ḥa
đă hy sinh cho Tổ Quốc và cho Chánh Nghĩa Quốc Gia Dân Tộc
Xin thành tâm kính cẩn cầu nguyện cho tất cả Anh Linh
Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Ḥa
đă anh dũng tuẩn tiết hay đă thảm thương chết tức tưởi trong ngục tù
cộng sản,
hoặc trên đường đi t́m tự do từ sau ngày mất nước 30 tháng 4/1975
ĐƯỢC SỚM VỀ NƠI AN NGHỈ TRÊN CƠI THIÊN ĐÀNG, CỰC LẠC.
Dương Hiếu Nghĩa
THAY LỜI TỰA
Ngày quốc hận 30/4/1975 đă qua đi trên 20 năm rồi.
Trong khoảng thời gian 20 năm đó đă có rất nhiều người viết hay nói
về những ngày cuối cùng của tháng tư đen lịch sử nầy, và gần đây
nhất chúng ta thấy có ông Mac Namara cựu bộ trưởng quốc pḥng Hoa
Kỳ, với quyển hồi kư "Nh́n Lại Thảm Kịch và Những Bài Học Việt Nam"
(In Retrospect, The Tragedy And Lessons Of Việt Nam). Ông cho tung
ra quyển nầy vào đúng lúc cộng sản Việt Nam làm lễ lớn khắp nước ăn
mừng 20 năm ngày mà họ cho là "Đại Thắng Mùa Xuân", mừng ngày chiến
thắng "Mỹ-Ngụy"!
Hồi kư của ông đă để lộ hẳn cái hèn của một chánh khách Mỹ có tầm
cỡ, v́ ông không biết thẹn là đă có hành động phản bội với đồng
minh, vừa bàn giao Việt Nam Cộng Ḥa cho bọn cộng sản (nếu không
muốn nói là bán đứng), vừa đổ hết trách nhiệm mất nước cho quân dân
cán chính Việt Nam Cộng Ḥa.
Ông đă khóc (nước mắt cá sấu!) khi bị phỏng vấn trên đài ABC, thật
tội nghiệp ! có lẽ khóc v́ quá mắc cở và v́ có quá nhiều mặc cảm tội
lỗi trong chiến lược "phải để cho ta bị chiến bại". Ông không hề
khóc cho 58,000 quân nhân Mỹ các cấp dưới quyền ông đă phải bị hy
sinh oan uổng cho cái "thuyết domino" mà đến giờ nầy ông mới cho là
sai, làm tủi hổ vong linh những người đă bỏ ḿnh cho chính nghĩa
chống Cộng của Thế Giới Tự Do (trong thời kỳ c̣n chiến tranh lạnh)
đồng thời làm nhục cả quân nhân các cấp thuộc đủ mọi quân binh chủng
Hoa Kỳ đă từng tham gia anh dũng trong cuộc chiến ở Việt Nam.
Dĩ nhiên ông cũng không bao giờ nghĩ đến hay nhắc đến quân dân cán
chính miền Nam Việt Nam mà hai đời Tổng Thống Hoa Kỳ vẫn gọi và xem
họ là người đồng minh kiên cường trong nhiệm vụ chống Cộng, giữ vững
tiền đồn chống cộng của Thế Giới Tự Do ở Đông Nam Châu Á.
Người ta c̣n thấy rơ cái tồi của ngài Mc Namara là ngài "phải khóc"
để được Cộng Sản cấp chiếu khán cho ông qua Việt Nam vào tháng 9/95
nầy (cũng lại là quyền lợi trên hết!) chớ không phải khóc v́ trách
nhiệm lịch sử của một "kiến trúc sư" về chánh sách của Hoa Kỳ từ
thập niên 60 để nướng sống trên 50 ngàn chiến binh Mỹ và trên 3
triệu quân dân cán chánh Việt Nam Cộng Ḥa.
Thật đáng tội nghiệp cho một người khoác áo chánh khách Mỹ có tên
tuổi như ông mà cho đến 20 năm sau cuộc chiến ông vẫn c̣n chưa hiểu
tư ǵ về con người Cộng Sản, măi đến 20 năm sau mới vừa "biết được
ta mà chưa biết được người" nên thua nhục là quá đúng!!!
Bây giờ chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với anh chị em trong
cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản của chúng ta một quyển sách nhỏ
có tựa đề là "LA MORT DU VIệT NAM" . Lẽ ra chúng tôi phải dịch là
"SỰ SỤP ĐỔ CỦA VIỆT NAM CỘNG H̉A". (Hai chữ "Việt Nam" mà người Pháp
thường dùng là để chỉ cho quốc gia VNCH, và "Bắc Việt" là danh từ họ
thường gọi để chỉ cho VNDCCH), hoặc để tỏ ḷng kính trọng tác giả
chúng tôi phải dịch sát nghĩa là: "Cái chết của nước Việt Nam ",
nhưng chúng tôi xin dịch là "Việt Nam Cộng Ḥa bị bức tử" để cho
thêm rơ nghĩa sự kiện lịch sử ngày 30/4/1975.
Tác giả quyển sách bé nhỏ nầy là Đại Tướng Vanuxem, từng là sĩ quan
cao cấp của quân đội Pháp tại chiến trường Bắc Việt cho đến 1954,
sau đó thỉnh thoảng vẫn có sang thăm Việt Nam với tư cách một tướng
Pháp, thượng khách của Việt Nam Cộng Ḥa.
Ông là sĩ quan trừ bị trong quân đội Pháp. Lúc bị động viên ông là
giáo sư, đă có bằng tiến sĩ Văn Chương (Docteur ès Lettres), bằng
tiến sĩ Toán (Agrégé ès Math.) và bằng tiến sĩ Khoa Học (Agrégé ès
Sciences). Ông được Tướng De Lattre de Tassigny gọi sang Việt Nam
như một sĩ quan tùy viên với cấp bậc trung úy. Nhưng khi sang đến
Việt Nam ông lại xin t́nh nguyện ra chỉ huy một đơn vị tác chiến để
được ra mặt trận, và xin được phục vụ ở chiến trường Bắc Việt, lúc
đó đang thật sôi động. Trong hai năm liền ông được thăng cấp 3 lần,
toàn là tại mặt trận. Sau đó ông được gọi về chỉ huy Trường "đào tạo
chỉ huy trưởng binh đoàn", với cấp bậc trung tá, rồi đại tá (lúc bấy
giờ được gọi nôm na là "cours tactiques", tiền thân của trường Chỉ
Huy và Tham Mưu của QLVNCH sau nầy). Hầu hết các tướng lănh của VNCH
chúng ta đều xuất thân từ trường nầy.
Ông là một sĩ quan rất b́nh dân, ăn mặc rất xuề x̣a không giống như
các sĩ quan Pháp khác, nhưng tất cả các sĩ quan khóa sinh đều rất
mến phục ông sau vài ngày nhập trường v́ tài giảng dạy của ông cũng
như về đức tính của ông.
Sau đó Ông ra coi binh đoàn chiến thuật số 3, hoạt động ở Khu Nam,
thuộc lực lượng bộ binh Bắc Việt (Groupement Tactique No 3/ Zone
Sud/FTNV). Ông về nước năm 1954 với cấp bậc đại tá và thỉnh thoăng
ông vẫn sang VN. Đầu năm 1975 ông có mặt thường trực tại VN và bị
cộng sản trục xuất về Pháp khoản tháng 5/75.
Ông qua đời năm 1982, nhưng trước khi nhắm mắt ông vẫn c̣n nhớ đến
VN, nên đă có trao lại cho trung tướng Trần văn Trung Chủ Tịch hội
Cựu Chiến Sỉ tại Pháp, lá cờ Việt Nam Cộng Ḥa, một kỹ vật rất quư
mà ông đă được Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu B́nh Long trao tặng lúc Ông tháp
tùng Tổng Thống Thiệu đáp trực thăng xuống An Lộc trong mùa hè đỏ
lửa 1972.
Đặc biệt từ đầu năm l975 Ông Vanuxem đă thường xuyên có mặt tại Sài
G̣n, nên ông đă phân tách rất chính xác về những sự kiện, những
nguyên nhân và những hậu quả của sự việc "Việt Nam Cộng Ḥa bị bức
tử", chẳng những đối với quốc gia Việt Nam mà c̣n đối với nước Pháp
và cả Thế Giới nữa.
Những nhận xét rất tỷ mỉ và tế nhị, có lúc hơi tếu và lộ vẻ biếm
nhẻ, của từng sự việc một mà ông đă đích thân mắt thấy tai nghe tại
chỗ trong những ngày lịch sử nầy, khác hẳn những tiếng "khóc dở hơi"
của "ngài" Mc Namara.
Văn ông chan chứa t́nh cảm rạt rào, khóc cho người lính chiến Việt
Nam Cộng Ḥa và xót thương cho số phận đau thương của người dân Miền
Nam Việt Nam dưới ách thống trị và gông cùm của người Cộng Sản.
Chúng tôi cố gắng dịch sao cho được sát ư sát nghĩa chừng nào hay
chừng nấy, miễn là không "phản ư hay phản nghĩa", v́ tiếng Pháp là
tiếng ngoại quốc mà tŕnh độ học vấn của tác giả cao hơn bậc thầy
của chúng tôi, trong lúc chúng tôi th́ ngoại ngữ c̣n quá thấp, văn
th́ luộm thuộm, chỉ mong sao lột được hết những lời hay ư đẹp của
tác giả, những lời tâm t́nh của một người không phải chiến hữu mà
như một chiến hữu thân thương, một người không hẳn là một đồng minh
mà như một đồng minh trung tín... Hơn thế nữa, về mặt chánh trị và
quân sự, đại tướng là một nhân vật thuộc đẳng cấp quốc tế, những
nhận xét của ông rất chính xác, có tầm mức chiến lược, đôi lúc ngoài
tầm hiểu biết nông cạn của chúng tôi.
Do vậy, xin quư anh chị em độc giả niệm t́nh thông cảm cho những sơ
sót của chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng xin được đón nhận những sự góp
ư, chỉ bảo và sửa chửa nếu có, để bản dịch được thêm phần đúng đắn
và phong phú thêm.
Kính,
Dương Hiếu Nghĩa
Kính Tặng Nhạc Sĩ Lê Trọng Nguyễn
Người đă sưu tầm được quyển sách có giá trị lịch sử nầy và đă khuyến
khích chúng tôi dịch ra trong mục đích vinh danh tinh thần và ư chí
bất khuất của quân nhân các cấp trong QLVNCH trong nhiệm vụ chống
cộng bảo vệ quê hương, bảo vệ chánh nghĩa quốc gia dân tộc......đồng
thời cho người dân Việt Nam trong nước cũng như ở hải ngoại nầy,
thuộc thế hệ hiện tại hay thế hệ trẻ mai sau thấy được bộ mặt thật
của người cộng sản Việt Nam, thấy rơ bản chất tàn ác vô nhân đạo của
họ khi họ xé bỏ hiệp định Paris 1973 ngang nhiên xua quân vào cưỡng
chiếm Miền Nam Việt Nam năm 1975.
SỰ THẬT ĐÓ ĐÂY
Ở xa lắm, xa thật xa phía bên kia trái đất, cách Paris của chúng ta
khoảng 12.000 cây số, dọc theo bờ biển Đông, có những quốc gia giống
như trong truyền thuyết hơn là trong thực tế, nơi đó có những câu
chuyện gần như hoang đường rất hấp dẫn, coi như trong tưởng tượng mà
là có thật.
Như những biến cố tại nước Việt Nam, có ǵ đâu mà những người dân
của Thế Giới Tự Do phải quan tâm đến? V́ lúc nào họ cũng đang bù đầu
đối phó với những khó khăn triền miên về kinh tế... và ngay như
những người Mỹ cũng vậy, mặc dầu họ vừa mới khéo léo rút chân ra
được khỏi một cuộc chiến mà họ từng theo đuổi, họ cũng không muốn
nghe đến những biến cố đó... Nhất là người Pháp chúng ta, khi nói
đến Việt Nam th́ ai cũng chỉ nghĩ đến các món ăn Việt Nam rất ngon
miệng của các tiệm ăn người Việt ở Paris mà họ cứ gọi là "món ăn
Tàu". Họ không c̣n muốn nghĩ ǵ cả ngoài những kỹ niệm không mấy vui
của một cuộc chiến đau thương mà người ta thường đề cao là "cuộc
chiến đ̣i độc lập của các quốc gia thuộc địa", mà nếu là một cuộc
chiến đúng theo trào lưu của lịch sử như người ta nói th́ cũng không
một ai muốn t́m hiểu xem v́ lư do ǵ nước Pháp chúng ta đă phải đổ
vào đó quá nhiều công sức, tiền của, và sinh mạng.
Để làm ǵ ? khi người ta đưa những người lính Pháp vượt trùng
dương...trên những con tàu mà những thú vui đường dài chỉ có một tác
dụng nhất thời làm cho họ quên đi nỗi buồn xa nhà, nhớ quê hương mà
thôi, chớ không thể nào làm cho họ quên được những người chiến hữu
thân thương đă được những con tàu nầy đưa đi luôn, đi măi măi không
bao giờ trở về lại cố quốc ...
Và như thế th́ có ai tin được là người Pháp chúng ta vẫn c̣n bị xúc
động trước những biến cố mới đây của Việt Nam? Dù sao th́ cũng chỉ
là một việc nội bộ giữa người Việt và người Việt với nhau mà thôi
phải không? Một cuộc nội chiến đẫm máu, tàn khốc... kéo dài trên 30
năm mà chỉ đưa đến một nền ḥa b́nh không một ai mong đợi...
Có ai tin được là nền ḥa b́nh nầy đây, dù có đạt được với bất cứ
giá nào, th́ đó cũng chỉ là một sự thất bại của Thế Giới Tự Do, đặc
biệt là của Hoa Kỳ, kéo theo những nguy cơ mới cho nền an ninh của
nước Pháp chúng ta?
Tất cả giới chánh trị người Pháp chúng ta đều không đồng ư một nền
ḥa b́nh như vậy, nhưng giới lănh đạo của cái gọi là "thượng từng
luân lư đạo đức" của thế giới lại tỏ vẻ thích thú! Thực tế hơn bao
giờ hết, người dân Pháp chúng ta chỉ có hai chuyện phải bận tâm, đó
là vấn đề kinh tế ở địa phương, và nhất thời vui hưởng hạnh phúc của
chúng ta. Có cái ǵ quấy rầy chúng ta được nữa đâu? Người ta muốn
đưa ra những chuyện vớ vẫn để khuấy động sự yên tĩnh của người Pháp
chúng ta được sao? V́ làm sao tin được rằng cái hoa ḥa b́nh vừa mới
nở kia lại là một hột giống chiến tranh sắp nẩy mầm?
Dù sao th́ Tổng Thống Pháp cũng đă đoan chắc là người Pháp chúng ta
vẫn có thể đi nghỉ hè một cách yên lành rồi!
NƯỚC VIỆT NAM XA XÔI QUÁ !
Viện thăm ḍ dư luận Sofres vừa đưa ra câu hỏi:"Cuộc chiến ở Việt
Nam vừa được kết thúc bằng một sự thắng trận của phe cách mạng và sự
ra đi của người Mỹ, một sự kết thúc như thế, anh có bằng ḷng hay
không bằng ḷng?"
- Có 57% những người được hỏi trả lời là bằng ḷng.
- Có 15% những người được hỏi trả lời là không bằng ḷng
- Có 28% trả lời không có ư kiến, tức là dửng dưng.
Nh́n từ xa xa, th́ người ta có thể tưởng là chiến thắng của phe cách
mạng là một cuộc giải phóng mà toàn dân hô hào đ̣i hỏi (có vài nhà
báo đă có nhận định thiển cận như thế), và dân chúng đă tỏ vẻ vui
mừng không tả được, giống như niềm vui của người Pháp chúng ta về
ngày đ́nh chiến 11/11/1918 hay niềm vui của người dân Paris khi Sư
Đoàn 2 Thiết Giáp Pháp tiến vào giải phóng thủ đô nước Pháp hồi thế
chiến 2 vậy.
Có vài người trong số không ít phóng viên nói trên đă có mặt tại Sài
G̣n hy vọng nắm bắt được biến cố lịch sử nầy, họ có vẻ bực ḿnh v́
không thấy có biển máu như họ đă mong đợi để cho họ có được những
tấm ảnh đẹp và đắt giá... Như thế là họ chưa biết ǵ về những người
Cộng Sản, thật tội nghiệp !
Sài G̣n năm 1975 cũng giống như Hà Nội năm 1954 vậy mà thôi!
- "Bộ-đội họ cũng đứng đắn quá chứ nhỉ?"
Các phóng viên nầy nói như thế v́ họ không biết chờ đợi để mà xem!
Họ không c̣n nhớ là hồi năm 1940 ngay tại nước Pháp cũng có nhiều
người đă từng nói:
- ’Người lính Đức cũng đàng hoàng quá chứ nhỉ?"
Họ cũng ghi lại được một vài mẩu chuyện nho nhỏ, cũng thu được một
vài h́nh ảnh mà họ luưnh quưnh lượm lặt được một cách vô bổ, có khi
không c̣n có một giá trị ǵ nữa cả, trong một thời gian dài họ bị
giữ lại tại Sài G̣n; trong khi đó th́ người Nga họ bay ngay về
Moscou để bán ngay những h́nh ảnh, tài liệu và tin tức sốt dẻo với
một giá đắt hơn vàng, cho người Mỹ lúc đó đang đói tin.
Hầu hết các nhà báo người Pháp chúng ta quá thật thà, tuy tin tức có
trung thực nhưng cũng quá chậm so với tin tức mà cơ quan tuyên
truyền của Cộng Sản đă "xào nấu sẵn" và "tung ra từ trước rồi", nên
ít được ai tin nghe.
Vài tuần lễ sau khi Sài G̣n bị thất thủ, người Pháp chúng ta không
một ai c̣n muốn nghĩ ǵ nữa cả, ngoài sự nhộn nhịp trên khắp các xa
lộ đầy ấp các đoàn xe đi nghỉ hè.
Thời sự có nóng bỏng thật, hấp dẫn thật, giật gân và có gây xúc động
thật, nhưng rồi cũng theo thời gian mà trôi qua đi trong quên lảng,
chỉ có ghi lại được một sự kiện lịch sử quá bi thảm:
"Một quốc gia bị bức tử; Một dân tộc bị mất tự do và sẽ "bị sống"
trong gọng kềm nô lệ: nước Việt Nam Cộng Ḥa bị xóa tên trên bản đồ
của thế giới."
Có một cái ǵ đó, giữa người Pháp chúng ta và cái miền Viễn Đông xa
xôi kia, như một mối t́nh thắm thiết mà nước Pháp như một kẻ thất
t́nh muốn cố quên đi... nhưng làm sao có thể làm ngơ cho được khi mà
giữa đôi bên vẫn c̣n có một vài kỷ niệm t́nh cảm quá nồng thắm, và
vẫn c̣n một vài việc chưa giải quyết xong?
Hai chục năm về trước (1954), lúc đó v́ quyền lợi nhất thời, người
ta đă thỏa thuận chia cắt nước Việt Nam ra làm đôi thành hai miền
Nam Bắc, tạm thời chỉ trong ṿng hai năm thôi. Giải pháp nầy không
tốt hơn biện pháp cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam bằng vơ lực để tái
thống nhất đất nước hay sao? Nếu cho biện pháp nầy là một điều hợp
lư th́ tại sao người Pháp chúng ta lại không bằng ḷng? Hơn thế nữa
các chánh phủ Pháp kế tiếp sau đó chỉ nh́n sự việc trên khía cạnh
chánh trị mà không đánh giá được ḷng thành thật của con người nên
vô t́nh có những hoạt động theo chiều hướng thuận lợi cho một biện
pháp như vậy, như bài "diễn văn PnomPenh" của tướng De Gaulle chẳng
hạn (quá thiên cộng), do đó đă dẫn đến một sự kết thúc bi thảm như
vừa rồi, âu cũng là một điều hợp lư mà thôi!
Dù sao th́ cũng là một việc đă rồi! Người ta đă xé nát những Hiệp
Ước Genève và Hiệp Định Paris quá đắc tiền, quá vô ích và quá lỗi
thời, theo đó những quốc gia có trách nhiệm bảo đăm cho sự thi hành
đă không hề "nhúc nhích" theo đúng bổn phận của họ. Thế đấy, vũ khí
và vơ lực đă giải quyết thay cho những nhà ngoại giao tất cả những
ǵ mà họ không thể giải quyết được. Quốc gia Việt Nam Cộng Ḥa đă
mất, một chánh phủ cách mạng lên nắm quyền, gọi là để mang lại trật
tự và phồn thịnh cho Miền Nam Việt Nam mà họ cho là ở đó chỉ có hỗn
loạn và tham nhũng!
Người Pháp chúng ta cũng chẳng biết phải làm ǵ hơn, v́ dù sao cũng
là chuyện nội bộ của một quốc gia xa lạ, chúng ta lấy quyền ǵ để
"xía vào" để rồi phải gánh lấy tội vạ lây?
Mặc kệ! Chế độ nào cũng vậy thôi! Chỉ có những sự thật là đáng kể,
nếu xét trên khía cạnh chánh trị. Chúng ta chẳng có ǵ cần phải thắc
mắc để tự đặt ra cho ḿnh những câu hỏi về một sự việc mà nó chỉ có
đem lại phiền năo cho lương tâm của chúng ta mà thôi.
Dù sao th́ người ta cũng cho đó là một nền ḥa b́nh, một nền ḥa
b́nh mà Đức Thánh Cha cũng đă khen ngợi... nhưng có một điều mà ai
cũng ṭ ṃ muốn biết, đó là sau Lê Đức Thọ và Kissenger (giải Nobel
về Ḥa B́nh năm 1954), ai là người sẽ được giải thưởng Nobel về ḥa
b́nh (1975) đây ???
Tuy nhiên xuyên qua cái tang mà chúng ta phải chịu về cái chết của
một quốc gia bạn, một quốc gia coi như có họ hàng gần với nước Pháp,
một quốc gia mà người dân chỉ mong cầu có được sự tự do mà thôi, vẫn
c̣n một vài điều mà v́ quyền lợi của người Pháp, chúng ta cần phải
rút ra những bài học từ biến cố bi thảm nầy, v́ có rất nhiều nguyên
nhân đủ loại đă đưa một dân tộc đến chỗ tuyệt vọng để từ đó phải tự
hủy ḿnh sau một cơn hấp hối thật ngắn, nhưng thật kinh khủng. V́,
nếu hằng ngày vẫn có từ 15 đến 20 vụ tự tử, cá nhơn có tập thể có,
chỉ nội trong một thành phố lớn và đẹp như Sài G̣n mà người ta gọi
là "đă được giải phóng", th́ phải chăng đây là cả một quốc gia, cả
một dân tộc đang thật sự lao ḿnh vào cái chết...
LÁO! ÔNG LÀ MỘT NGƯỜ̀I NÓI LÁO !
Người Pháp chúng ta đă bước qua thử thách rồi, nước Pháp chúng ta đă
từng chịu nhiều cay đắng dưới thời chiếm đóng của người Đức rồi!
Những mối hiểm nguy mà nước Pháp chúng ta đang c̣n gặp phải trong
cái thế giới đầy đe dọa triền miên nầy và những ảo ảnh không mấy
sáng sủa của tương lai, bắt buộc chúng ta phải sẵn sàng đón lấy và
phải biết dùng những bài học mà biến cố lịch sử nầy đă mang đến cho
chúng ta. Hơn thế nữa, nh́n những điểm yếu và những sai sót, yếu kém
ghi nhận được trong công cuộc pḥng vệ của nước Việt Nam khiến cho
quốc gia nầy phải đi đến cái chết đau thương, bắt buộc người Pháp
chúng ta phải lưu tâm đề pḥng cho chính ḿnh...
Đó là những bài học từ những biến cố của các quốc gia Việt Nam, Lào
và Cam Bốt. Có thể chúng ta không muốn ghi nhận, v́ con người khi đă
có được sự tự do và sung sướng rồi th́ đâu có thể thấy được đó là
hạnh phúc của ḿnh, và thường nhắm mắt trước những cảnh đau ḷng của
người khác, có khi c̣n nhún vai không muốn tin nghe những sự việc
như thế nữa.
Một vị linh mục thuộc gịng "Truyền Giáo Hải Ngoại" (Mission
Étrangère) đă thuật lại là ông đă nói chuyện trước một cử tọa Thiên
Chúa Giáo hạt Lyon rằng: "Đây là những ǵ đă xảy ra cho tôi, đây là
những ǵ chính mắt tôi đă thấy, chính tai tôi đă nghe được", tức th́
có một vị linh mục trong pḥng đứng dậy và nói thẳng với ông rằng:
"Láo! Ông là một người nói láo!". Phải chăng người ta sợ không muốn
nhận chân một sự thật v́ nó có thể chạm đến sự yên tĩnh trong con
người chúng ta và có thể khuấy động lương tri mà chúng ta tưởng là
đă được bằng an rồi!
Người Pháp chúng ta không có tin tức đầy đủ, lại không chịu ṭ ṃ
t́m hiểu thêm và với một cố tật là không chuẩn bị trước hay chỉ có ư
kiến giới hạn trong chừng mực nào đó thôi về mọi diễn biến chánh
trị, v́ thế có lẽ người ta muốn tránh cho chúng ta những phản ứng
bảo thủ trước một sự kết thúc được cố ư giữ "mật" nhưng rất đáng
được lo ngại. Hơn nữa có ai muốn làm rộn người dân Pháp chúng ta làm
ǵ khi họ đang yên ổn trên con đường đi nghỉ hè?
Thật vậy, người ta chỉ cần đọc tờ "Le Courrier Du Viêt Nam", (tờ báo
cộng sản in th́ in tại Hà Nội, nhưng phát hành th́ nói là in tại
Paris, phát ra rất nhiều và cùng khắp nước Pháp), người ta sẽ biết
diễn tiến của cái mà người ta gọi là "giải phóng Sài G̣n" như sau :
"Giải-phóng-quân chúng tôi tiến vào trung tâm thành phố Sài G̣n giữa
những rừng "cờ và tiếng hoan hô vang dậy của hằng trăm hằng trăm
ngàn đồng bào (..?..). Từ "hai bên đường, từ những đại lộ, trên
nhiều, nhiều cây số, đồng bào tràn ra hoan hô "chào đón đoàn quân
giải phóng chúng tôi (.?..). Phối hợp hành động với lực lượng "của
giải-phóng-quân, dân chúng Sài G̣n đă nổi dậy (..?..) trong tất cả
các khu "phố, tiếp tục truyền thống đấu tranh lâu đời xứng đáng được
mang tên "Hồ chí Minh". Sài G̣n đă được giải phóng. Đó là một món
quà rất đẹp được kính dâng lên "cho vị lănh tụ kính mến vào đúng
ngày sinh thứ 85 của Người. Cuộc xăm lăng của "đế quốc Mỹ đă bắt đầu
từ thành phố Sài G̣n, Sài G̣n đă đi đầu trong cuộc chiến, "và Sài
G̣n là nơi đă diễn ra trận đánh vinh quang cuối cùng của cuộc chiến,
một "trận chiến thắng cuối cùng..."
Và đó là sự thật của lịch sử được họ chánh thức đưa ra. Nhưng chỉ là
một "sự thật hoang tưởng" mà Bắc Việt và Việt Cộng dựng lên để dựa
theo đó để c̣n "cai trị" dân chúng sau khi chiếm được Miền Nam.
MỘT CHIẾN BẠI CỦA CẢ HAI NƯỚC PHÁP VÀ HOA KỲ
Thực t́nh mà nói th́ sự thật lại không đúng như vậy!
Những hậu quả sau đó ngay tại Việt Nam không giống như những hậu quả
của một chiến thắng mà những người mang danh là giải phóng trong một
cuộc chiến tranh cách mạng chỉ nhằm vào một mục đích cuối cùng là
"giải phóng" thật sự cho đất nước và dân tộc Việt Nam.
Biến cố nầy có hậu quả là gây được tiếng vang quốc tế, và có một tầm
quan trọng đặc biệt đến cả t́nh h́nh chiến lược toàn cầu.
Thật vậy, không những nước Pháp phải quan tâm v́ những thiệt hại
trực tiếp mà quốc gia nầy phải gánh chịu, mà cả Thế Giới Tự Do cũng
phải duyệt lại sách lược pḥng thủ, và an ninh và cho sự tự do của
ḿnh. Nếu cần có một sự bảo đăm nào đó th́ không ǵ hơn là hăy nghe
chính miệng ông Phạm văn Đồng, Thủ Tướng của nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Ḥa đă tuyên bố tại Hà Nội về "ba chiến thắng đă đạt được" như
sau:
- "Quốc gia chúng ta được mang một dấu ấn danh dự, hănh diện là một
nước đă oanh liệt đánh bại hai đế quốc lớn, đế quốc Pháp và đế quốc
Mỹ, đồng thời bằng hai chiến thắng nầy đă đóng góp rất thích đáng
vào phong trào giải phóng các dân tộc trên thế giới"
Như vậy là chiến dịch Hồ chí Minh xua quân đội Miền Bắc
tiến chiếm Sài Gòn, chấm dứt cuộc chiến vào năm 1975 thật
ra là một sự chiến bại của cả hai nước Pháp và Hoa Kỳ,
đồng thời Cộng Sản đã đạt được một trong những mục tiêu
quan trọng trên con đường chiến lược toàn cầu của họ.
Thế nhưng, người ta phải hiểu rằng tất cả những người dân tự do đều
rất quan tâm đến những ǵ đang xảy ra tại Miền Nam Việt Nam, v́
chúng ta ai cũng dư biết rằng một chánh thể độc tài cộng sản khi đă
chiếm được chính quyền rồi th́ không bao giờ biết đến hai chữ "nhân
đạo" như họ thường rêu rao, và đối với người Pháp chúng ta hai chữ
"tự-do" lúc nào cũng vẫn là một tài sản quư báu hàng đầu, không ai
chạm đến được!
SỰ VIỆC ĐĂ XẢY RA NHƯ THẾ NÀO?
- 10 tháng 5 năm 1940 ......
- 16 tháng 6 năm 1940
- 12 tháng 5 năm 1975 .......
- 30 tháng 4 năm 1975
Không gian: ở phía bên kia quả địa cầu;
Thời gian: cách đây 35 năm....
Một sự trùng hợp nhau lạ lùng về ngày giờ và khoảng cách thời gian
đă đưa trận chiến bại nhục nhă của nước Pháp (thế chiến 2) và trận
chiến bại hoàn toàn của lực lượng chánh trị quân sự của Miền Nam
Việt Nam (qua cuộc tổng tấn công của chiến dịch Hồ chí Minh) xích
lại gần nhau, trong một nỗ lực như nhau là cả hai cùng chống lại
những bọn người man rợ!
Người Pháp chúng ta, những ai đă từng sống trong những giờ phút đau
thương của hai sự kiện trên, giờ phút mà dân chúng hoảng hốt chạy
tán loạn trước kẻ thù xăm lược đă vô t́nh làm tê liệt mọi hoạt động
quân sự, giờ phút kinh hoàng của cả nước trước một sự mất nước bất
ngờ trong đột ngột ...th́ những người đó mới biết được là những h́nh
ảnh của hai sự kiện nói trên rất là giống nhau như in, không khác!
Họ sẽ được sống trở lại những giây phút đau thương và kinh hoàng mà
họ đă từng sống, những giây phút mà họ không bao giờ tưởng tượng
rằng c̣n có thể tái diễn ngược trở lại y như vậy được.
Những lư do cũng vẫn giống nhau không khác : bị cô lập, sự yếu thế
của đồng minh xa xôi, quyết tâm cao của địch, sự phản bội, sự thờ ơ
của dân chúng, một chánh phủ yếu kém và một quân đội mất tinh
thần...
Hậu quả xem ra có phần trầm trọng hơn nhiều v́ lần nầy địch là cộng
sản, dữ tợn và tàn bạo hơn phát xít ngàn lần, v́ khi đă chộp được
con mồi rồi th́ không khi nào cộng sản buông tha ra!
MỘT CUỘC CHIẾN TRANH MỚI MẺ VÀ LẠ ĐỜI
Ở đây cũng vậy, tất cả đều bắt đầu bằng một "cuộc chiến lạ đời". Sau
khi cuộc tấn công mùa hè 1972 của Bắc Việt bị quân đội Miền Nam anh
dũng đập tan (thường được gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa), và sau khi
Hiệp-Định Ba Lê 1973 buộc quân lực Việt Nam Cộng Ḥa phải xoay qua
thế bị động, th́ quân Bắc Việt chẳng những cứ nhởn nhơ tiếp tục chủ
động gậm nhắm phần đất dọc theo lằn ranh ngừng bắn một cách tự do,
mà c̣n bắt đầu tiến sâu vào phía Nam, từ đó hai bên Nam Bắc bắt đầu
giành nhau chiếm từng địa điểm quan trọng then chốt nằm trong phần
lănh thổ Miền Nam Việt Nam.
Những hoạt động và vi-phạm ngừng bắn của phía Bắc Việt thật ra không
đáng được coi là những trận chiến, ấy vậy mà quân lực của Miền Nam
Việt Nam vẫn cứ bị tiêu hao lần ṃn, đến mức độ không c̣n khả năng
thành lập hay duy tŕ được các đơn vị trừ bị nữa, thậm chí không thể
bổ sung các sư-đoàn theo một nhịp độ và một mức độ b́nh thường được.
Mức thiệt hại trung b́nh hằng tháng của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa
vào khoản 3000 người, trong khi quân Bắc Việt th́ vẫn cứ được tiếp
tục bổ sung rất đầy đủ về quân số cũng như về vũ-khí và quân dụng
tối tân.
Chuyện rất dễ hiểu là nếu không có được sự viện trợ mà phía "đồng
minh Hoa Kỳ" đă hứa th́ sự pḥng thủ diện địa trên một tuyến quá dài
của một lănh thổ quá hẹp bề ngang, sẽ gặp phải mọi sự khó khăn và
nguy hiểm.
Vào tháng giêng năm 1975, để đo phản ứng của Việt Nam Cộng Ḥa và
nhất là của Hoa Kỳ, Bắc Việt tung quân từ phía biên giới Campuchia
tiến đánh dữ dội tỉnh lỵ Phước Long. Trong khi Bộ Tư Lệnh Miền Nam
Việt Nam dè dặt trong thế bị động, th́ phía Hoa Kỳ không có hành
động tiếp ứng.
Do vậy, Bắc Việt rất tự tin, nên ngày 12 tháng 3/75, họ bắt đầu cho
mở cuộc tấn công. Tướng Phạm văn Phú, Tư lệnh Vùng 2 Chiến Thuật,
một trong số các tướng lănh giỏi của Miền Nam Việt Nam, đang cố gắng
thực hiện một cuộc hành quân triệt thoái, đưa hết lực lượng ở Cao
Nguyên của Ông về Duyên Hải theo lệnh của Tổng Thống Thiệu. Lực
lượng nầy đang nỗ lực pḥng thủ tuyến Kontum Pleiku, sau khi tỉnh
Ban Mê Thuột ở phía Nam bị thất thủ.
Cuộc rút quân được diễn ra trong hỗn loạn, quân dân tranh nhau chạy
tán loạn trong kinh hoàng, vô trật tự.... Vùng Cao Nguyên mất, và
Miền Nam Việt Nam bị cắt ngay ra làm hai mảnh.
Quân Bắc Việt khai thác ngay chiến quả bất ngờ nầy, từ phía Bắc tràn
xuống, từ phía Tây qua và từ phía Nam lên, tất cả lực lượng đánh
thẳng vào Vùng I Chiến Thuật, nằm về cực Bắc của Việt Nam Cộng Ḥa,
nơi đó có đế-đô lịch sử Huế và thành phố lớn thứ nh́ của Miền Nam
Việt Nam, hải cảng và phi trường Đà-Nẵng.
Tướng Ngô quang Trưởng, Tư Lệnh Vùng I / Quân Đoàn I, là một cấp chỉ
huy giỏi và khôn khéo nhanh nhẹn nhất trong Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa. Trong mùa hè đỏ lửa năm 1972, ông đă rất b́nh tĩnh ổn định lại
t́nh h́nh của tỉnh Quăng Trị, b́nh tĩnh chịu đựng các lượn sóng liên
tục khai thác thành quả của bộ đội Bắc Việt, để rồi cuối cùng Ông
đấy lui họ về tận sông Bến Hải mà không bị một thiệt hại đáng kể
nào. Lúc này (1975) ông đă dùng sư-đoàn Bộ Binh và các đơn vị địa
phương quân như là lực lượng pḥng thủ diện địa, giữ hai sư đoàn
chánh quy tinh nhuệ làm lực lượng trừ bị cho quân đoàn, đó là sư
đoàn Thủy Quân Lục Chiến và sư đoàn Nhảy Dù. Với phương thức đó ông
nghĩ là có thể giữ được cố đô Huế của ḿnh. Tổng thống Nguyễn văn
Thiệu đă tuyên bố là cố đô Huế sẽ phải được cố thủ, nhưng Tướng
Trưởng không được biết điều này. Do đó sau khi bất th́nh ĺnh nhận
được lệnh trả sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến và sư đoàn Nhảy Dù về Sài
G̣n (đề pḥng biến cố chánh trị) th́ Tướng Trưởng quyết định rút
quân, bỏ ngỏ cố đô Huế. Bất ngờ Tổng thống Thiệu lại ra lệnh tái
chiếm cố đô Huế. Hàng trăm ngàn dân tỵ nạn làm nghẽn tất cả các trục
giao thông, mọi phương tiện liên lạc đều gián đoạn, quân nhân các
cấp chỉ c̣n nghĩ đến việc tự cứu lấy mạng sống của chính ḿnh và gia
đ́nh ḿnh nên các đơn vị chiến đấu tự ră hàng ră ngũ... và như thế
thật sự là "mạnh ai nấy chạy" một cuộc tháo chạy vô trật tự và không
c̣n một ai nghĩ đến việc pḥng thủ Đà Nẵng nữa.
Hai Vùng Chiến Thuật II và I bao trùm tuyến pḥng thủ phía Tây và
phía Bắc của Miền Nam Việt Nam coi như bị tràn ngập, binh sĩ lớp bị
tử trận, lớp phải đầu hàng địch, quân dụng coi như mất hết. Hai Vùng
nầy được coi như hoàn toàn thất thủ. Cuộc rút quân về hướng Nam thật
sự đă diễn ra hết sức khó khăn và kinh hoàng v́ không có sự yểm trợ
của hai sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến và sư đoàn Nhảy Dù vốn đă được
Bộ Tư Lệnh Sài G̣n bốc về theo lệnh của Tổng Thống Thiệu từ trước
rồi.
Tuy nhiên, cũng có một số ít binh sĩ c̣n vũ khí thoát khỏi trận
chiến nầy, về tăng cường được vùng đồng bằng sông Cửu Long và tuyến
pḥng thủ lưu động vùng Cao Nguyên, giữa Ban Mê Thuột và Nha Trang
như đă có dự trù rồi, từ trước.
CUỘC TỔNG TẤN CÔNG MÙA XUÂN: CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
Ngay lúc bấy giờ, bất ngờ sau một chiến thắng không mong đợi, thay
v́ phải chờ qua một giải pháp chánh trị mới tiếp thu nốt Miền Nam
Việt Nam, Bắc Việt quyết định khai thác thành quả, mở ngay chiến
dịch Hồ chí Minh, xua quân tổng tấn công tiến chiếm Sài G̣n và hai
Vùng Chiến Thuật c̣n lại, Vùng 3 (miền Đông) và Vùng 4 (châu thổ Cửu
Long, miền Tây).
Ở phía Nam, các đơn vị thuộc Vùng 4 và chung quanh Sài G̣n chiến đấu
rất dũng cảm, đă chận đứng dược địch quân. Nhưng dần dà v́ không đủ
lực lượng để kiểm soát và chiếm giữ tuyến pḥng thủ, họ để mất lần
lượt từ thành phố nầy đến thành phố khác dọc theo duyên hải, cho đến
Vũng Tàu.
Cùng lúc, trong nội địa, Đà Lat cũng đươc bỏ ngỏ, rơi vào tay
Bắc Việt.
Một lực lượng pḥng thủ mạnh được thành lập để ngăn chặn địch ở Xuân
Lộc, ở phía đông bắc thủ đô Sài G̣n, và sau nhiều lần đổi chủ, cuối
cùng Xuân Lộc cũng bị thất thủ. Các lực lượng tổng trừ bị phải được
tung ra, không phải tập trung mà là xé lẽ từng chiến đoàn, lữ đoàn,
thậm chí đến từng tiểu đoàn biệt lập, để giữ các nút chận quan yếu
dọc theo các tuyến đường dẫn về thủ đô, v́ lực lượng địch rải rác
tiến quân nhiều mặt lúc bấy giờ, rộng như một mạng nhện. Tiếp theo
đó, ngay sát cạnh Xuân Lộc, thành phố và phi trường quân sự Biên Ḥa
cũng bị tràn ngập.
Về mặt chánh trị, Tổng Thống Thiệu bàn giao chánh quyền cho Phó Tổng
Thống Nguyễn văn Hương, một "ông trí thức già", để chạy ra ngoại
quốc.. Nguyễn văn Hương sau đó lại trao chánh quyền cho tướng Dương
văn Minh, một người tự xem ḿnh là lănh tụ của lực lượng thứ ba, tự
tin là ḿnh có thể thương lượng với Việt Cộng để giải quyết vấn đề
giữa người Việt và người Việt với nhau.
Sáng ngày 30/4/1975, Tướng Vĩnh Lộc, quyền Tổng Tham Mưu
Trưởng từ đêm qua, đã xòe bàn tay lật ngữa ra với lời tuyên
bố: "Hết rồi, không còn gì nữa cả... lữ đoàn Dù ở Vũng
Tàu đã mất liên lạc... Cầu Bình Lợi trên đường Biên Hòa
Sài Gòn đã bị giật sập... Không còn gì nữa, không còn
trận chiến nào cho Sài Gòn nữa. Tôi đã trình cho Tổng
Thống... Tất cả coi như xong rồi..."
Thế nhưng, không phải "danh dự" mà là "mạng sống" sẽ không c̣n nữa
đối với các chiến binh Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa nầy!
CÁC BẠN! CHÚNG TA HĂY DIỄN LẠI TRẬN CHIẾN “CAMERONE" !!
Tại Căn Cứ Huấn Luyện Nhảy Dù BETAP ở Tân sơn Nhứt, có nhiều sĩ quan
đă từng phục vụ trong những tiểu đoàn Lê Dương Nhảy Dù (B.E.P) của
quân đội Pháp. Họ sực nhớ hôm nay là ngày 30/4, và cũng chính vào
ngày này, ở các đơn vị Lê Dương, theo truyền thống, người ta làm lễ
kỷ niệm trận chiến Camerone, thuộc Mễ Tây Cơ, một trận chiến mà chỉ
với một nhúm người họ đă cầm cự với cả một binh-đoàn địch, và anh
dũng giữ vững được vị trí cho đến sự gục ngă của người binh sĩ cuối
cùng.
- "Anh em ơi ! chúng ta hảy diễn lại trận chiến "Camerone".
Họ nói như vậy, và họ thực hiện đúng y như vậy!!!
Và cũng giống y như người lính Lê Dương của Pháp vậy. Hùng hổ như
những con sư tử ! Họ đă anh dũng vừa chống trả từng đợt xung phong
dữ dội nầy đến đợt xung phong dữ dội khác của Bắc Việt, vừa chịu đủ
các loạt pháo kích đủ cỡ đủ loại, kể cả rốc kết tầm xa, tầm gần, vừa
chịu đựng các đợt tấn công tới tấp của hằng loạt chiến xa T.54....
Họ đă thực sự diễn lại trận chiến Camerone đến người binh sĩ cuối
cùng, hạ tại chỗ 9 chiến xa kiểu T.54 của Nga Sô và một số lớn quân
Bắc Việt...
Một tuần sau đó người ta phải dùng xe ủi đất để gom hơn trăm xác
chết lại thành từng đống một, người ta chế xăng lên, và cho lửa đốt
các xác nầy. Ngọn lửa bùng lên cao ngút, như nói lên cho kẻ chiến
thắng biết là những người lính chiến Miền Nam Việt Nam chỉ biết chọn
cái chết trong vinh quang và trong danh dự hơn là phải chịu thất
trận và đầu hàng địch quân cộng sản, và cái chết hôm nay cũng chưa
phải là đă hết...
Đường phố chung quanh sân bay Tân Sơn Nhứt vắng lặng và rải rác
những xác chết, chỉ có tiếng rốc kết réo vang và tiếng nổ máy của
chiến xa... Ở một vài ngả tư đường, đây đó vẫn c̣n nhiều binh sĩ và
đặc biệt là các cán binh chiêu hồi đang kháng cự hết sức anh dũng, ở
vùng Chợ Lớn.
Tại một ngả tư nọ, có sáu chiến binh cùng tựa lưng vào tường đang
chận đứng một toán Việt Cộng, làm họ không tiến lên được phải gọi
chiến xa tới tăng viện. Chiến xa Bắc Việt đến, sáu chiến binh bèn
gom lại thành một nhóm ngay giữa ngả tư, một người có lẽ là người
chỉ huy mở chốt lựu đạn, một loại lựu đạn tṛn của Mỹ, và cho nổ
ngay chính giữa nhóm sáu người... sau đó cuối cùng các chiến xa kia
cũng không khoan nhượng khách sáo ǵ, tiến lên cán nát hết những
thây ma phản động!
Trong lúc đó tại tư dinh Thủ Tướng, đang có một buổi họp cuối cùng
của ủy ban quốc pḥng. Có mặt tại buổi họp nầy, ngồi quanh chiếc bàn
có trải thảm xanh, người ta thấy có tướng Dương văn Minh, người vừa
nhận chức Tổng Thống, Luật sư Vũ văn Huyền cựu chủ tịch Thượng viện,
vừa nhận chức Phó Tổng Thống, một tín đồ công giáo La Mă thuần
thành, ông Vũ văn Mẫu, Thủ Tướng và một vài người khác... Tất cả đều
có bộ mặt tái mét như người chết, tay bấu chặt vào tấm thảm xanh, và
đồng có một kết luận là chẳng c̣n ǵ để làm nữa, chỉ c̣n có một cách
duy nhất là đầu hàng mà thôi.
Sau đó, hướng về một tướng lănh người Pháp hiện đang có mặt trong
pḥng, Tổng Thống Dương văn Minh đứng lên và nói: "Trước đây các ông
đă có mặt trong cuộc chiến đúng lúc chúng tôi đang cần, hôm nay các
ông lại đến với chúng tôi đúng vào lúc chúng tôi đang là người chiến
bại và đang gặp những điều đại bất hạnh. Chúng tôi rất cám ơn các
ông. Dưới con mắt của chúng tôi, các ông thật sự là nước Pháp, là
quốc gia mà chúng tôi đang mong đợi. Chúng tôi đă có thử nói chuyện
với họ, để giải quyết việc nội bộ giữa người Việt và người Việt với
nhau, nhưng họ đă từ chối. Chúng tôi chỉ c̣n cách là phải đầu hàng
thôi. Tuy nhiên, chúng tôi xin nhờ ông chuyển đến Tổng Thống của
Cộng Ḥa Pháp lời chúc cuối cùng, của chánh phủ cuối cùng của nước
Việt Nam Tự Do. Chúng tôi mong mỏi nước Pháp sẽ mở rộng tay đón nhận
những người Việt Nam, những người cùng có một nền văn hóa, một tinh
thần, và một lư tưởng như người Pháp..."
Sau đó họ bắt tay nhau, buồn bã, rã rời, nét mặt bồn chồn
lo âu. Họ uể oải đứng dậy, đi đến Dinh Độc Lập... tự nộp
mình cho kẻ chiến thắng mặc cho họ muốn làm gì thì
làm....Khi bộ đội Bắc Việt tiến vào dinh Độc Lập, tướng
Minh nói với người chỉ huy:
- "Chúng tôi chờ các ông để trao cho các ông chánh quyền."
Tức khắc, người đó trả lời ngay, thẳng thừng:
- "Chúng tôi đă có chánh quyền từ lâu rồi, c̣n các ông hả, các ông
đâu c̣n chánh quyền nữa đâu mà bàn với giao...."
Trong lúc đó thì tại Hà Nội người ta mừng rỡ tuyên bố:- "Một
cơ hội như vậy hả, chúng ta không thể bỏ qua được! Ngàn năm một
thuở không khi nào gặp được cơ hội như thế!"
KHÔNG! NHẤT ĐỊNH SÀI G̉N KHÔNG PHẢI "ĐƯỢC GIẢI PHÓNG"
Các chiến xa Nga tiến vào Sài Gòn, một thành phố vui vẻ,
sống động, lúc nào cũng nhộn nhịp và ồn ào với những
tiếng xe du lịch lẫn xe mô tô..... Khi những trận chiến vô
vọng vừa "bị chấm dứt" là các sự đi lại bắt đầu tấp nập
bình thường ngay, như chẳng có việc gì xảy ra.Các toán
tuần tiểu của Việt Cộng, những người nhỏ thó bé nhỏ trong
bộ quân phục rộng phùng phình màu xanh lá cây, đầu đội nón
lá, một mảnh vải đỏ cột quanh bắp tay, chân mang dép râu
làm bằng lốp xe cũ, đang nhè nhẹ bước đi, thận trọng tiến
từ góc đường nầy sang góc đường khác, dừng lại ở mỗi ngả
tư đường, hơi khó chịu trước những cặp mắt lạnh lùng và
khi dễ của khách bộ hành đang tản bộ bị bắt buộc phải
bước chậm lại tránh xe Honda (vì các xe nầy không bao giờ
ngừng xe lại để tránh khách đi đường) chớ không phải để
tránh tiếng súng vốn đã chấm dứt hẳn từ lâu rồi.
Bộ đội Bắc Việt th́ từ trên xe cam nhông Molotova, tự vỗ tay để dân
chúng vỗ tay theo, đúng y kiểu cộng sản, nhưng những cô gái đẹp trên
đại lộ Tự Do (Catinat) lờ đi, không buồn đáp ứng... Một nỗi buồn vô
tận được in đậm nét trên gương mặt của mọi người dân, v́ Sài G̣n
không c̣n nữa, Sài G̣n không c̣n là Sài G̣n đẹp, Sài G̣n vui nhộn
nữa rồi......
Cũng đúng Sài G̣n là một rừng cờ thật đấy! Như một ngày lễ 14 tháng
7 thật sự vậy. Nhưng dĩ nhiên không có bóng một lá cờ nào của chế độ
cũ, đó là một sự cẩn thận bắt buộc. Tuy nhiên người ta vẫn thấy
nhiều lá cờ Pháp, cờ thật lớn, mà những người Pháp c̣n kẹt lại hay
những người có quốc tịch Pháp cố ư treo lên trước cổng rào, hy vọng
có được một sự bảo đăm an toàn nào đó.
Người ta bận rộn suốt cả đêm, người ta đem ra những lá cờ hai màu
xanh đỏ có ngôi sao vàng ở giữa của Việt Cộng, măi đến hai ngày sau
cờ đỏ sao vàng của Bắc Việt mới thấy xuất hiện. Và sau đó th́ có
lệnh của Ban Quân Quản Sài G̣n cấm treo cờ ngoại quốc, do đó cờ tam
tài của nước Pháp không c̣n thấy phất phơ trong thành phố nữa.
Một vài xe Molotova đầy nghẹt "bộ đội", một vài chiến xa c̣n được cố
ư cho ngụy trang để làm dáng với một vài cành lá xác xơ héo vàng cốt
để nhắc cho người ta đừng quên đó là "xe tăng" của kẻ chiến thắng,
được cho chạy rảo trên các đường phố.
Đêm xuống... thay cho pháo bông mừng chiến thắng, người ta chỉ thấy
được những vùng sáng rực của một vài kho đạn bị cho nổ đâu đó, và
những tiếng nổ lớn trong các ngọn lửa đang bốc lên từ vài chiếc tàu
chiến c̣n sót lại ở khu vực Bộ Tư Lệnh Hải Quân mà các thủy thủ đoàn
không quên đốt bỏ trước khi hạ súng đầu hàng.
Buổi trưa, tại pḥng ăn của khách sạn, người ta vẫn c̣n dọn cho
khách ăn như thường lệ, và một người bồi bàn đă đưa tay chỉ qua cửa
kính, vừa cho các khách ăn trưa chú ư vừa reo to:
- "Ḱa, bọn Việt Cộng ḱa".
Anh ta nói rơ là "Việt Cộng" chớ không nói là "quân giải phóng". Một
người khác vừa cúi xuống dọn ăn cho khách vừa nói khẻ bên tai:
- "Chúng nó toàn là người Bắc! Người ta sẽ không chấp nhận
chúng đâu, toàn là bọn người man rợ!"
Và người ta nhắc lại nhận xét xa xưa của người dân Miền
Nam: dân miền Bắc nhỏ con, có lẽ vì thiếu ăn, họ thấp hơn
người dân miền Nam khoảng 20 phân. Thật vậy, đó là một loại
người "Phổ" của Việt Nam, cũng giống như người Đức lúc mới
bước chân vào nước Pháp vậy.
Ngày hôm sau, người bạn trẻ gác thang máy cũng có nhận xét theo nhăn
quan mơ mộng của anh, giọng buồn buồn:
- "Bây giờ thì "bùm bùm" là để cho người khác! Đối với
chúng tôi thì chiến tranh đã chấm dứt rồi, nhưng luôn luôn
giống như còn chiến tranh vậy!
Họ cũng vậy thôi, những công chức, cán bộ, thợ thầy và công nhân
thuộc mọi loại hăng xưởng, và dân chúng... họ đều "bị gọi" phải đến
họp mít tinh ngày mai, một cuộc họp "bất thần", để kỷ niệm ngày lễ
lao động 1/5 và mừng "ngày giải phóng Sài G̣n".
Trên băi cỏ trước dinh Độc Lập, họ được nghe tướng chỉ huy ban quân
quản Sài G̣n - Gia Định hô hào cổ vơ. Họ bắt buộc phải để lộ bộ mặt
vui vẻ và hoan nghênh đúng mức. Sau đó họ phải diễn hành, tay phải
phất cờ Bắc Việt và cờ Việt Cộng, cờ giấy dĩ nhiên... Vẻ mặt buồn
đau tủi nhục của một số lớn được che dấu rất kỹ và họ cũng không cần
phải tiết lộ điều ǵ, hay đúng hơn là không dám nhỏ to với bất cứ ai
dù là trong chỗ riêng tư thầm kín.
Không, Sài Gòn không phải đã "được giải phóng"!
Không, Sài Gòn cũng không phải đã "tự giải phóng"
Tuyên truyền là một điều rất cần thiết cho tinh thần của quân đội
xăm lăng Bắc Việt, họ hết sức ngơ ngác, ngỡ ngàng trước sự trù phú
của thành phố Sài G̣n, v́ họ vẫn đinh ninh như Bác và đăng đă khẳng
định rằng họ vào Nam để giải phóng đồng bào của họ khỏi sự nghèo đói
và nô lệ. Sự thật không phải như vậy ! Nhưng rồi tuyên truyền cũng
rất cần thiết để "giáo hóa" người dân Miền Nam lúc nào cũng ương
ngạnh và "phản động".
Con cá đă ở trong nước rồi, nhưng là nước "lạnh" và nó phải hiểu như
vậy.
Một trong những nhà báo có mặt tại Sài G̣n lúc đó, anh Lartéguy, một
người mà ai cũng biết là rất vô tư, đă nói một câu nhận xét thẳng
thừng:
-"Cộng sản Miền Bắc đã chiếm thành phố Sài Gòn, "chiếm"
chớ không phải "giải phóng". Đây là một chiến thắng lớn về
mặt quân sự, nhưng cũng là một chiến bại to về mặt tâm
lý."
Muộn rồi! Đă muộn quá rồi! Dân chúng Sài G̣n đă từng không chịu nhận
ách nô lệ lên cổ, đang khóc cho những chiến binh xấu số của họ...
SỰ PHẢN BỘI CỦA HOA KỲ
Người Trung Hoa có một câu châm ngôn: "Thất trận rồi người ta mới
đếm xác chết và mới đi t́m người trách nhiệm". Phản ứng của người
dân, thường hay trút hết trách nhiệm cho người lănh đạo hoặc cho
người lính chiến. Tại Việt Nam th́ cả hai đều có phần trách nhiệm
của ḿnh, nhưng cả hai đều không thể làm ǵ hơn được với hai bàn tay
trắng v́ họ đă bị người ta tước hết khí giới từ lâu!
Việt Nam là một nước nông nghiệp nên không thể sản xuất vũ khí được,
do đó trong cuộc chiến, cả hai bên Miền Nam và Miền Bắc đều bắt buộc
phải nhận sự viện trợ quân sự từ bên ngoài. Do vậy, người ta thường
nói rằng chỉ cần chấm dứt viện trợ ngoại quốc cho cả hai bên Nam và
Bắc th́ ngọn lửa chiến tranh ở Việt Nam sẽ yếu dần và đi đến chỗ tàn
lụi ngay, cuộc chiến đương nhiên phải chấm dứt. Nhưng cũng có người
chỉ đứng về một phía, đă khẳng định quá đơn phương và khiếm diện
rằng chỉ cần người Mỹ, hay đúng hơn là đế quốc Mỹ như người ta đă
cáo buộc, chấm dứt mọi viện trợ kinh tế và quân sự cho Miền Nam Việt
Nam, là Miền Bắc sẽ chấm dứt cuộc chiến tranh nầy trong chiến thắng.
Và đó là những điều đă xảy ra trên thật tế.
Người ta đă từng cho rằng chiến tranh ở Việt Nam không phải là một
cuộc nội chiến giữa Miền Nam và Miền Bắc, v́ nếu giữa người Việt với
nhau th́ không chóng th́ chầy họ đă có thể đạt được một sự thỏa
thuận nào đó với nhau rồi.
Nhưng đây là một cuộc chiến tranh giữa các siêu cường quốc, mượn tay
người Việt Nam (hay sinh mạng người Việt Nam cũng thế) và ngay trên
lănh thổ Việt Nam, để so tài hơn thua cao thấp với nhau, ngăn chặn
nhau không cho bên nào bành trướng thêm ra hơn nữa, v́ hai bên không
thể trực tiếp đối đầu với nhau được, tránh bị tổn thất nặng có thể
đi đến chỗ tiêu diệt lẩn nhau. Có điều là cả hai bên đều nuôi dưỡng
một mối thù hằn mà nguyên nhơn không phải xuất phát từ nước Việt Nam
v́ nước Việt Nam không có ǵ để họ thiết tha quan tâm đến.
HOA KỲ TH̀ "NGĂN CHẶN" KHỐI CỘNG SẢN TH̀ "XÂM CHIẾM, BÀNH TRƯỚNG"
Người ta có thể thấy được rất rơ là Nga và Trung Quốc vẫn không bao
giờ che dấu tham vọng xâm chiếm toàn cầu của họ theo đúng hướng
chiến lược đă hoạch định từ trước, rất rơ ràng, và nếu Hoa Thịnh Đốn
chỉ bo bo theo sách lược "tạo uy tín và bành trướng kinh tế" th́
chiến lược đó của Hoa Kỳ hoàn toàn nằm trong thế thủ, bị động.
Đặc biệt là ở Á Châu, Hoa kỳ nhất nhất theo thuyết "ngăn chặn" các
bước tiến của cộng sản. Do vậy mà trên mảnh đất đầy h́nh ảnh đau
thương và tàn khốc của cuộc chiến, người ta đă "đóng khuôn" cho Miền
Nam Việt Nam trong nhiệm vụ pḥng thủ thụ động, và các đồng minh lớn
của họ không bao giờ muốn cho họ đi ra ngoài khuôn khổ nhiệm vụ đó,
trong khi bộ đội Bắc Việt th́ được tung ra trên khắp cả 3 nước Đông
Dương, từ Lào, Cam Bốt đến Miền Nam Việt Nam, ẩn h́nh dưới danh
nghĩa của lực lượng cách mạng Pathet Lào, Khmer đỏ, và Việt Cộng, để
rồi cuối cùng họ cũng phải bỏ cái mặt nạ của họ ra, hiện "nguyên
h́nh" là quân xăm lăng Bắc Việt, là kẻ chiến thắng, để tiến vào Sài
G̣n.
Tuy trận tấn công vào tỉnh lỵ Phước Long vào tháng 1/75 của bộ đội
Bắc Việt là một cuộc tấn công có giới hạn (mà phía Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa một phần v́ sợ bị nhử vào bẫy có thể bị hao quân và mất
thêm chiến cụ, một phần cũng không có đủ lực lượng để đối phó được
với một loại tấn công qui mô như vậy, nên không có phản ứng đối
kháng mạnh), nhưng Hà Nội cũng thu lượm được quá đủ bằng cớ để chứng
minh với những ai c̣n chút nghi ngờ, là "Hoa Kỳ không c̣n can thiệp
vào chiến cuộc nữa". Và như vậy là Bắc Việt cho tiến hành ngay cuộc
tổng tấn công mùa xuân với đầy đủ bảo đăm, trong một sự an toàn
tuyệt đối.
Rơ ràng là Hoa Kỳ đă khuyến khích Bắc Việt bằng thái độ im lặng và
quá thụ động của họ sau vụ tấn công quan trọng nói trên, vi phạm rất
nặng và rất trắng trợn "Hiệp Định Paris 1973 Về Ngừng Bắn Và Tái Lập
Ḥa B́nh Ở Việt Nam ".
Thật ra, Chánh Phủ Việt Nam Cộng Ḥa đă được báo động về thái độ
"bất can thiệp" nầy của Hoa Kỳ từ lâu rồi. Trong những tháng 1, 2,
và 3/75, đă có nhiều nghị sĩ dân biểu Hoa Kỳ đến thăm Việt Nam và đă
từng xác nhận với Tổng Thống Thiệu là "viện trợ của Hoa Kỳ cho Việt
Nam Cộng Ḥa trong những ngày sắp tới sẽ rất là mong manh trong may
rủi". Mỉa mai thay, viện trợ nầy trước đó đă được Tổng Thống Hoa Kỳ
là ông Nixon long trọng tuyên hứa với Tổng Thống Việt Nam Cộng
Ḥa!!!
NHỮNG CUỘC VẬN ĐỘNG CỦA HOA KỲ
Tại Guam, Tổng Thống Nixon đă công bố kế hoạch 5 điểm trong sách
lược yểm trợ Thế Giới Tự Do của Hoa Kỳ, chính yếu là "cây dù nguyên
tử" và viện trợ đầy đủ, vô điều kiện, cho tất cả mọi quốc gia dân
tộc nào chứng minh có quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do của ḿnh.
Hiệp Định Paris 1973, cuối cùng rồi cũng được Tổng Thống Thiệu bằng
ḷng kư tên vào, v́ Ông không c̣n có khả năng từ chối thêm lần thứ
hai, dù đó chỉ là trong cung cách ngoại giao, nhưng với những lư lẽ
vững chắc mà Ông đưa ra trước khi kư, Tổng Thống Nixon đă phải đích
thân nhận chịu trách nhiệm chẳng những bằng lời nói mà c̣n cả trên
giấy trắng mực đen nữa: "Hoa Kỳ sẽ cung cấp viện trợ kinh tế và quân
sự cho Việt Nam Cộng Ḥa để giúp Việt Nam Cộng Ḥa đương đầu với mọi
biến cố mà v́ không có thiện ư, Bắc Việt sẽ có thể không ngớt tạo ra
sau nầy".
Nếu trước kia Tổng Thống Nixon đă thật ḷng đưa ra lời hứa chắc chắn
như vậy, không có một hậu ư quanh co ngoằn nghoèo nào, th́ sau đó
với một anh Kissinger mà Ông chưa từng quen biết nhưng v́ áp lực từ
sự vận động của cánh Do Thái sau khi Ông đắc cử, Ông đă trở nên bớt
nhiệt t́nh hơn nhiều đối với những ǵ mà Ông đă long trọng cam kết
với Ông Thiệu.
Nhiều cuộc tranh luận gay gắt đă xảy ra trong những cuộc thăm viếng
sau đó, và Ông Thiệu đă phải can thiệp thẳng với Nixon để cho thơ từ
công văn của Ông, thường không được hồi âm, nay phải được tới tay
Ông Nixon mà không đi qua sự kiểm duyệt của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Dă
tâm của Kissenger, một con người mà ai cũng cho là "bạn", là "tri
kỷ", sau đó được phát giác tiết lộ ra là: xuyên qua một đệ tam nhân,
Ông đă có những lời hứa hẹn cũng như thi hành những cam kết không
đồng nhứt với từng nhơn vật cùng có trách nhiệm trong công tác ngăn
chặn bước tiến của cộng sản Bắc Việt trên bán đăo Đông Dương, như
Hoàng Thân Souphana Phouma, Thống chế Lon Nol và Tổng Thống Nguyễn
văn Thiệu. Vốn đă có một mối hận sâu đậm đối với Kissenger, nên Ông
Thiệu có nhận xét sau đây về anh nầy:
- "Tôi biết mức độ lừa đăo của một anh Do Thái rồi, nhưng thủ đoạn
đó không sao bằng thủ đoạn của một anh Do Thái có quốc tịch Đức, hơn
thế nữa đây lại là của một anh Do Thái đă có quốc tịch Đức rồi mà
c̣n được "Mỹ hóa" nữa !"
Thế nhưng, vụ việc gây nhiều tai tiếng "Watergate" đă đưa Nixon ra
khỏi Nhà Trắng đồng thời giết chết cả thân thế và sự nghiệp chánh
trị của Ông ta, dẫn đến hậu quả tai hại là những ǵ Ông Nixon đă cam
kết, dù là trên giấy trắng mực đen, đă không c̣n một chút giá trị
nào nữa.
Và sau đó, vào tháng 8/1973, Thượng Viện Hoa Kỳ đă bỏ phiếu thuận
cho tu chính án "Case-Church", nhằm cắt hết ngân khoản dành cho mọi
viện trợ quân sự cho các quốc gia Đông Nam Á.
Cộng Sản Tiến Chiếm Miền Nam qua hai cửa ngơ chính: Cam Bốt và Lào
Do vậy, việc Mỹ chánh thức hứa giúp thành lập và trang bị quân đội
Cam Bốt với quân số 205.000 người phải được hủy bỏ. H́nh thành được
việc nầy sẽ giúp cho Cam Bốt chẳng những có thừa khả năng dẹp được
lực lượng "Khmer Đỏ" (tất cả cán bộ khung đều là bộ đội Bắc Việt),
mà c̣n lập lại được trật tự trong nước, đuổi các sư đoàn Bắc Việt ra
khỏi lănh thổ Cam Bốt nữa, v́ chính các đơn vị xăm lăng Bắc Việt nầy
đă tạo ra "không khí cách mạng" bất ổn ở nông thôn Cam Bốt, để sau
đó Hoàng thân Shianouk đă phải thoái vị và nước Cộng Ḥa Khmer ra
đời.
Điều đáng tiếc là ở Cam Bốt cao trào của giới trẻ mà người ta gọi là
"những anh lính chiến 24 giờ" đang lên vùn vụt, trong số nầy có
những sinh viên và học sinh lớp 5 lớp 6, t́nh nguyện ra mặt trận,
chiến đấu rất anh dũng bằng vũ khí tịch thu được của quân ngoại xăm
Bắc Việt. Những người "Khmer Tự Do" nầy (Khmer krom) đă học và tiêm
nhiễm lịch sử Pháp, rất tự tin và đặt hết ḷng tin vào lời hứa của
Hoa Kỳ; Họ đă nhất tề đứng dậy khi tổ quốc lâm nguy, y như người
Pháp chúng ta trong những biến cố cách mạng trong lịch sử vậy. Trong
lúc đó tại Thượng Viện Hoa Kỳ, nghị sĩ Fulright lại tuyên bố là cuộc
chiến ở Cam Bốt là một "cuộc chiến vô đạo đức"! Với một ít ngân
khoản vụn vặt du di được đâu đó, chánh phủ Hoa Kỳ "nhỏ từng giọt"
giúp cho Cam Bốt, trong khi những sư đoàn Bắc Việt ồ ạt viện trợ
đúng mức cho các đơn vị "Khmer Đỏ" đang thành lập, càng ngày càng
lớn mạnh thêm lên. Do đó quân lực Cộng Ḥa Khmer bị tiêu hao lần lần
để đi đến sụp đổ, và ngày ¼/75, Thống Chế Lon Nol phải "chạy" khỏi
thủ đô Cam Bốt, sau đó Phnom Penh bị thất thủ vào ngày 10/4/75.
Cũng trong thời gian nầy, nỗ lực thành lập một chánh phủ "liên hiệp
3 thành phần" tại Vương Quốc Lào bị thất bại, Cộng Sản Pathet Lào
lên nắm chánh quyền, và tuyên bố không chấp nhận sự có mặt của người
Mỹ tại đây.
Người ta thường hay nói chiến tranh ở Việt Nam chỉ là một cuộc nội
chiến, rất hạn chế giữa người Việt và người Việt mà thôi. Nhưng đến
cuối cùng sự thật cho thấy không phải như vậy. Cam Bốt là mục tiêu
chủ yếu, là bàn đạp quan trọng hàng đầu để từ đó Cộng Sản tiến chiếm
Miền Nam Việt Nam, và theo quan điểm từ đầu của Hà Nội th́ mục tiêu
không phải chỉ có Miền Nam Việt Nam mà phải là toàn bộ bán đăo Đông
Dương, v́ đó mới là giấc mơ thật sự từ lâu của Hồ chí Minh.
Việc chiếm giữ các tỉnh miền Đông của cả hai quốc gia Lào và Cam Bốt
là chỉ nhằm dọn đường cho công tác tiếp vận của quân đội Bắc Việt
trong việc tiến chiếm Miền Nam sau nầy. Sau khi Hiệp Định Paris 1973
được kư kết, trong thời gian hơn một tháng, hệ thống đường ṃn
thường gọi là "đường ṃn Hồ chí Minh" được họ cải tiến, mở rộng và
trải đá suốt cả tuyến đường, để từ Hà Nội, Bắc Việt có thể đưa quân
lính, chiến cụ, đạn dược cũng như nhiên liệu, đến một nơi chỉ c̣n
cách Sài G̣n dưới 100 cây số (Lộc Ninh) mà chỉ mất trên dưới có 5
ngày đường.
Các sư đoàn Bắc Việt đóng quân thường xuyên dọc theo biên giới Lào
và Cam Bốt, trên các cao điểm từ Bắc xuống Nam, từ đó lúc nào cũng
sẵn sàng tấn công xuống Miền Nam Việt Nam, một lănh thổ quá dài mà
bề ngang quá hẹp, có đoạn dưới 100 cây số tính từ miền núi xuống đến
biển, nên thủ đô Việt Nam Cộng Ḥa luôn bị đe dọa v́ Sài G̣n chỉ
cách biên giới Lào-Khmer không quá 100 cây số ngàn, cũng giống y như
hiệp ước đ́nh chiến 1919 của nước Pháp chúng ta đă "bị" để cho các
đơn vị Đức đóng quân ở vùng Aisne và La Marne vậy.
Ngày 10/4 thủ đô Phnom Penh bị thất thủ, ở Vientiane th́ một chánh
phủ cộng sản đă lên cầm quyền, trong khi Vùng I và Vùng II của Việt
Nam Cộng Ḥa cũng đă bị rơi vào tay Bắc Việt, như vậy Hà Nội được
quá rảnh tay để sẵn sàng đưa quân tràn xuống vùng đồng bằng sông Cửu
Long.
HOA KỲ SẼ KHÔNG CAN THIỆP NỮA
Nhưng vẫn c̣n một yếu tố chưa biết rơ được: đó là phản ứng của Hoa
Kỳ. Trước đó, ngày 21/3/75, chánh phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (Bắc
Việt), trong một bản tuyên bố, đă yêu cầu chánh phủ Hoa Kỳ chấm dứt
tất cả mọi dính líu quân sự và mọi hành động can thiệp vào việc nội
bộ của Miền Nam Việt Nam.
Ngày 25/3/75 , Tổng Thống Ford gởi tướng Weyand, Tham Mưu Trưởng Lục
Quân Hoa Kỳ đến Sài G̣n. Tướng Weyand có vẻ thuận cho một hành động
tiếp ứng tuy hơi muộn nhưng hữu hiệu bằng cách cho lệnh thiết lập
hai cầu không vận Bangkok - Sài G̣n và Manila-Sài G̣n, để kịp tiếp
vận cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Ngày ¾/75, trong một cuộc họp báo, Tổng Thống Ford tuyên bố là Ông
sẽ không bỏ rơi Đông Nam Á. Ông nói không nhất thiết Ông Thiệu phải
rời khỏi chánh quyền, nhưng Ông cũng bảo đăm thêm rằng cho dù có một
sự thay đổi nào đó của cấp lănh đạo Việt Nam Cộng Ḥa th́ sự việc đó
cũng không thay đổi được nỗ lực của Hoa Kỳ tại Sài G̣n.
Ngày 10/4/75, ngay lúc Phnom Penh thất thủ, trong bài diễn văn đọc
trước Quốc Hội, Ông cho biết là Ông có ư định tiếp tục cuộc chiến ở
Việt Nam, và tiếp tục ủng hộ chánh phủ Nguyễn văn Thiệu. Ông đề nghị
với Quốc Hội một ngân khoản viện trợ quân sự 722 triệu đô la, và một
ngân khoản viện trợ kinh tế là 250 triệu. Các nghị sĩ Stevenson,
Humphrey, Jakson, Mc Govern và Kennedy đều chống lại đề nghị nầy.
Gần như Quốc Hội Hoa Kỳ đă mặc nhiên bỏ rơi cả Ông Ford.
Thế là hết ! Hoa Kỳ sẽ không can thiệp, và những quốc gia đă từng kư
tên bảo đăm cho việc thi hành Hiệp Định Paris 1973 cũng giữ một sự
im lặng hoàn toàn!
C̣n nước Pháp th́ xuyên qua lời tuyên bố của Tổng Trưởng Ngoại Giao
tại Dublin, trước một số ngoại trưởng phần đông đều không muốn chen
sâu vào việc nội bộ của một nước khác, th́ lại tỏ ư muốn thấy tướng
Thiệu rút lui, một điều rất trùng hợp với sự mong muốn của cộng sản
Bắc Việt, v́ dưới con mắt của họ tướng Thiệu là biểu tượng của một
tinh thần chống cộng cực đoan, chống đến giọt máu cuối cùng.
Như vậy là thật sự Bắc Việt nay đã được rảnh tay trong
hành động rồi. Họ đã được bảo đãm là Hoa Kỳ sẽ không còn
can thiệp được nữa. Họ cũng đã thấy một sự tán thành
ngấm ngầm của các nước khác, không những trong khối cộng
sản mà còn có cả các quốc gia cấp tiến, thuộc Thế Giới
Tự Do nữa, trong đó dĩ nhiên là có cả nước Pháp.
Với tất cả mọi điều kiện thuận lợi chánh trị và quân sự như thế, Bắc
Việt quyết định cho tiến hành ngay "chiến dịch Hồ chí Minh", không
cần phải mất thêm thời gian chờ thành lập một "chánh phủ ba thành
phần", để nhanh chóng thôn tính cả bán đăo Đông Dương trên cả hai
phương diện quân sự và chánh trị. Đúng như họ tuyên bố đây là một cơ
hội ngàn năm mới chỉ có một lần !
Vậy liệu người ta có nghi ngờ là người Mỹ đã phản bội
đồng minh chăng? Nhân vật chính yếu liên can trong nội vụ là
Tổng Thống Thiệu, người biết rõ nhiều về những lời hứa
hẹn, cam kết, và thi hành. Ông đã công khai nêu rõ ràng và
đầy đủ trước dư luận quốc tế và quốc nội, mà Hoa Kỳ không
dám có một tiếng trả lời, có chăng chỉ là những lời an
ủi cam kết quá muộn màng của một mối tình bạn bè, một
mối tình thuộc loại "qua đường" !!!
Ông Thiệu là người không muốn chơi trò người hùng, cũng
không thích biểu tình hoan hô rầm rộ, nhưng rất nhạy cảm
với lòng tin tưởng sâu đậm của đồng bào Miền Nam, bây giờ
ván bài đã ngã ngũ, Ông đã thua cả về chánh trị lẫn quân
sự, nên Ông quyết định phải rời bỏ quê hương mà Ông đã từng
hiến dâng tất cả. Với một tâm hồn chết lặng Ông nói lên
những lời từ biệt cuối cùng. Những lời lẽ thật cảm động
của Ông được truyền đi trên đài phát thanh làm cho những
người dù cứng lòng đến đâu cũng phải nhỏ lệ, ngay những
người đã từng muốn Ông phải từ chức cũng vậy. Ông ra đi,
mang theo sự tin yêu và lòng mến phục của dân chúng Miền Nam
mà từ đây không có Ông, họ sẽ cảm thấy mất mác một cái
gì.... Đối với người Mỹ, Ông đã có những sỉ vả thật dữ
dội và nặng nề:
- "Tôi đă nói với họ (Hoa Kỳ) rằng: các ông muốn rút chân ra khỏi
cuộc chiến ở Việt " Nam trong danh dự, mà các ông đ̣i hỏi chúng tôi
những điều thật vô lư "không thể làm được chút nào. Đánh giặc mà
viện trợ quân sự cứ nay bị cắt "mai bị xén mốt bị cúp măi như thế,
th́ có khác nào chỉ cho tôi mỗi ngày có 3 "đồng mà bảo tôi phải ăn
tiêu như một ông hoàng hay một người khách du lịch "hạng sang ! Các
ông muốn chúng tôi hôm nay với một "xu ăn mày" phải làm "được những
ǵ mà ngày hôm qua các ông không sao làm được với ngân "khoản 6 tỷ
đô la..! Tôi đă nói với họ rằng câu hỏi duy nhất hiện giờ là liệu
Hoa "Kỳ có quyết định giữ những ǵ mà Hoa Kỳ đă cam kết với Việt Nam
Cộng Ḥa 'hay không ? và liệu sau nầy những lời nói và chữ kư của
Tổng Thống Hoa Kỳ c̣n có "chút giá trị ǵ nữa hay không ...".
Thế là quá rơ, Hoa Kỳ thật sự đă phản bội.....
Ngạo mạn, và ngu xuẩn, lưỡng viện Hoa Kỳ đă nói lên sự vui mừng của
họ về sự từ chức của ông Thiệu, v́ họ nghĩ nhờ đó sẽ có khả năng
"đạt được một nền ḥa b́nh nào đó trong thương lựơng" với cộng sản,
trong giới hạn một thời gian nào đó, "với đường lối chánh trị mềm
dẻo hơn, để làm giảm đi những chết chóc vô ích, và nhất là để bảo vệ
cho những người Mỹ hiện c̣n tại Miền Nam Việt Nam".
Nước Pháp cũng có một thái độ tương tự, v́ hoàn toàn không nắm vững
được t́nh h́nh và cũng v́ quyền lợi của chính nước Pháp.
Đối với Hoa Kỳ, "trên thế giới nầy tất cả đều có thể bị mất hết, chỉ
riêng có người công dân Mỹ, được coi như thần thánh, là không thể
mất được."
NGŨ GIÁC ĐÀI KHÔNG CHẤP NHẬN NHƯ VẬY
Các cấp chỉ huy quân sự của Ngũ Giác Đài cũng như các cấp quân nhân
đă từng tham chiến bên cạnh Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không đồng ư
về những hành động của Hoa Kỳ, v́ t́nh cảm gắn bó với người chiến
hữu Việt Nam cũng như gắn bó với quốc gia nầy, giống như người Pháp
chúng ta vậy. Họ có cố gắng thử giúp đỡ cho Việt Nam một cái ǵ đó,
nhưng người ta đă ngăn cấm họ. Họ chỉ c̣n có một cách là càu nhàu,
và sự hằn thù trong căm lặng nầy măi măi sẽ là một yếu tố của t́nh
trạng phân hóa tại Hoa Kỳ.
Bốn năm trước đó, dựa theo bản tuyên ngôn Guam của Tổng Thống Nixon,
Ngũ Giác Đài đă soạn thảo một quan niệm mới cho chiến lược ở Á Châu.
Bây giờ th́ bắt buộc họ phải duyệt xét lại để giảm bớt khả năng tiềm
lực quân sự của Hoa Kỳ: đó là bỏ cả các căn cứ ở lục địa Á Châu và
các quốc gia đồng minh "nhược tiểu", dùng Nhật Bản và Úc Châu như
những pháo đài pḥng thủ cho lục địa Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương. Dầu
sao, theo họ nói, đó là một quyết định cấp quốc gia mà họ là những
người chịu trách nhiệm, không thể cưỡng lại được: "quân nhân chúng
tôi trước quyết định như vậy không thể làm ǵ hơn là phải thi hành,
dù dư luận Mỹ có cho rằng Hoa Kỳ không nên sửa đổi chiến lược như
vậy".
Hoa Kỳ đă không làm đúng lời hứa của họ. Họ đă phản bội những người
mà chính họ đă đưa vào cuộc chiến, một cuộc chiến mà họ chẳng những
phải tốn quá nhiều đô la mà c̣n phải hy sinh trên 50 ngàn quân nhân
các cấp (chưa tính thương binh) để chỉ đem về một "con số không" to
tướng. Nói như thế có ǵ quá đáng lắm không??
Tướng Westmoreland, cựu chỉ huy trưởng lực lượng Mỹ tại Việt Nam th́
phát biểu có phần nào nhẹ lời hơn cho Hoa Kỳ, nhưng cũng đă quy
trách nặng nề cho giới chánh trị về hành động làm mất hết danh dự
của Mỹ:
- " Miền Nam Việt Nam phải chăng không thể tránh được một sự chiến
bại? Vâng, đúng như vậy. Nhưng chúng ta phải xét lại t́nh h́nh: Bắc
Việt đă vi phạm hoàn toàn Hiệp Định Paris 1973, Hoa Kỳ hoàn toàn bất
lực trên phương diện chánh trị, và các quốc gia có nhiệm vụ bảo đăm
việc thi hành Hiệp Định th́ hoàn toàn im lặng không nhúc nhích..".
Người ta phải nh́n những cảnh cướp xe, hôi của, dọn sạch nhà cửa,
pḥng ốc hay kho tàng của người Mỹ tại Sài G̣n, th́ mới thật sự thấy
được mức độ thù ghét Hoa Kỳ của cả một dân tộc. Người ta phải nh́n
cảnh Ông Martin, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam lúc rời khỏi Việt Nam
sau khi cho di tản xong xuôi người Mỹ cuối cùng, th́ mới thấy được
cả một sự thẹn thùng nhục nhă của Hoa Kỳ trên nét mặt xanh xao như
người chết của Ông. Và người ta cũng phải nh́n thấy cảnh một người
Việt Nam kéo lê bằng hai ngón tay lá cờ Mỹ to lớn của ṭa Đại sứ Mỹ
để d́m xuống rạch những "50 sao và 13 vạch " mà người Mỹ thường hănh
diện.
Tổng Thống Hoa Kỳ, Ông Ford, đă từng nói: "Chúng tôi không thể bỏ
được những người bạn của chúng tôi". Nhưng nói là nói như vậy, mà họ
lại không làm đúng như vậy !!!!
C̉N AI TIN ĐƯỢC HOA KỲ NỮA ĐÂY?
Vài người thủ cựu không đồng ư tại sao nước Pháp và người Pháp lại
đi phàn nàn Hoa Kỳ. Họ nói:- "Nước Pháp chúng ta cũng vậy thôi,
chúng ta đă chẳng từng phản bội Tiệp Khắc hay sao?. Chúng ta không
nên trách người Mỹ v́ dù sao họ cũng đă giúp giải phóng đất nước
chúng ta, và nền an ninh của quốc gia chúng ta phải chăng vẫn c̣n
dựa vào sức mạnh của họ và những lời cam kết mà họ đă hứa".
Chỉ v́ người Mỹ là bạn mà chúng ta mới cần phải nói lên sự thật và
những lời trách móc thẳng thừng đến nhức tim về những lỗi lầm đáng
trách của họ. Có như vậy th́ mới đúng là bạn và t́nh bạn mới càng
khắn khít hơn, chúng ta nên mong như vậy.
Hôm qua họ đă bỏ rơi Cam Bốt được, hôm nay họ bỏ rơi Việt Nam và Lào
được, th́ ngày mai họ cũng sẽ bỏ rơi được Phi luật Tân, Đài Loan, và
các quốc gia đă từng là đồng minh của họ dọc theo bờ biển Trung
Quốc, rồi cũng lại sẽ đến lượt các quốc gia trên Ấn Độ Dương....Và
hơn thế nữa, nếu đây chỉ là chuyện nội bộ phải giải quyết giữa người
Việt Nam với nhau thôi th́ chúng ta cũng không nên xen vào làm ǵ.
Có điều là nếu ngày mai cũng những người cùng một dân tộc có chuyện
nội bộ cần giải quyết với nhau, người Đông Đức tràn sang tấn công
người Tây Đức, và nếu chỉ trong ṿng một ngày mà các chiến xa Nga
nuốt xong khoảng cách 150 cây số với nước Pháp chúng ta để đến nằm
dọc ngay bờ sông Rhin (biên giới Pháp Đức) th́ lúc đó chuyện ǵ sẽ
xảy ra đây ?
Một cuộc nghiên cứu được đăng trên "Tạp chí Bắc Đại Tây Dương"
(Revue de l’OTAN) đă có trả lời: Một cuộc thăm ḍ dư luận đặc biệt
đầy đủ, của cơ quan thăm ḍ Louis Harris, cho "Pḥng Giao Tế Quốc
Ngoại của Hội Đồng Thành Phố Chicago" (Chicago Council Foreign
Office Relations) đă cho thấy kết quả như sau:
Câu hỏi được đặt ra là: "Anh Chị có đồng ư để cho quân lực Hoa Kỳ
can thiệp để ngăn chặn quân xăm lược Cộng Sản vào Tây Âu hay không
?"
Trả lời:
Tạp chí nói trên c̣n cho biết thêm là "Có nhiều dấu hiệu cho ta nghĩ
rằng sau khi cuộc chiến ở Việt Nam chấm dứt, dư luận dân chúng Mỹ
c̣n rất thuận lợi hơn nữa về cái mà người ta gọi là "chánh sách phi
quân sự trong chánh trị đối ngoại của Hoa Kỳ"
Như vậy là đa số người dân Hoa Kỳ chống lại mọi hành động tiếp ứng
của quân đội Mỹ vào công tác pḥng vệ Âu Châu. Nên nhớ là một cuộc
tiếp ứng như vậy vẫn là một bảo đăm duy nhất rất hữu hiệu cho nền an
ninh của nước Pháp chúng ta.
Người Mỹ hăy đi đi, hăy cứ để cho người Mỹ đi đi, và cũng mong rằng
đừng bao giờ họ trở lại nữa. Vả lại, hồi năm 1945, tại Versailles
(nơi kư ḥa ước) tướng Eisenhower há chẳng phải đă nói rằng; "Chúng
tôi không trở lại đây lần thứ ba để lập lại trật tự cho những vấn đề
của Âu Châu nữa đâu nhé !" hay sao ?
Làm thế nào để cho các đồng minh Âu Châu của Hoa Kỳ có thể c̣n có
niềm tin vào những lời hứa của người Mỹ đây ? Đế quốc La Mă cũng đă
không tồn tại chỉ v́ đă làm mất niềm tin đối với người La Mă.
Quốc gia Hoa Kỳ đang lâm bệnh. Luân lư của họ đang suy đồi, sự hùng
vĩ của họ không c̣n nữa v́ họ đă mất hết danh dự. Không có sức mạnh
tinh thần th́ họ không c̣n tự kiêu được nữa về những tiến bộ vật
chất của họ. Tuy nhiên rồi đây họ cũng sẽ gượng đứng dậy, mong rằng
họ có thể sẽ lấy lại được ḷng tự tin và sẽ thấy được bổn phận của
họ đối với thế giới.
" Hãy cút về nước đi, hỡi người Mỹ!" (US, go home!)
Họ sẽ không trở lại đâu, v́ nếu họ đi trong t́nh huống như thế th́
họ sẽ có nhiều lư do tốt hơn để phản bội đồng minh thêm một lần nữa,
họ đă có thói quen như vậy rồi !
Vậy các quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ ở Âu Châu hãy nhớ
lấy việc nầy và phải hết sức thận trọng. Chúng mình là
những nước nhỏ, giống như nước Việt Nam, không có đủ sức
mạnh để đương đầu với những nước "khổng lồ" lúc nào cũng
vừa đe dọa vừa tán tỉnh chúng ta. Nhất là nước Pháp,
chúng ta phải luôn luôn cảnh tỉnh trước viễn ảnh tai hại từ
sự phản bội của Hoa Kỳ tại Việt Nam, vì một mình cô đơn
đối đầu với cả hướng đông, lại bị tràn ngập với nhiều
khó khăn nội tại, quốc gia chúng ta rất dễ trở thành mục
tiêu béo bở cuối cùng của cả một chiến lược được hoạch
định từ lâu và đang được người ta thi hành.
SỰ THẬT SỰ ĐÂY LÀ MỘT CHIẾN THẮNG CỦA LIÊN XÔ
Trái với ư nghĩ của một số người trong giới trí thức v́ không hiểu
rơ được vấn đề nên họ cứ tưởng rằng việc chiếm Miền Nam Việt Nam là
chuyện đúng. Họ không hề biết được là hai trận tấn công liên tiếp
trước đó đă cho thấy không phải thuộc kỹ thuật tác chiến thông
thường của mọi cuộc chiến tranh cách mạng. Từ Nam chí Bắc khắp nơi
trong lănh thổ Miền Nam Việt Nam, người ta không thấy người dân nào
muốn "nhờ" ai giải phóng cho họ cả và cũng không một ai thấy vui vẻ
chút nào khi thấy bộ đội Miền Bắc tiến vào thành phố, trừ lúc họ bị
bắt buộc phải tham dự vào những buổi mít tinh được gọi là "tự động,
do dân tổ chức" nhưng thực sự đều do bộ đội dàn dựng và chỉ đạo từ
đầu đến cuối.
Khắp mọi nơi dân chúng Miền Nam không có một ai nổi lên chống chánh
quyền hay chống lại quân đội của họ, như Miền Bắc thường rả rít kêu
gọi trên các làn sóng phát thanh với những giọng điệu hùng hổ, vừa
có tính cách xúi dục vừa có giọng điệu hăm dọa. Trái lại người dân
Miền Nam ai cũng t́m đường thoát chạy trước kẻ xăm lăng, đến khi
cùng đường không thể chạy thoát được th́ họ phải chịu "đón" họ thôi,
nhưng với với một bộ mặt lạnh lùng và khinh bỉ.
Trong tất cả các đơn vị thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, người ta
không hề thấy có một "báng súng lên trời", chưa từng thấy sự có mặt
của một "chi bộ sô viết nằm vùng" nào cả, và cũng chưa hề thấy có
một sĩ quan nào bị "hạ". Hơn thế nữa, dù đang ở trong một t́nh trạng
khó khăn tuyệt đỉnh người ta cũng không bao giờ thấy bất cứ một đơn
vị nào quây súng chống lại chánh quyền của Tổng Thống của họ, một
chánh quyền mà Miền Bắc thường gán cho là bù nh́n. Thật ra th́ cũng
có những binh sĩ lột bỏ cả quân trang quân dụng và vũ khí để tháo
chạy hoặc t́m nơi an toàn trong dân chúng để tạm lánh quân xăm lược,
nhưng phần lớn vẫn chống cự mặc dầu trong tuyệt vọng, và chống cự
hết sức ngạo nghễ và thật anh dũng. Tướng Westmoreland, một người đă
từng hiểu biết nhiều về người lính chiến Miền Nam , đă phải ngă mũ
để tỏ ḷng mến trọng :
- "Sự chiến bại nầy không phải là không thể tránh được, nếu xét về
khía cạnh dũng cảm và ḷng hy sinh không chịu khuất phục của người
quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa..."
CÓ AI CHẤP NHẬN CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN ĐÂU ?
Nếu ai đó muốn biết cảm nghĩ thật sự của người dân Việt Nam, dù cho
họ thuộc Miền Bắc hay Miền Nam, kể cả ngay chính những anh bộ đội
Bắc Việt đă phải v́ chủ nghĩa cộng sản mà đi chiến đấu chống lại
đồng bào Miền Nam của họ, th́ người ta sẽ thấy có rất nhiều cơ hội
để mà nhận xét. Sự thật đă cho thấy là qua những sinh hoạt dân chủ
trong những lần tổ chức bầu cử, người dân Việt Nam đă cho thấy là họ
từ chối không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Ngay như tại Bắc Việt sự
việc đă phải xảy ra như vậy trong những cuộc bầu cử, nếu người ta cứ
để cho các cử tri được tự do trong việc chọn lựa lá phiếu bầu của
ḿnh. Tại Miền Nam , tất cả những đăng phái chánh trị, kể cả những
đăng đối lập, chủ trương theo một lư tưởng quốc gia, dựa theo phong
tục và tập quán của dân tộc Việt, đều không chấp nhận chủ thuyết
cộng sản. Ngay như trong thành phần "Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời"
(do Hànội cho thành lập ngày 10/6/69 ), có những nhân vật liều lĩnh
phiêu lưu theo những người Cộng sản nhưng họ không theo chủ thuyết
cộng sản.
C̣n hay hơn là xử dụng lá phiếu nặc danh, bất chấp sự thống khổ và
đôi khi coi thường cả mạng sống của ḿnh, người dân Việt Nam đă
cương quyết chọn lựa sự tự do hơn là chủ nghĩa cộng sản. Thật vậy,
sự việc nầy đă từng xảy ra vào năm 1954, người ta đă chứng kiến trên
một triệu người Việt Nam, phần đông là người công giáo, đă coi
thường mọi khó khăn nguy hiểm của đường xa diệu vợi và thời tiết
khắc nghiệt trên biển cả, họ đă cương quyết vượt trùng dương rời
Miền Bắc ra đi bằng mọi phương tiện thuyền bè sẵn có. Họ cũng đă bất
kể sóng chết, vượt qua những rào cản của cảnh binh cộng sản, dùng
mọi thủ thuật, qua mặt các đơn vị Việt Minh để t́m đến nhờ sự che
chở của các đơn vị người Pháp của chúng ta (lúc đó đang rút quân về
Miền Nam), để rời bỏ Miền Bắc, không chấp nhận cộng sản, t́m tự do ở
Miền Nam. Sau đó lại có thêm một triệu người nữa đứng lên định theo
chân những người đi trước nhưng bị lực lượng cảnh sát cộng sản ngăn
cản dẹp tan, trong khi một triệu người dân khác c̣n đang chuẩn bị ra
đi...và những làn sóng di cư nầy sẽ làm cho nước Việt Nam ngày càng
trở nên vắng, trống..., tựu trung cũng chỉ v́ người dân không chấp
nhận người cộng sản và chủ thuyết cộng sản.
Và từ đó tại Miền Nam Việt Nam, có những lúc mà cuộc chiến trở nên
sôi động, người dân gặp lúc phải chạm mặt với bộ đội Miền Bắc, những
người tự gán cho ḿnh nhiệm vụ vào giải phóng Miền Nam, th́ người
dân bỏ chạy và t́m sự che chở bên những đơn vị Việt Nam Cộng Ḥa cho
dù sự che chở nầy có bấp bênh và không được vững mạnh.
Năm 1968 (Mậu Thân), lợi dụng sự ngưng bắn nhơn dịp Tết cổ truyền,
thừa lúc hầu hết quân nhân các cấp về nhà vui Tết với gia đ́nh, (trừ
hai tiểu đoàn Dù c̣n tại trại mới giải tỏa được Bộ Tổng Tham Mưu gần
Tân Sơn Nhứt), cũng như các đơn vị Hoa Kỳ đều đóng quân xa thành
phố, các sư đoàn Bắc Việt đă nỗ lực đột nhập vào một trăm hai mươi
thị xă. Họ quá thất vọng khi nhận thấy rằng dân chúng Miền Nam không
đáp ứng chút nào với những lời kêu gọi nổi dậy của họ, bất chấp
những lời hăm dọa cũng như không nao núng kinh sợ ǵ cả trước hành
động trừng trị sắt máu của họ; nếu không th́ vào lúc đó chỉ cần một
nhúm sinh viên đứng lên phát động, như thường thấy xảy ra từ trước,
th́ coi như họ đă thắng được ván bài nầy rồi ! Và v́ thế mà họ giết
người không tiếc tay. Tại Sài G̣n th́ họ giết người trong các ngơ
hẻm, tại thị xă Huế th́ con số dân chúng tử nạn bị sát hại hết sức
dă man tàn bạo nầy lên cao đến mức độ mà tất cả những người đàn bà
trong cố đô Huế cứ phải tiếp tục chích vành khăn trắng trên đầu để
chịu tang cho người dân thị xă xấu số.
-"Chúng ta đă bị lừa rồi" họ đă thú thật như vậy !
Vào mùa hè năm 1972, trong giai đoạn cuối cùng của cuộc tổng tấn
công cho dù ở An Lộc, KonTum hay Quăng Trị, tất cả dân chúng đều bỏ
chạy trước quân xăm lăng Bắc Việt, không phân biệt là dân làng, dân
thành phố hay dân đồng ruộng.
Trong ba năm liền của cuộc chiến "lạ đời" tại Việt Nam , từ sau ngày
kư kết Hiệp Định Paris 1973, cứ mỗi lần Việt Cộng hay Bắc Việt tấn
công ở đâu là dân ở đó đều bỏ chạy hết. Do vậy ở Miền Nam Việt Nam
gần phân nữa số dân đều được xem như thuộc thành phần dân "chạy
giặc" hay "lánh nạn". Và trong năm 1975 nầy, ở Ban Mê Thuột, KonTum,
Quăng Trị và Huế có những làn sóng tản cư dồn dập của toàn bộ dân
chúng dài theo các trục lộ, làm cản trở rất nhiều những cuộc điều
quân và đó cũng là nguyên nhân của sự hỗn loạn lúc bấy giờ.
Người ta đổ thừa cho là dân chúng từ lâu bị tiêm nhiễm một sự tuyên
truyền chống cộng, hoặc là họ chạy đi chỉ v́ muốn tránh vạ lây trong
các cuộc chạm súng, nhưng thật sự là họ tản cư v́ không chấp nhận
cộng sản..
ĐỐI VỚI KẺ XĂM LƯỢC MIỀN BẮC , LÀM G̀ CÓ CHUYỆN "QUÂN DÂN NHƯ CÁ
VỚI NƯỚC" ?
Người ta phải có nhận xét đúng đắn rằng sự tản cư của dân chúng luôn
luôn chỉ có một chiều, bất cứ trong trường hợp nào cũng vậy, không
bao giờ, măi măi không bao giờ có một nhóm dân chúng nào đi ngược về
hướng những người tự gán cho ḿnh là người sẽ mang lại cho đồng bào
Miền Nam trật tự, thanh b́nh, thịnh vượng, tự do và hạnh phúc.
Không có một phong trào thân cộng nào bị khám phá ra tại Miền Nam
Việt Nam, và cho đến ngày Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời được thành
lập, cũng chưa hề có một phong trào thân cộng nào hoạt động công
khai hay bí mật cả. Ngay như những phần tử tự cho ḿnh là "trung
lập", hay "đối lập" với chánh quyền của Ông Thiệu, cho dầu họ có t́m
được một sự hỗ trợ trực tiếp hay gián tiếp nào từ phía mà họ gọi là
"cách mạng", họ cũng chỉ nuôi một niềm hy vọng duy nhất và thật thà
là kẻ xăm lược vẫn c̣n chút ít thành thật trong lương tâm để cùng
nhau đi đến được một sự ḥa giải dân tộc mà thôi. Họ mong rằng sự
ḥa giải dân tộc nầy ít nhất cũng sẽ dàn xếp được một nền ḥa b́nh,
dù là tạm bợ, nhưng cũng là một nền ḥa b́nh, miển là chế độ h́nh
thành sẽ không độc tài và không lệ thuộc vào chủ nghĩa cộng sản như
chế độ hiện tại ở Miền Bắc.
Hơn thế nữa, sau khi vào được Sài G̣n, mặc dầu "Chánh Phủ Lâm Thời"
cũng làm theo cung cách của Việt Minh năm 1954 tại Hà Nội, là cố tỏ
thái độ ôn ḥa và xoa dịu, nhưng họ không có được một sự tán đồng
nào từ phía dân chúng, nếu có th́ chẳng qua cũng chỉ là một sự bắt
buộc, vạn bất đắc dĩ mà thôi. Cái gọi là "Chánh Phủ Lâm Thời Cộng
Ḥa Miền Nam Việt Nam" nầy cũng ca tụng một sự thống nhất đất nước
vậy, nhưng muốn lùi xa thời điểm thống nhất đến một ngày nào đó
không chính xác lắm, và không hề nhắc nhỡ hay ám chỉ ǵ đến chủ
nghĩa cộng sản cả mặc dù cũng có một vài người trong cấp lănh đạo
chánh phủ vẫn say mê chủ thuyết nầy. Có một điều được ghi nhận rơ
ràng là người ta chưa bao giờ cho cử nhạc hay hát bài "quốc tế ca"
tại Sài G̣n, một bài ca cộng sản mà người dân Hà Nội thường phải
được nghe gần như hằng ngày.
Đây là một việc không thể chối căi được, người dân Việt Nam phải bỏ
chạy trước quân xăm lăng Bắc Việt, cũng giống y như người dân Pháp
của chúng ta phải bỏ chạy trước quân xăm lăng Đức vào năm 1940 vậy,
và cũng không bao giờ người dân Miền Nam sống ḥa hợp trong t́nh
"đồng bào ruột thịt" với người bộ đội Bắc Việt. Ngay như anh em
trong một gia đ́nh khi gặp lại nhau sau ngày Cộng sản cưỡng chiếm
Miền Nam cũng vậy thôi; và cứ như thế người dân Miền Nam vẫn phải
chịu ép ḿnh sống dưới gọng kềm chuyên chính khắc nghiệt của kẻ
chiến thắng mà ḷng luôn khoắc khoải trông chờ một chuyện viễn vong
nào đó ...
Dân chúng Miền Nam không bao giờ "nhờ" hay "kêu gọi" người lính Bắc
Việt đến giải phóng cho họ. Do vậy mà anh bộ đội Miền Bắc vào Nam
không sống trong t́nh "quân dân cá nước" được, hay nói cách khác là
"không có nước để cho con cá sống". Mặc dầu họ cố hết sức ve văn,
khuyến khích nhưng chưa thấy được một sự hội nhập nào của dân chúng,
nên họ bắt buộc phải có hành động cưỡng chế người dân, coi dân như
kẻ thù của thuở trước.
Các cuộc tổng tấn công trước và trong chiến dịch Hồ chí Minh cho
thấy không phải nằm trong qui tắc hay lối tác chiến của một cuộc
"chiến tranh cách mạng", mà lại thuộc về một cuộc "chiến tranh cổ
điển, quy ước" theo đúng nghĩa truyền thống chánh trị-quân sự của
nó. Do vậy mà để đối đầu với khoản một chục sư đoàn không đủ quân
số, trong đó có hơn phân nữa đă bị loại khỏi ṿng chiến trong những
lần chạm trán đầu tiên, Bắc Việt không cần biết đến tương quan lực
lượng nhất là về quân số, và bất chấp mọi điều khoản của Hiệp Định
Paris mà họ đă long trọng kư kết, đă đưa vào Miền Nam 20 sư đoàn,
mặc dầu xét về tương quan lực lượng họ vẫn có nhiều lợi thế hơn, và
những sư đoàn nầy được trang bị hết sức tối tân, đối với khả năng
pḥng vệ của Miền Nam Việt Nam. Thật ra không phải chỉ có quân đội
Bắc Việt tiến vào Sài G̣n mà thôi đâu.
Trong khi Miền Nam Việt Nam không có được khả năng tự cung cấp vũ
khí đạn dược cho quân lực của ḿnh, phải tùy thuộc vào một sự viện
trợ của phía đồng minh Hoa Kỳ, quá yếu kém lúc nầy... th́ Miền Bắc
cũng không hơn ǵ Miền Nam, họ cũng chỉ xử dụng chiến cụ, vũ khí đạn
dược nhận từ bên ngoài, nếu không th́ họ đă không mở được chiến dịch
Hồ Chí Minh. Như vậy điều hiển nhiên là lợi dụng sự bội phản của Hoa
Kỳ, và với một số chiến cụ, vũ khí tối tân được viện trợ dồi dào và
đúng lúc, Miền Bắc mới quyết định khởi xướng ngay chiến dịch tổng
tấn công; được khuyến khích, xúi dục, và chỉ đạo từ bên ngoài, cuộc
tổng tấn công nầy h́nh như không phải chỉ nhằm riêng cho Miền Nam
Việt Nam mà c̣n phải nhắm vào những mục tiêu khác có tầm xa rộng
hơn, tương ứng với ngân khoản chi tiêu mà người ta gọi là quân viện.
TINH THẦN CỦA DÂN CHÚNG MIỀN NAM ĐANG SUY SỤP
Một nền dân chủ lạm quyền, hư hỏng và tham nhũng đă vô t́nh nối giáo
cho cộng sản, đưa Miền Nam Việt Nam đến chỗ chiến bại và diệt vong.
Nếu sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam có những nguyên nhân khách quan
có tính cách quyết định và không thể tránh được, như sự phản bội của
Hoa Kỳ và nỗ lực viện trợ của Liên Xô, th́ những nguyên nhân chủ
quan nội tại cũng không kém phần quan trọng.
Khi những anh bộ đội Miền Bắc vào được Sài G̣n, với thân h́nh ốm yếu
trong bộ quân phục bằng vải xanh thô kệch đến độ người ta "ngữi"
được mùi khắc khổ, họ quá ngỡ ngàng trước sự xa hoa và giàu sang nổi
bật của một thành phố lớn mà họ không thể tin là vừa được họ giải
phóng khỏi sự nghèo đói
KHAI THÁC VÀ CẠNH TRANH TỪ NGÀN XƯA
Miền Nam Việt Nam (ngày xưa người Pháp chúng ta gọi là Nam Kỳ) lúc
nào cũng là một nước giàu có, từng làm cho người dân nghèo khó Miền
Bắc Việt Nam thèm thuồng.
Vào thế kỷ thứ 17, xuất phát từ vùng Huế và lân cận, một số người
Việt Nam muốn đi t́m "đất lành" (mà bây giờ người ta gọi là thuộc
địa) đă mạnh dạn và kiên nhẫn tiến lần xuống phía Nam chiếm các vùng
đồng bằng trù phú.
Trên đường Nam tiến họ đă tiêu diệt gần hết giống dân Chàm, một
giống dân mà di tích c̣n sót lại ngày nay là những "tháp chàm" và
những đền thờ xây cất rải rác dọc theo miền đồng bằng từ Đà Nẵng đến
Nha Trang, Phan Rang.
(Có một vài người Việt Nam quá tin dị đoan đă gán tội cho ông Thiệu
chính là người đă gây ra bao đau thương tang tóc cho dân tộc Việt,
chỉ v́ ông Thiệu trước kia thuộc giống dân Chàm, nay v́ muốn trả mối
thù diệt chủng truyền kiếp cho dân tộc ḿnh, nên đă "đầu thai" làm
người Việt để phá nát dân tộc Việt.)
Sau đó họ tiến xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long rộng mênh mông,
nơi người Khmer đang sanh sống, và đấy lùi dân Khmer nầy về miền
Tây; (có nhiều tỉnh hiện nay dân chúng toàn là người Khmer, và Chánh
Phủ Cộng Ḥa Khmer có lúc đă lớn tiếng đ̣i lại chủ quyền của ḿnh
trên các tỉnh Miền Tây Nam Việt nầy).
Từ châu thổ sông Cửu Long, từng tốp di dân lại ngược gịng sông đi
về lại hướng Bắc, đến đất Lào, nơi đây cũng có nhiều toán từ miền
thượng du Bắc Thái đi vào. Nếu không có người Pháp chúng ta đến th́
họ đă "ngự trị" hết mọi nơi trên vùng lănh thổ mà chúng ta thường
gọi là Đông Dương rồi.
Khi được người ta nhắc đến "chiến lược sông Mékong" của Hồ chí Minh,
dường như c̣n đang được Cộng sản Bắc Việt áp dụng, th́ Hoàng thân
Souphana Phouma, Thủ Tướng Lào đă có nói như sau:
- "Hồ chí Minh hả ? Người Pháp đă có lư khi họ cho là dân tộc Lào
chúng tôi không có đủ nhân lực và không đủ kỹ thuật để khai thác quá
nhiều tài nguyên vô giá của vương quốc Lào, do đó họ có ư muốn đưa
người Bắc Việt qua Lào v́ người Việt miền Bắc họ cần cù và chịu khó,
không như người Lào lúc nào cũng thích muốn đi "buoms" để nhậu nhẹt
đờn ca múa hát, mặc cho ai muốn làm ǵ đó th́ làm. Hồi xưa người dân
Lào đă chẳng từng nói là nhà cầm quyền Pháp có mở ra một văn pḥng
"mộ phu Annamít" tại Hà Nội từ năm 1935 hay sao ? Người trưởng văn
pḥng đó đă cưới cháu gái tôi, hiện giờ anh ấy có mặt ở ngay trong
pḥng bên cạnh tôi đây, anh ta có thể xác nhận với ông những ǵ tôi
vừa nói và nhất là về "bản tính thực dân" của người Việt Nam hiện
nay."
Thật vậy, trong khi cùng chiến đấu chống kẻ thù chung, cả hai quốc
gia Lào và Khmer bị yếu thế v́ thiếu đoàn kết, nên ở Vientiane người
ta nói:
- "Quả là tai hại hết sức, khi chúng ta để cho các thanh niên chúng
ta chết mà "dân Bắc Kỳ" được hưởng lợi."
Trong khi đó ở Phnom Penh người ta nói:
- "Đối với chúng ta th́ một anh Bắc Việt có chết đi, và nếu có thêm
một anh Nam Việt chết nữa th́ lại càng tốt, v́ chúng ta sẽ bớt được
hai người."
Nhưng dù ở Vientiane hay ở Phnom Penh, ở đâu cũng không thể thiếu
người Việt Nam được, v́ họ rất cần mẫn trong công việc, khéo tay,
lúc nào cũng hoạt bác, rất thích ứng với ngành tiểu thương (giống
như người Trung Hoa thích hợp với ngành đại thương vậy), nhưng bản
tánh lại là luôn luôn muốn chiếm đất của thiên hạ!
C̣n ở vùng châu thổ sông Cửu Long thuộc Miền Nam Việt Nam mà người
Pháp chúng ta gọi là "Nam Kỳ" th́ sao ?
- phải chăng ở đó có một khí hậu mát mẻ triền miên như mùa xuân hay
hơi nóng hơn một chút, đôi khi hơi ẩm ước nhưng lúc nào cũng dễ chịu
v́ thường có mây trắng che kín ṿm trời ?
- phải chăng ở đây đất đai mầu mỡ, trù phú, không có "nghèo nàn"
theo đúng định nghĩa của người Âu Châu hay của người Phi Châu ?
- phải chăng bốn mùa quanh năm suốt tháng người dân vẫn chỉ cần có y
phục nhẹ?
- phải chăng nước mưa được người dân đón nhận như là món quà quí báu
mà thiên nhiên hậu hỷ ban cho họ, trong lúc trẻ con th́ vui vẻ nô
đùa nhảy múa dưới cơn mưa tầm tă ?
- Phải chăng lúc nào cũng có một loại trái cây hay "củ, quả" nào đó,
ăn được, ở khắp mọi nơi từ miền rừng cho đến vùng đồng bằng ? và lúc
nào cũng có con cá con tôm dưới các sông rạch hay ruộng lúa mênh
mông đầy nước trải dài đến tận chân trời, thỉnh thoảng có những mảnh
vườn cây ăn trái xanh um như chuối, cao, dừa, cam quít v.v... ?
Cho nên ở Miền Nam có được chén cơm ăn không có ǵ là khó cả...và
đời sống ở đây thật quá dễ dàng, nên tâm tính người dân có chút thay
đổi, tiếng nói cũng nhẹ nhàng hơn, phong tục tập quán cũng không c̣n
quá cứng rắn như ngoài Bắc, nên đời sống có vui vẻ hơn. Họ thường
sống vô tư lự và cũng thích phong lưu ngồi tán gẫu những câu chuyện
đâu đâu, có khi vô bổ... tất cả đều khác hẳn người Miền Bắc nghiêm
khắc, cần cù, thô bạo, đanh thép, và thường hay hách dịch, đúng là
một mẫu người "Phổ" của nước Việt Nam.
Chịu ảnh hưởng của người Pháp chúng ta, người Miền Nam vui vẻ hội
nhập vào nền văn hóa Tây Phương rất hợp với nhân tính của họ; từ một
thuộc địa, Miền Nam Việt Nam đă trở thành một nước cộng ḥa có quy
chế độc lập khác hẳn các quốc gia trong bán đảo Đông Dương, và giống
như người Miền Nam của chúng ta, họ sống hài ḥa trong một cuộc sống
dễ dàng đến độ trở thành con người ham chơi và vô tư lự. Từ lâu rồi
chiến tranh có đem lại phần nào đau khổ cho họ, nhưng hy vọng rồi
đây sức sống mănh liệt của dân tộc nầy sẽ sớm hàn gắng được vết
thương của Miền Nam Việt Nam , và mặc dầu có một số ruộng bị bỏ
hoang người dân có lẽ cũng sẽ sống được trong an lạc.
ĐỒNG ĐÔ LA "PHÁ HẠI" NHẬP CUỘC
Và tới đây th́ người Hoa Kỳ vào Việt Nam ....
Cùng vào với người Mỹ là đồng đô la và cả tính thực thà đến độ khờ
khạo của họ mà nếu có muốn bứng hết đi cũng không phải là một chuyện
dễ. Chợ đen khá thạnh hành.
Trong một khu được mệnh danh là "chợ trời" (nguyên tác: "đường của
kẻ trộm", rue des voleurs), người ta bày bán đủ mọi loại hàng với
một giá thật hời, từ chiếc máy ảnh, máy thu băng, đến bánh xà pḥng
cạo râu, rượu sâm banh, cỏ nhác, whít ky v.v.... tất cả đều được
tuồn ra từ hàng viện trợ Hoa Kỳ hoặc từ những món quà tặng của người
lính Mỹ, để rồi tất cả được đem ra bày bán, có khi c̣n bán trở lại
cho chính người lính Mỹ nữa.
Trước kia, khi c̣n người Pháp, Sài G̣n là một thành phố vui nhộn.
Sài G̣n được tiếng là thanh lịch và đúng thời trang, nhưng rồi chiến
tranh và lính tráng đă làm hư hỏng đi phần nào; rồi đến lúc người
Pháp chúng ta phải ra đi, chế độ của ông Diệm, một người công giáo
khắc khổ, đă sớm cho đóng cửa tất cả các hộp đêm, vũ trường và các
ṣng bạc. Muốn khiêu vũ, muốn giải trí, người ta phải đến Phnom Penh
.
Sau Ông Diệm th́ chế độ có vẻ c̣n quá trẻ. Rồi đến lượt người Mỹ vào
Miền Nam Việt Nam, những người Mỹ ngây ngô chất phác, vung vít đô la
bừa băi, bản chất th́ ít cởi mở...tất cả đều là nguồn lợi bất ngờ
cho người dân Miền Nam. Những quán rượu những hộp đêm với hệ thống
đèn mờ, với những cô gái đẹp mà lúc nào cũng chỉ nghĩ tới cái áo len
của ḿnh hơn là những anh lính Mỹ đang ngồi nhâm nhi ly rượu
"bourbon" với ḿnh...làm người ta tưởng chừng như đang sống ở
Suburre chớ không phải Sài G̣n. Thật ra th́ nói cũng có hơi quá, ít
có ai c̣n nhớ tới thời kỳ lúc người Pháp chúng ta c̣n ở đây trước
kia cả, nhưng mà đồng đô la cứ thế mà tuôn ra..tuôn ra.
Về phương diện xây cất, người ta trách người Pháp không biết làm ǵ
cả, tất cả hệ thống hạ tầng, từ những giang cảng, hải cảng, phi
cảng, những sân bay với những đường bay rộng dài, đến đường xá, xa
lộ v.v...không những phải cần xử dụng các đơn vị công binh Hoa Kỳ mà
c̣n phải nhờ tới hai hăng thầu công chánh ngoại quốc, một hăng có
70.000 và một hăng có 90.000 công nhân người Việt. Thế mà vẫn c̣n
thiếu phải thuê thêm một số công nhân từ Nam Dương, từ Phi luật Tân,
cả từ Nhật Bản nữa, và dĩ nhiên là người Mỹ trả lương rất hậu. Ngành
thương măi phát triển rất mạnh song song với tất cả các ngành công
kỹ nghệ khác, nhưng giá cả được tính căn bản từ giá hàng và nguyên
vật liệu Mỹ. Do đó mà giá sinh hoạt tăng lên ngay, tăng kinh khủng,
tuy có lợi phần nào cho người dân thường, nhưng công chức quân nhân
th́ vẫn chỉ có số lương tối thiểu và quá ít. Giới "chạy áp phe" th́
phát tài nhanh nếu công việc suông sẽ, càng nguy hiểm càng có tiền
nhiều. Người ta buôn lậu đồng bạc và đồng đô la xanh đô la đỏ.
Người ta chứng minh cho ông Cabot Lodge, đang là Đại Sứ Hoa Kỳ tại
Sài G̣n, rằng các tất cả những chuyện đó đang làm bại hoại truyền
thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, và tàn phá nền kinh tế trong
nước, th́ ông nầy trả lời ngay:
-"Tất cả nền kinh tế trong nước không bằng chi phí quân sự cho một
ngày của cuộc chiến mà chúng ta đang theo đuổi, Chúng ta hăy thắng
trong cuộc chiến này đă, đem lại thanh b́nh đă, rồi ngày nào đó
chúng ta sẽ phục hồi nền kinh tế của Việt Nam cùng đạo đức truyền
thống của dân tộc Việt Nam lại ngay, không khó."
Không thể làm ǵ hơn được cả. Đồng đô la cứ tiếp tục quay ṿng, cán
bẹp tất cả mọi thứ trên đường đi của nó. Chỉ có những tiệm giặt,
những trạm rửa xe, những hộp đêm, quán rượu, và một ít tiểu thương
loại bán hàng rong cho lính Mỹ là khá thôi. Các pḥng ốc cho thuê
th́ tăng giá, các người giúp việc trong gia đ́nh th́ phải trả một
giá thật cao, nếu không th́ chẳng bao giờ t́m được. Một anh tập sự
luật sư, cho một người Mỹ thuê xe của anh c̣n được nhiều tiền hơn là
phải đến làm việc mỗi ngày ở văn pḥng luật sư nơi anh đang tập sự.
Một ông Chánh Án phải để cho chị giúp việc trung thành của ḿnh đi
làm cho Mỹ, v́ lương của chị cao gấp 10 lần lương của ông, và được
ông chủ của chị cho một căn pḥng để ở, không tính tiền, mà giá thuê
căn pḥng nầy cao gấp 10 lần giá thuê một văn pḥng làm việc của
người Mỹ. Một anh phu xe, trước kia thuộc vào hàng thấp hèn trong xă
hội, cũng có một giá biểu đi xe khác nhau, cao dần từ người Việt
Nam, người Pháp đến người Mỹ, tuy nhiên anh vẫn kiếm được nhiều tiền
hơn bằng cách đưa ông Viện Trưởng Viện Đại Học mỗi ngày từ nhà Ông
đến Trường Đại Học.
Có cả một làn sóng sung túc thừa thải tràn vào Miền Nam Việt Nam làm
bại hoại luân thường đạo lư. Tiểu công nghệ th́ có phát đạt; các
tiệm buôn lẻ th́ mỗi năm lên thêm một tầng lầu; dân "áp phe" càng
bất lương càng sống thoải mái, sở thuế th́ không biết ǵ và quan
thuế th́ luôn bị qua mặt. Đồng tiền quay ṿng nhanh quá đến độ người
ta xài vung vít hoang phí thay v́ nghĩ tới một ngày mai mà ai cũng
biết có khi là không sáng sủa. Ai mà không có máy thâu thanh hay là
máy truyền h́nh ?
Ngay tại "chợ vườn" ở xă, các sạp cũng đầy ấp đủ mọi loại hàng tiêu
dùng, các tiệm thợ bạc th́ tấp nập khách hàng, tủ đầy vàng, loại
vàng đỏ ao nhập từ nước Lào. Nếu tất cả mọi người đều không có một
mức sống thoải mái như nhau, th́ trái lại các thanh niên và các
thiếu nữ th́ tăng trưởng nhanh lắm, v́ ở vào lứa tuổi phải ăn nhiều.
Và nếu có ai đó c̣n nghèo đói thật sự trong lúc vẫn có hay không có
việc làm, th́ cũng có nghề buôn bán hàng lậu, đủ cỡ đủ loại, vừa sỉ
vừa lẻ, và cứ thế là tiền vô rất nhanh mà tiêu ra cũng rất nhanh.
Người lính Mỹ tiêu số lương của họ tại đây, người công chức và quân
nhân Mỹ có lương bổng cao, tiêu xài rộng răi không tiếc tiền, giống
như phần đông người ngoại quốc kể cả người Pháp, thuộc giới thương
mại và giới "áp phe".
SỰ NGHÈO KHÓ CỦA CÁC CẤP QUÂN CÁN CHÍNH
Trong lúc đó những người Việt Nam, thuộc các hăng xưởng cũ, các cựu
điền chủ không c̣n đất không c̣n ruộng, các công chức quân nhân và
cán bộ, với số lương thấp.... đều không thể sống được trong một mức
sống gọi là b́nh thường. Họ cũng phải đi ra ngoài, cũng phải tiệc
tùng trả lễ, nhất là cần phải có qua có lại một chút với các công
chức quân nhân cố vấn Hoa Kỳ, những người khổ nỗi làm việc th́ chẳng
bao nhiêu mà lănh tiền th́ quá nhiều nên có một cuộc sống quá sang
trọng và vương giả. Chẳng những thế họ c̣n phàn nàn về sự phóng túng
trụy lạc của người dân địa phương, vốn nảy sanh từ sự vung vít đồng
đô la quá bừa bải của chính người Hoa Kỳ, và họ cũng chẳng hiểu được
chính họ mới là thủ phạm thực sự của t́nh trạng hư hỏng nầy. Nếu bản
tánh của người Việt Nam có khuynh hướng ham tiền th́ cái tṛ "giỡn
tiền" của người Mỹ thật là quá dại dột và hết sức tai hại.
Người "binh nh́" Việt Nam chỉ lănh có 13 $ một ngày, đủ để trả tiền
cơm lính, nếu muốn mua được một gói thuốc lá Mỹ anh phải tốn 5 $.
C̣n lương cấp Tướng của Việt Nam c̣n thấp hơn lương của một anh binh
nh́ Hoa Kỳ. Ngân sách quốc gia mà không có viện trợ ngoại quốc th́
không đủ trả lương cho công chức: như thế là "sập tiệm" là cái chắc
và cũng phải thôi ! Và cho đến những ngày gần đây mặc dầu có tăng
được chút ít nhưng lương và phụ cấp vẫn c̣n thấp kém rơ rệt: Tháng
3/75, lương của một đại tá thị trưởng Vũng Tàu, vợ sáu con, là
61.000 đồng một tháng, trong khi một giáo sư trẻ độc thân người Pháp
phục vụ cho cơ quan chánh phủ trong thời gian thi hành quân dịch vẫn
có số lương hằng tháng là 400.000 đồng. C̣n các bà nội trợ th́ cũng
phải chịu khó t́m cách kiếm thêm tiền mới đủ để trang trải vào cuối
tháng, đôi lúc c̣n phải đi xa hơn, lợi dụng quyền thế của chồng để
t́m thêm những món bổng lộc khác nữa mới đủ tiêu pha cho gia đ́nh,
dù ông chồng có biết hay không biết cũng mặc.
Cũng phải ghi nhận rằng tại Sài G̣n, chỉ có một trong số bốn ṭa án
là c̣n giữ được tính thanh liêm. Một quan ṭa với số lương vài chục
ngàn hằng tháng, khó khăn lắm mới nuôi nổi gia đ́nh, mà rồi ông c̣n
phải giữ tư cách, thể diện và vị thế quan trọng của ḿnh nữa, th́
làm sao thanh liêm được khi phải xử những vụ án có liên quan đến
hàng triệu hàng tỷ bạc mà bị can đều là những người có máu mặt trong
xă hội, và những món quà đút lót được trao tay thật là kín đáo?
Đồng tiền cứ như thế mà tuôn ra, nhanh như nước lũ, không nắm bắt
được: người ta phải ngăn chận hết những vụ cưới hỏi hay xin con nuôi
giả tạo v.v..v́ đây là những dịch vụ có vẻ hợp pháp để chuyển ngoại
tệ tuồn tiền ra ngoại quốc. Chánh Phủ thấy rơ nguy cơ, cố t́m biện
pháp nhưng vô hiệu, v́ c̣n quá nhiều việc khác phải làm. Vả lại thế
kẹt ở đây là "bức mây động rừng", không những động tới chế độ hiện
hành mà c̣n động tới những người cần thiết cho công việc luôn được
kẻ có quyền cao thế mạnh bao che. Người ta mở ra những ngân hàng,
thu tiền tiết kiệm với lăi suất đến 24%, không có danh sách chánh
thức, thông thường vay ra th́ từ 18% hay 20% mỗi tháng, đó là đặc
biệt cho những dịch vụ đặc biệt. T́nh trạng lưu hành của đồng tiền
thật là vô lư khó tin, phần lớn lợi tức quốc gia chạy ra ngoài, và
Việt Cộng chỉ mong có thế v́ thật là quá lợi cho họ!
Người Mỹ ra đi, để lại cho người dân quá nhiều thứ nhu cầu và thói
hư tật xấu trong cuộc sống, căn bịnh nan y nầy coi như đă phát triển
đến cao điểm rồi !
Một vị bộ trưởng đă có thử một vài biện pháp cải cách quan trọng: đă
nhiều lần ông muốn chận đứng giá sinh hoạt không cho tăng lên gần
như mỗi ngày, để tránh "lạm phát phi mă", nhưng rồi lại bị nạn chợ
đen lan tràn. Luật lệ không được tôn trọng nữa, quốc gia đă bị ung
thối rồi, dân chúng không c̣n thật thà ngay thẳng nữa, viễn ảnh của
một ngày mai thiếu thốn nghèo đói làm cho nạn đầu cơ tăng lên, làm
cho xă hội càng thêm ung thối, trừ phi có được thanh b́nh trở lại
th́ mới cứu văn được mà thôi. Chính cái ung thối của xă hội này làm
suy yếu quốc gia. Tinh thần chiến đấu, cần thiết để ngăn chận quân
xăm lăng, đi lần đến chỗ suy sụp. Và khi mà con số những người liêm
khiết phục vụ cho đất nước ít hơn số người "ngồi mát ăn bát vàng"
hay "ngồi chơi xơi nước", khi mà làm việc quá nhiều và quá cực mà
hưởng th́ chẳng được bao nhiêu, khi mà cái hay bị cái dở lấn áp, khi
mà cái bóng bảy bề ngoài che kín cái xấu xa bần tiện...th́ tinh thần
của cả một dân tộc phải đi xuống dốc. Từ đó, những ư kiến, phe nhóm,
cả đến cuộc chiến... tất cả đều nhằm phục vụ cho mục đích cá nhơn ám
muội, không c̣n phục vụ cho đất nước dân tộc nữa, cả trong chánh
quyền và trong quân đội cũng vậy, v́ hầu hết các chức vụ hành chánh
quan trọng từ trung ương đến địa phương đều do quân nhân đăm trách.
Người ta không biết phải than với ai bây giờ ? Những vụ việc gây
nhiều tai tiếng nổ bùng hàng loạt như pháo Tết; ai là bộ trưởng hay
giữ một chức vụ quan trọng trong chánh phủ mà khoản đăi khách ngoại
quốc một cách linh đ́nh th́ không bị sa thải th́ cũng vào tù một
ngày tốt trời nào đó mà thôi.
CÁI V̉NG LẨN QUẨN
Chỉ c̣n có một cách duy nhất là trở về với cuộc sống khắc khổ đạm
bạc th́ mới mong trị được căn bệnh trầm kha của đất nước. Trước tiên
là phải thắng trận giặc nầy, văn hồi được thanh b́nh, phục hồi lại
hệ thống kiểm soát, tư pháp, và đặt lại người cho đúng chỗ.
- Cần có thanh b́nh, (hay ḥa b́nh cũng thế)
- Cần phải thắng trong cuộc chiến nầy,
Nhưng tất cả xem chừng như đều bất lực trong việc phục hồi và nâng
cao tinh thần của dân tộc và t́nh trạng suy sụp của Miền Nam Việt
Nam, v́ phải tùy thuộc vào hành động của đồng minh Hoa Kỳ đang bị
địch khích động và lợi dụng. Dĩ nhiên vẫn c̣n có được những người
lương thiện, những quan ṭa thanh liêm.. những người c̣n được sự
kính nể tôn trọng của dân chúng. Nhưng con số người như thế không
nhiều, và hành động quá rụt rè của họ không kích thích được ḷng
trung thành của dân chúng cũng như ư chí quyết tâm hy sinh theo
tiếng gọi của Tổ Quốc
trong cuộc chiến nầy. Quyền lợi cá nhơn được đặt trên quyền lợi của
dân tộc th́ đất nước phải chết thôi, đó cũng là chuyện thường t́nh
!!!
Một số người trong sạch có đề nghị hơi quá lố, dĩ nhiên cũng v́ quá
lo âu, họ khẳng định rằng trở về với cuộc sống lương thiện và đạm
bạc như người công giáo và phật giáo đă và đang sống là điều kiện
tiên quyết để giữ được nước:
- "Mỗi ngày chỉ một chén cơm thôi, là chúng ta sẽ có ḥa b́nh"
Một số người khác th́ đổ lỗi cho quân đội, có thể là do bị tuyên
truyền xuyên tạc của địch, trách các tướng lănh tham nhũng thay v́
phải quy trách cho những giám đốc ngân hàng, v́ chính những người
nầy mới là không lương thiện. Lẻ ra họ nên biết t́m mọi cách để yêu
cầu các tướng lănh phải chiến thắng quân thù.
Các đảng phái chánh trị th́ chỉ có ảo tưởng và tham vọng cá nhơn,
chỉ t́m cơ hội để đă kích và gây ra biết bao là chướng ngại càng
ngày càng khó vượt qua cho chánh quyền, do đó trước một sự giáp công
hai mặt, giặc ngoài và thù trong, chánh quyền đành phải thua cuộc,
nhường chỗ để ra đi.
Khi mà tinh thần của cả một dân tộc bị suy sụp v́ tham nhũng cá nhơn
ngoài xă hội dẫn tới tham nhũng trong bộ máy hành chánh rồi đến tham
nhũng chánh trị, th́ trong quân đội từ ông tướng đến anh binh nh́
cũng phải "bó gối quy hàng", v́ đă thiếu súng đạn, thiếu quân số, mà
c̣n thiếu cả sự yểm trợ của chánh phủ và của dân chúng...
"Có dùng hết sức ḿnh để đánh nữa cũng vô ích", đây cũng là một
quyết định hợp lư mà thôi, nếu không muốn nói là có cố gắng th́ cũng
chỉ để đi t́m một lợi ích cho cá nhơn mà thôi, kể cả việc bỏ chạy
nếu cần. Tuy nhiên người ta cũng có ghi nhận được rất nhiều chiến
tích và chiến công, mặc dù là đang có sự tan ră hàng ngũ trong quân
đội và mặc dù là đất nước sấp đến chỗ diệt vong.
C̉N NƯỚC PHÁP NỮA
Nếu người ta có thể nói nhiều về cái đau khổ triền miên của căn bệnh
thối nát không cứu chữa được mà cả một dân tộc phải gánh chịu chỉ v́
một quốc gia đồng minh không có lương tâm trong việc tháo khoán đồng
đô la cho cuộc chiến, th́ người ta cũng có thể tự hỏi xem liệu sự
kiện suy sụp tinh thần của một dân tộc như thế có lây lan ra các
nước tự do trên thế giới hay không?
Đặc biệt tại Pháp, tất cả những dấu hiệu về một mối nguy cơ cho dân
chúng đă hiện rơ: người ta đă thấy được những triệu chứng giống nhau
đủ để lo ngại là căn bệnh nan y cũng giống nhau. Nguyên nhân cũng
như thế, hậu quả cũng sẽ như thế: sự thay đổi lối sống được chấp
nhận và được đưa vào chương tŕnh giáo dục, tính ưa thích có bổng
lộc dễ dàng tự do mà không thích cố gắng trong công việc. Mất đoàn
kết v́ tinh thần hám lợi và không dám hy sinh, quốc gia xem chừng
như không có khả năng chống đỡ, sẽ bệnh hoạn và sắp ngă gục. Sự diệt
vong của nước Việt Nam đă đem lại cho chúng ta một bài học có thể
nói là hết sức nghiêm trọng để cảm hóa người Pháp chúng ta.
Chúng ta phải khéo giữ ḿnh; hồi năm 1949 Hoa Kỳ đă chơi tṛ nầy đối
với Tưởng Giới Thạch rồi, người ta đă cáo buộc ông nầy là tham
nhũng, để rồi phá hại uy tín đạo đức của ông, cắt viện trợ kinh tế,
rồi cắt luôn viện trợ quân sự: kết quả là cả lục địa Trung Hoa rộng
lớn trở thành một nước cộng sản.
Bây giờ là Tổng Thống Thiệu, người ta cho ông là người có trách
nhiệm trong cái gọi là "tham nhũng của nước Việt Nam", từ đó ông mất
tín nhiệm lần lần đối với các quốc gia đồng minh, và cuối cùng là
ông phải bị bỏ rơi mặc dầu có đầy đủ những lời hứa và cam kết long
trọng trên giấy trắng mực đen. Không c̣n được viện trợ kinh tế và
quân sự để tự chống đỡ với kẻ xâm lăng Miền Bắc, Việt Nam Cộng Ḥa
phải "sập tiệm" mà thôi !!!!
Cũng với những lư lẽ đó, cùng trong thời gian đó, phải chăng Thống
chế Lon Nol của Cam Bốt cũng cùng chịu chung một số phận ?
Với những bài học kinh nghiệm như thế, chúng ta có lo ngại ǵ chăng
nếu một ngày nào đó, cũng dựa vào những lư lẽ như trên, các quốc gia
Tây Âu và nước Pháp của chúng ta cũng sẽ bị bỏ rơi, ngay trong lúc
gặp nguy cơ mà v́ tinh thần bị suy sụp không thể chống đỡ nỗi
NHỮNG ĐIỂM YẾU KÉM CỦA CHÁNH QUYỀN
Có quá nhiều mối nguy cơ
- Nguy cơ phát sanh từ phía địch vốn đă len lỏi vào được khắp nơi
trong chánh quyền, do đó song song với hành động quân sự, cần phải
có biện pháp hành chánh; Bộ máy hành chánh được điều hành không có
ǵ đáng chê trách, ít nhất cũng cho tới ngày cuối cùng; không bao
giờ có người nào đổ lỗi cho Quân Lực VNCH làm điều sai trái như
người ta đă từng quy trách cho quân đội Pháp ở Algérie.
- Nguy cơ phát xuất từ bên trong, dân chúng quá hoang mang v́ tiếng
xấu của một số hành động tham nhũng.
- Nguy cơ đến từ bên ngoài, v́ phía địch chẳng những có đầy đủ nguồn
tài trợ về mọi mặt mà c̣n được hà hơi bằng sức mạnh bén nhọn của các
cơ quan truyền thông quốc tế cộng sản, một điều mà chánh phủ VNCH v́
đang sa lầy trong chiến cuộc không sao chống chế hữu hiệu được. Các
quốc gia thuộc Thế Giới Tự Do thay v́ thông cảm cho VNCH là một
trong những con cờ "domino" đang gánh mọi nguy hiểm thay cho họ, th́
lại không bao giờ quan tâm đến những khó khăn của quốc gia nầy, nếu
không muốn nói là "ngoảnh mặt làm ngơ".
- Nguy cơ cũng phát xuất từ chế độ quá yếu, đối ngoại th́ gặp quá
nhiều áp lực, đối nội th́ có quá nhiều việc phải làm mà không có đủ
khả năng thực hiện.
Muốn tránh những mối nguy cơ đó, cần phải có một chánh phủ mạnh.
Nhưng để ch́u ư chánh phủ Hoa Kỳ, (không có sự ủng hộ nâng đỡ của họ
th́ sẽ mất tất cả), ch́u ư dư luận của dân chúng Mỹ, thể chế phải
thật sự dân chủ và tự do, có đầy đủ tự do trong mọi lănh vực dù là
tự do vô kỷ luật, và bất cứ mọi hạn chế nào cũng bị coi như một sự
lạm quyền.
Khi xưa người La Mă đă có dự trù một "đặc quyền thống lỉnh" trong
hiến pháp cộng ḥa của họ trong trường hợp có khủng hoảng chánh trị,
đó là: chỉ có một người duy nhất nắm giữ tất cả mọi quyền hành trong
thời hạn một năm, có thể gia hạn thêm nếu khủng hoảng c̣n kéo dài
chưa giải quyết được.
Trong đệ nhất thế chiến, nước Pháp đă đặt hết ḷng tin vào "người
hùng" mà người Pháp chúng ta gọi là "hùm xám" hay là "người cha
chiến thắng", sau khi thắng trận kết thúc chiến tranh. Nhưng ông
Clémenceau đă cho thấy ông là một người đă lạm dụng hai chữ Tự Do,
v́ ngay sau khi nắm được chánh quyền ông cho là t́nh h́nh quốc gia
đang c̣n bất ổn nên ông cần phải có đầy đủ tất cả mọi quyền hành, và
sau đó ông trở thành một người độc tài quá độ:
- "Tôi điều hành cuộc chiến", ông nói.
Ông không cho quốc hội và báo chí lên tiếng. Ông không cứu xét những
khó khăn nội bộ cũng như những đ̣i hỏi hay nhu cầu cá nhơn. Ông thật
sự là một nhà độc tài. Thật ra khi đă giành được chiến thắng cho
nước Pháp, và khi đă từ chối không chịu hợp tác với các lực lượng
luôn luôn chỉ có làm suy yếu quốc gia, ông đă tự ḿnh từ khước quyền
lực tối thượng của quốc gia ông, một tưởng thưởng cho "công lao hạn
mă" của ông đối với nước Pháp, từ tay của những người mà ông đă cứu
sống họ, nhưng đă làm chánh trị th́ phải biết thông cảm sự bạc bẻo
của người dân. Thế nhưng ông Clémenceau chỉ có việc làm khi có giặc
ngoại xăm, không có ǵ để làm đối với hằng ngàn chuyện rắc rối của
một cuộc chiến tranh cách mạng. Ông cũng không thể ngồi yên hưởng
thụ như trong thời b́nh khi mà quốc gia đang ở trong thời chiến.
NHU CẦU: CẦN PHẢI CÓ MỘT NHÀ ĐỘC TÀI
Tại Việt Nam lẽ ra phải có một nhà độc tài mà vẫn không gây thiệt
hại ǵ cho nền dân chủ, v́ dân chúng của quốc gia nầy từ lâu đă có
kinh nghiệm sống vui vẻ và hạnh phúc ở nông thôn xă ấp rồi. Tổng
thống Thiệu thường được khuyên như vậy. Ông ta không phải không
muốn, nhưng v́ ông ta muốn tỏ ra tôn trọng sự tự do của dân chúng
vốn là truyền thống của dân tộc Việt Nam. Có điều là ông ta quá lệ
thuộc vào viện trợ Hoa Kỳ, không có viện trợ th́ quốc gia nầy sẽ
không tồn tại được.
Sau cuộc cách mạng 1963 để lật đổ chế độ Ngô đ́nh Diệm th́ có một sự
hỗn độn về chánh trị tại Việt Nam và chỉ có quân đội là c̣n giữ được
kỷ cương tương đối chặt chẻ, điều nầy dĩ nhiên dẩn đến việc quân đội
nắm chánh quyền.
Thiệu là một tướng lănh duy nhất tự cho ḿnh được nắm quyền lănh đạo
quốc gia đồng thời phải kiêm nhiệm luôn chức vụ tổng tư lệnh quân
đội, nếu không th́ một vị tướng lănh khác sẽ chiếm ngay chánh quyền.
Ông không có dáng điệu của một nhà hùng biện chánh trị. Trong tư thế
một quân nhân ông cho là không cần thiết phải nịnh dân hay kêu gọi
sự ủng hộ của dân chúng. Ông không được huấn luyện về chánh trị, và
không có khả năng hay không thích cộng tác với các đoàn thể chánh
trị khác để sắp xếp một số quyền lợi đặc biệt cho họ, và ông không
bao giờ chịu t́m cách thu phục ḷng dân. Ông dành tất cả cho nhiệm
vụ nguyên thủ quốc gia và tổng tư lệnh quân đội. Ông cầm quyền là do
sự tín nhiệm của quân đội và một thiểu số nông dân ngoan ngoản hơn
là của những nhân vật thích cải vă và ham tranh luận thuộc các đăng
phái chánh trị, các tôn giáo, các phe phái, các học phái, báo chí,
và các phần tử hay múa rối thường xem quyền lợi cá nhơn nặng hơn
quyền lợi của Tổ Quốc. Ông tận tâm trong nhiệm vụ chống cộng ǵn giữ
đất nước do đó ông có được một sự tŕu mến của quân đội và ḷng mến
mộ của nông dân nhất là trước nguy cơ xâm chiếm của Bắc Việt trong
thời gian gần đây, cọng với một vài sự nhượng bộ cho một vài người
nầy người khác... tất cả đều giúp ông đắc cử Tổng Thống trong một
cuộc bầu cử tương đối ngay thẳng có thể so sánh được với những cuộc
bầu cử ở Hoa Kỳ, Pháp và một vài nước khác, nơi mà những cuộc tranh
chấp quyền hành thường xảy ra nhiều cải vă lôi thôi. Ông luôn luôn
không muốn tỏ ra độc tài. Cũng là một điều dễ hiểu v́ ông đă không
gặp khó khăn ǵ nhiều trong nhiệm vụ đa dạng của ông, lẽ ra phải cần
có sự trợ giúp của nhiều người, nhưng lần lần rồi người ta cũng thấy
được tầm cỡ của ông trong cương vị lănh đạo quốc gia, đối ngoại th́
cũng "nặng kư", đối nội th́ nền dân chủ vẫn được duy tŕ tuy đôi lúc
cũng có bị lạm dụng, để rồi cuối cùng đó là một trong những lư do để
ông phải từ chức ra đi, kéo theo luôn "sự diệt vong" của quốc gia
ông.
Người ta đă không tiếc lời cảnh cáo và khuyên nhủ ông, cũng như đă
vạch rơ cho ông thấy những nguy hiểm mà ông phải đương đầu trong sứ
mạng mà ông đang theo đuổi. Với một tính bộc trực đáng nể, ông ngoan
cường tự cho ḿnh là người của dân chúng và đại diện cho quân đội,
lực lượng duy nhất và hoàn toàn trung thành với đất nước, kiên quyết
ǵn giữ non sông, chống bọn cộng sản đang tấn công ông bằng đủ mọi
phương cách, chống bọn người chủ trương trung lập v́ họ chỉ biết đi
từ nhượng bộ nầy đến nhượng bộ khác để cuối cùng là sẽ phải nhượng
hết cho cộng sản.
PHẢI HẠ BỆ CHO BẰNG ĐƯỢC THẦN TƯỢNG NẦY
Ông Thiệu là biểu hiệu tượng trưng cho tinh thần chống giữ nước
VNCH. Ông là biểu tượng chẳng những cộng sản mà những người phản
chiến hay "quyền lợi chũ nghĩa" trên thế giới nầy, ai cũng đ̣i hỏi
phải hạ bệ ông, v́ họ đều cho ông là một chướng ngại lớn ngăn chận
nền "ḥa b́nh".
Việc phải đến đă đến: chỉ vài ngày sau khi Thiệu từ chức th́ "ḥa
b́nh" đă trở lại cho quốc gia VN, đúng như người ta mong muốn. Nhưng
là một nền "ḥa b́nh" thế nào ấy !!!
Cá nhơn từ chối không muốn độc tài, đó là điều đáng tiếc, c̣n hơn là
cả nước phải chấp nhận một sự việc độc tài: Nhơn danh Quốc Hội, Ông
Huyền, đương kiêm chủ tịch thượng viện, một nhân vật liêm khiết và
đạo đức cao, đă thỏa hiệp như vậy; các đăng phái th́ bất lực và có
lẽ phải t́m cách giảm số lượng xuống c̣n khoản 49..th́ vừa; giới báo
chí th́ sống nhờ vào việc bán chợ đen giấy trắng thặng dư c̣n nhàn
hơn là in báo bán; sinh viên là những người trẻ tuổi duy nhất không
tham chiến, có lẽ họ đang hổ thẹn thầm trong khi những người khác
cùng lứa tuổi như ḿnh th́ phải vào quân đội để chiến đấu với kẻ thù
cộng sản ...; tóm lại trong lúc quốc gia đang cần một sự liêm khiết
ngay thẳng th́ đâu đâu cũng gặp toàn là những hành động chỉ trích,
chống đối...v́ nền dân chủ được chơi theo lối Mỹ; và tất cả những
thứ bọt bèo chánh trị nầy chỉ có nhân danh cá nhơn và quyền lợi
riêng tư để cấu kết với cộng sản đ̣i Thiệu phải từ chức và ra đi. Vă
lại Thiệu cũng dư biết rằng dù là nhượng bộ tất cả hay là nhượng bộ
cho "thành phần thứ ba" (thành phần chỉ muốn nghiên về phía cộng
sản) để từ chức và ra đi, thật ra là một sự đầu hàng. Cuối cùng cá
nhơn Thiệu bị tấn công kể cả tấn công vào ngay dinh Độc Lập. Và để
bảo vệ Chánh Phủ đồng thời nắm chắc trong tay lực lượng trừ bị cuối
cùng, sẳn sàng chống đở sườn tây của Sài G̣n lúc nầy đang bị uy hiếp
mạnh, Thiệu phải gọi 2 sư đoàn tinh nhuệ từ Vùng 1 về, hai sư đoàn
nầy đang là lực lượng ngăn chặn địch quân tại Hué để cho các đơn vị
thuộc Quân Khu 1 rút lần về phía Nam, do đó mà Vùng 1 phải bị rơi
vào tay Bắc Việt ngay sau đó.
Thiệu từ chức và ra đi. Sự ra đi nầy kéo theo sự tan ră của những
đơn vị cuối cùng của QLVNCH và vài ngày sau đó là sự bức tử của quốc
gia ông. Ông ta có thể ở lại chăng ? Có thể lắm chớ . Không phải cái
sợ chết làm cho ông đắn đo, mà là những nguy cơ khác. Nhưng mà cũng
cái sợ chết nầy nó làm cho tất cả đầu óc của mọi người đều như bị tê
liệt, không c̣n thấy được hay đón nhận được những giải pháp có thể
cứu nguy cho quốc gia sấp bại vong nầy.
Thiệu chắc cũng đă hiểu và nếu cần phải hy sinh bản thân để cứu được
quốc gia th́ Thiệu cũng đă chấp nhận những giải pháp đó từ lâu rồi.
Thiệu ra đi và tất cả mọi việc coi như đă giải quyết xong. Và điều
ǵ sẽ xảy ra cho cái nền dân chủ ung thối nầy ? Chắc chắn trong
những ngày c̣n lại của cuộc đời ông, sự ung thối nầy vẫn c̣n tiếp
tục thôi....
CŨNG GIỐNG NHƯ "HIỆN TƯỢNG BYSANCE" VẬY
Vị Phó Tổng Thống VNCH trở thành Tổng Thống như Hiến Pháp đă quy
định. Đó là ông Trần văn Hương, một người dũng cảm, một giáo sư già
liêm khiết được chọn đứng cùng liên danh ứng cữ với Thiệu. Ông ta ấp
úng :"Tôi không biết dùng điện thoại, Tôi không biết gọi mấy vị Tổng
Trưởng của tôi thế nào. Tôi không biết đối đáp với người ngoại quốc
ra làm sao. Tôi thấy những giải pháp tŕnh lên cho tôi cũng tốt, có
thể cứu chúng ta được đó, tôi đồng ư. Nhưng để cho tôi suy nghỉ lại
đă. Sau đó tôi sẽ nói "Thuận" thôi, và mọi việc sẽ được tiến hành.
Nhưng mà người ta có cho tôi trở lại với cái ngành Giáo Dục thân yêu
của tôi không đây ?"
Cũng giống như ở Bysance người ta bỏ công ngồi rỗi bàn cải với nhau
một cách vô ích nhưng rất là sôi nổi xem các đấng thiên thần thuộc
giống đực hay giống cái, th́ ở đây tại Sài G̣n cũng vậy: trong giờ
phút mà các đơn vị cuối cùng đang sống chết anh dũng với quân Bắc
Việt trên mặt trận Xuân Lộc và Biên Ḥa,th́ người ta cũng đang sôi
nổi tranh luận, cải lư với nhau về Hiến Pháp, để t́m xem có cách nào
trao quyền lảnh đạo cho tướng Dương văn Minh một cách hợp hiến hay
không, v́ tướng Minh cam kết là "với một số điều kiện nào đó, ông sẽ
đạt được một thỏa hiệp với kẻ địch, ít nhứt cũng giữ được cho Miền
Nam Việt Nam một thể chế tự trị và tự do nào đó, và như vậy có thể
mua thêm được một ít thời gian". Nhưng rồi người ta lại để ba ngày
trôi qua. Sau đó người ta mới họp nhau lại tại quốc hội, có cả
thương viện và hạ viện. Ông Hương đọc một bài diễn văn làm cho cả
mọi người cảm động đến phải khóc! Và mười tám vị nối tiếp nhau lên
diễn đàn, suốt mười tiếng đồng hồ liên tục, chỉ để lập đi lập lại
những lượng giá về t́nh h́nh của các nhóm đăng phái đă nói, để rồi
cuối cùng 18 ông diễn giả nầy đều có một kết luận là bất cứ với giá
nào ta cũng không thể đầu hàng vô điều kiện. Sau đó người ta trao
quyền lảnh đạo quốc gia lại cho tướng Dương văn Minh rồi người ta tự
động giải tán.
Có nghĩa là ngay chiều hôm đó, trừ một vài người có can đăm và vài
người vô ư thức c̣n ở lại, c̣n th́ cả hạ viện lẫn thượng viện đều
lên máy bay, ra đi, bỏ mặc dân tộc và quê hương của họ ở lại, có ra
sao th́ ra !!!!!
T́nh h́nh càng ngày càng xấu đi: về mặt quân sự coi như đă mất hết
rồi. Tướng Minh loay quay chỉ lập được một nội các vá víu gọi là
"nội các cứu quốc" để thương thuyết với địch nhưng họ từ chối không
chịu bàn cải. Bây giờ th́ chỉ c̣n một cách duy nhất là kêu gọi binh
sỉ các cấp hảy ngừng chiến đấu - v́ có tiếp tục chiến đấu nữa cũng
vô ích thôi-, và giao quyền lại cho kẻ xăm lăng. Nhưng quân Bắc Việt
xăm lăng từ chối thẳng thừng:
"Quư vị c̣n có quyền ǵ nữa đâu mà bàn với giao!"
Thật là một bài học quá thấm thía ! Bài học nầy có nhiều điểm làm
cho người Pháp chúng ta nhớ lại những ǵ mà chúng ta đă "sống" trong
thời kỳ 1940, chỉ có hơn được VNCH là lănh thổ rộng lớn của nước
Pháp c̣n cho phép chúng ta kéo dài thêm được một thời gian gọi là
"gần như tự trị" trước khi bị đánh gục .
Tuy nhiên bài học năm 40 chẳng có lợi ích ǵ, v́ cũng cái chính thể
vô trách nhiệm chỉ biết lo cho cái ghế chánh quyền đó lại được đưa
ra cầm quyền. Cầu mong cho ngày mai nầy nước Pháp chúng ta không bị
suy sụp tinh thần khi sấp sửa gặp nguy cơ và khi đồng minh sấp buông
bỏ chúng ta!!!
Thượng Đế đă trừng phạt Miền Nam Việt Nam nhưng xin hăy buông tha
cho nước Pháp chúng tôi!!!
SỰ TAN RĂ CỦA Q.L.V.N.C.H
Quân Lực VNCH cũng bị phản bội!
- Phản bội từ phía những kẻ đă từng cam kết bảo đăm một sự viện trợ
chiến cụ và đạn dược. V́ không có đạn dược nên quân đội bị bắt buộc
phải buông súng xuống, có tiếp tục cũng vô ích mà thôi.
- Phản bội từ phía địch đă bội tín, chẳng những vi phạm những hiệp
ước đă kư kết mà c̣n lợi dụng hiệp ước đó để tăng cường quân đội về
nhân lực cũng như về chiến cụ vũ khí tối tân, hơn hẳn Miền Nam gấp
bội.
- Phản bội phải nói là từ phía chánh quyền quá yếu không biết buộc
quân đội phải có một kỷ luật sắt tối cần, cũng như không biết dắt
dẫn dân chúng phải biết đóng góp nỗ lực cần thiết cho cuộc chiến.
- Phản bội từ phía dân chúng v́ họ chỉ biết lo vui chơi và chạy theo
quyền lợi riêng tư cá biệt, người đại diện th́ nêu gương tham nhũng,
thứ dân th́ thờ ơ không cần biết, không cần lo âu ǵ về nhu cầu của
cuộc chiến, và không năng nỗ góp công góp sức vào công cuộc chống
giặc mà đất nước đang đ̣i hỏi, dĩ nhiên cuộc chiến quá dài quá lâu
cũng có khiến cho ḷng dân uễ oăi.
- Phản bội từ giới trí thức rỡm hay lắm lời tranh cải vô bổ hơn là
tận t́nh lo cho đất nước, làm mất tinh thần quân đội bằng luận điệu
phản chiến, và rêu rao khẳng định là cần phải thỏa hiệp với địch hơn
là tiếp tục chiến đấu.
- Phản bội từ phía dân chúng không chịu nhất tề đứng dậy chiến đấu
chống giặc giữ nước mà chỉ lo di tản, chạy dài trước địch quân một
cách hỗn loạn gây thêm hoang mang hoảng hốt cho các đơn vị vốn dĩ
cũng đang bị mất tinh thần.
Ngoài một số cấp chỉ huy có kinh nghiệm lâu năm trong chiến đấu, có
đầy đủ khả năng và tư cách, và một số quân nhân có thiện chí, ngoài
một số hành động dũng cảm của một vài đơn vị và phần đông các chiến
sĩ, chúng ta cũng phải nói đến những phần tử vô kỷ luật, hèn nhát,
hồ đồ hay hổn tạp đă làm cho quân đội suy yếu hẳn đi. Chúng ta hảy
xem trường hợp tương tự đă xảy ra khi mà địch quân vừa bắt đầu tấn
công, mặc dầu biết rơ là địch trước sau ǵ cũng phải xuất hiện v́
những người có trách nhiệm đang c̣n chờ họ đây, thế mà v́ địch xuất
hiện đúng vào lúc tương quan lực lượng được đánh giá là quá chênh
lệch, địch hơn hẳn ta cả về chiến cụ lẫn tinh thần, tự nhiên quân
đội bị tán loạn và tự ḿnh làm tan ră hàng ngủ.
Người Mỹ đă bỏ rơi QLVNCH thật, nhưng chúng ta cũng rất ngạc nhiên
mà thấy họ thốt lên rằng: "Ít nhất họ cũng phải giữ được Đà Năng, v́
Đà Năng cũng đâu có khó pḥng thủ đâu. Họ cũng không thể bỏ Cam Ranh
v́ Cam Ranh có tầm chiến lược quá quan trọng trong vùng Đông Nam Á.
Họ đă bỏ lại quá nhiều súng ống đạn dược mà chúng tôi đă cung cấp
cho họ, họ đă bỏ lại tất cả hệ thống hạ tầng kiến thiết mà chúng tôi
đă từng hảnh diện và đă phải đổ vào đó hàng tỷ đồng. Lẻ ra họ phải
giữ được thêm một thời gian nữa cho chúng tôi có đủ th́ giờ di tản
êm thắm những người mà chúng tôi đă thuê mướn!"
Người Mỹ thật là quá khả ố. Họ đă phản bội rồi mà c̣n nghĩ là họ có
quyền đ̣i hỏi người Việt Nam phải biết ơn họ, phải nhớ đến những sự
hy sinh của họ...trong khi họ bỏ rơi QLV NCH và cố t́nh giao Miền
Nam VN cho cộng sản .....Phải chăng sự tan ră của một quân đội như
vậy là không tiền khoáng hậu ?
Không cần chi phải lật lại cho nhiều trang sử, những sự kiện mới đây
đă nhắc cho người Pháp chúng ta trận La Marne, một trận chiến mà sau
một cuộc lui quân trong hổn loạn, nhờ sự lanh trí của cấp chỉ huy và
ḷng can đăm của binh sĩ, và cũng nhờ một sai lầm của địch mà quân
đội Pháp đă chiếm lại được những ǵ bị mất trước đó. Có cần phải
nhắc lại cho người Pháp chúng ta cái nhục của năm 40 ? và tại sao
chỉ trong ṿng 60 ngày mà tất cả quân đội Pháp chúng ta phải chịu
đầu hàng và nước Pháp chúng ta phải chịu sống dưới đế giày của bọn
Đức quốc xă ? Gần đây nhất, làm sao chúng ta quên được trận rút quân
ra khỏi Lạng Sơn năm 1950 sau tổn hại nặng ở Cao Bằng. Tuy cũng có
vài đơn vị đă chiến đấu thật anh dũng, c̣n th́ tất cả đều tự động
rút quân hết, dọc theo tỉnh lộ 4, mặc dầu không có địch, chưa có
giao tranh, và cũng chưa có lệnh ǵ cả. Làm sao chúng ta quên được
nổi hốt hoảng lo sợ của quân đội Pháp chúng ta trên khắp miền trung
châu Bắc Việt lúc đó? ngay tại Hà Nội kiều dân Pháp bán đi các cửa
tiệm, các khách sạn và các hiệu ăn với một giá rẽ mạt, vị tướng lảnh
chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Việt đă dự trù một cuộc tháo chạy về
Miền Nam và đang sắp sửa di tản hết quân đội L.H.P. ra khỏi Bắc
Việt...thế nhưng rất may là tướng De Lattre De Tassigny đă tới vừa
kịp lúc. Nếu không......
Phải chăng chúng ta cần nhắc cho người Mỹ vốn hay mau quên rằng năm
1951 làm thế nào mà 16 sư đoàn Trung Cộng tại sông Yalu đă chiếm và
quét sạch toàn bộ đoàn quân viễn chinh Hoa Kỳ ở Nam Hàn xuống đến
tận cùng của bán đảo Triều Tiên, gây cho quân đội đồng minh thiệt
hại nặng nề và một cuộc bại trận đau thương chưa từng có, mà sau đó
chỉ có nhờ một cuộc hành quân quy mô từ bên ngoài vào mới thay đổi
được t́nh thế .... Cũng giống như nước Pháp sau chiến bại chua cay
năm 1940, th́ chỉ có nhờ lực lượng đồng minh bốn năm sau đó, từ bên
ngoài can thiệp vào mới cứu văn được những ǵ mà chúng ta gọi là lỗi
lầm tai hại năm xưa.
Tất cả những kỷ niệm nói trên không phải được nhắc lại để bào chữa
hay đổ tội, nhưng chúng ta cũng nên đánh giá lại cho đứng đắn quân
đội Miền Nam Việt Nam; sự tan ră của QLVNCH làm cho những ai đă từng
biết qua thành tích hào hùng của họ trong quá khứ đều hết sức ngạc
nhiên đến sửng sờ, làm cho cả dân chúng Miền Nam Việt Nam phải kinh
hoàng, và ngay như quân xăn lăng Bắc Việt là kẽ đă chiến thắng rồi
mà cũng vẫn ngờ ngợ chưa chịu tin đó là sự thật.
MỘT QUÂN ĐỘI DO PHÁP THÀNH LẬP... VÀ ĐƯỢC MỸ HÓA SAU ĐÓ
Tướng De Lattre de Tassigny cho thành lập QLVNCH vào mùa xuân năm
1951, khi ông hiểu rằng trong một cuộc "chiến tranh cách mạng" kiểu
cộng sản, một đạo quân ngoại quốc dù có nỗ lực cách mấy cũng không
thể thành công được, nếu không có sự trợ chiến của một quân lực
người địa phương, v́ chính người dân địa phương mới ư thức được
nhiệm vụ giữ đất nước của họ và họ phải chiến đấu để tránh hiểm họa
cộng sản cho chính họ và cho Tổ Quốc của họ.
Quân lực Việt Nam đầu tiên được thành lập thật nhanh chóng, đạt quá
mau một mức quân số hùng hậu, đó là một bằng chứng hùng hồn nhất để
nói cho người cộng sản biết rằng Bắc Việt không phải chống giặc xăm
lăng ngoại quốc như họ đă từng tuyên truyền, mà thực sự họ đang
chống một quân đội được thành lập từ con dân của đất nước Việt Nam
của họ.
Bên cạnh lực lượng của Liên Hiệp Pháp, Quân đội Viêt Nam dù vừa được
thành lập nhưng đă chiến đấu rất anh dũng, chứng tỏ khả năng trưởng
thành của ḿnh. Và vào năm 1955 lúc quân đội Pháp rời khỏi Đông
Dương, nếu lực lượng nầy không được hùng mạnh như một quân đội cao
tuổi đời hơn ḿnh thật, nhưng cũng là một quân lực có giá trị chiến
đấu cao, khả dĩ có thể đương đầu rất hữu hiệu với quân cộng sản lúc
nầy vừa mới vào chiếm đóng lănh thổ Miền Bắc Việt Nam như Hiệp Ước
Genève đă quy định.
Sau đó người Mỹ thay chân cho người Pháp, tạo ra một không khí bài
Pháp khắp Miền Nam Việt Nam . Người ta cho duyệt lại tất cả những ǵ
c̣n chịu ảnh hưởng của người Pháp, người ta cho hạ xuống không
thương tiếc đài chiến sĩ trận vong ở Sài G̣n, trên đó có hai chiến
binh Pháp Việt thể hiện t́nh huynh đệ chi binh thật thắm thiết và
đậm đà. Người ta đốt hết "lon" kiểu Pháp, thay vào một loại cấp bậc
và huy hiệu theo kiểu của quân đội Mỹ: theo Mỹ là một cái kiểu cách
(mode) của thời đại lúc bấy giờ.
Làn sóng bài Pháp nầy nổi lên là do thất bại trong chánh sách của
người Pháp chúng ta đă nhường cho cộng sản một nữa nước Việt Nam
phía Bắc, tuy nhiên cao trào nầy lên nhanh th́ cũng xẹp xuống cũng
nhanh, người ta rồi cũng tỉnh ngộ lại.
Nhưng dầu sao th́ người dân Miền Nam Việt Nam cũng đă phải chịu
Mỹ-hóa rồi. Người ta loại những cấp chỉ huy và những ai c̣n có "hơi
hướng" nguồn gốc Pháp, và huấn luyện lại các cấp quân nhân theo lối
Mỹ, người ta gởi họ đến các trường quân sự của Hoa Kỳ, công tác tiếp
vận cũng được tổ chức lại theo quan điểm và cung cách Hoa Kỳ: quân
đội phải răm rấp tuân thủ thôi.
Nhờ có một khả năng tiếp thu nhanh và một trí nhớ đặc biệt của người
Việt Nam nên quân đội và chánh phủ đều dùng tiếng Anh. Tiếp sau đó
th́ các giới buôn bán, nhơn viên ngân hàng, các hiệu ăn, các quán
giải trí b́nh dân, các tiệm bán hàng mỹ nghệ, các trung tâm giao
dịch v.v...trật trúng ǵ họ cũng líu lo dăm ba tiếng Mỹ, rất cần
thiết để tiếp cận và kiếm được tiền từ tay các "ông hoàng của thời
đại".
Nhưng giới thượng lưu trí thức th́ vẫn tiếp tục dùng tiếng Pháp, v́
tiếng Pháp là ngôn ngữ được thông dụng trong chương tŕnh giáo dục
tại Miền Nam Việt Nam từ xa xưa lâu rồi, và người ta cũng c̣n quen
dùng các món ăn ngon nấu nướng theo lối Pháp. Cứ như thế là người ta
quay trở lại nếp sinh hoạt cũ rất nhanh. Có người đă nghiên cứu và
nói về cú pháp của ngôn ngữ Việt Nam : người ta có nhận xét là cú
pháp có thay đổi theo ch́u hướng hợp lư như ngữ vựng của Pháp vậy.
Do đó mà bài toán được đặt ra là liệu giới trẻ với một cấu trúc năo
bộ đă tiêm nhiễm một nền học vấn Việt Pháp từ lâu có bị một chấn
động tư tưởng nào không, khi người ta bắt họ phải theo một nền văn
hóa nhật-nhĩ-măn (anglo saxon). Việc bài Pháp nầy không đi xa hơn
nữa được, và đại sứ Hoa Kỳ đă nói với người Pháp rằng:
"Chúng tôi không có đủ giáo viên để đưa vào thay thế cho các giáo
viên của các ông, chúng tôi chẳng thấy có lợi ích ǵ để phải chống
lại người Pháp các ông, mà có chống cũng không đi đến đâu, dần dà
rồi đâu cũng vào đó thôi."
Có nhiều tướng lănh chống lại sự việc phải thuyết tŕnh t́nh h́nh
bằng tiếng Anh, và việc nầy đă có gây tai tiếng không tốt. Các vị cố
vấn quân sự Mỹ bên cạnh những đơn vị VN phải cố gắng "chạy theo" tập
tục Việt Nam để cho các đơn vị trưởng chấp nhận ư kiến của họ thường
khuyên bảo.
Người ta nhớ lại là trong chiến dịch đập phá bài Pháp lúc bấy giờ,
người ta đă bỏ sót một tượng đài kỷ niệm nhỏ hết sức cũ kỹ, gần sân
bay Tân sơn Nhứt, do có người tốt bụng cất dấu lại v́ không nở phá
đi. Trên bia kỹ niệm có ghi lại những thành tích dũng cảm của những
chuyến bay liên lạc giữa Sài G̣n và Paris trong đệ nhất thế chiến,
trên một mặt bia có khắc bằng chữ quốc ngữ, mặt bên kia bằng tiếng
Pháp, ghi lại một đoạn thơ của đại uư Thụy, một anh hùng phi công
của không quân Pháp bị bắn rơi trong trận thế chiến 1914-1918. Thơ
nói rằng:
-"Bởi v́ tôi là một người dân AnNam (danh từ khi xưa chỉ cho Việt
Nam bây giờ) và bởi v́ tôi cũng là công dân Pháp, nên tôi phải có
bổn phận hai lần phục vụ cho Tổ Quốc tôi". (nguyên văn)
Khi những người lính Mỹ đầu tiên thuộc Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến
Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng để tiếp viện cho Miền Nam VN đang bị cộng sản
tấn công mạnh, họ được các cô nữ sinh rất đẹp đón tiếp và choàng
ṿng hoa tươi vào cổ, theo như kiểu cách ở quần đăo Polynésie vậy.
Sau đó các đơn vị Mỹ tiếp tục đến Miền Nam Việt Nam , đồng đô-la
cũng ào ào đi theo với họ. Từ đó quân đội Việt Nam được tổ chức theo
lối Mỹ, một lối tổ chức hoàn toàn theo quân đội chánh quy, không
thích hợp để xử dụng trong một cuộc "chiến tranh cách mạng" mà để xử
dụng trong một cuộc chiến tranh quy ước. Quân Lực VNCH lúc bấy giờ
mang một bộ mặt của một anh bà con nghèo lúc phải ngữa tay xin từng
chiến cụ, từng cây súng từng viên đạn. Dưới tầm nh́n và theo dư luận
của dân chúng Việt Nam, của người ngoại quốc nhứt là người Mỹ cũng
như của các nhà báo, th́ thật là một điều phí phạm khi để cho những
anh "lính nhà quê ngây ngô" nầy xử dụng các chiến cụ hạng sang như
vậy, các thứ mà chỉ có những "quân nhân nhà nghề" giàu có mới là
người được sờ tới...Tuy nhiên rồi mọi việc cũng đều vui vẻ hết thôi,
v́ đồng đô la được tuôn ra quá nhiều. Dĩ nhiên cũng có một vài phút
căng thẳng nhưng cũng kín đáo được người ta khéo léo dàn xếp cho
qua... Cho đến măi về sau nầy, đến giai đoạn Hoa Kỳ cho
"việt-nam-hóa" cuộc chiến và rút quân rời khỏi Việt Nam th́ tinh
thần quân đội Miền Nam mới thấy được thơ thới thoăi mái hơn mà thôi.
VIỆT-NAM-HÓA CHIẾN TRANH
Việt-Nam-Hóa ! Danh từ nầy tuy được người Mỹ dùng nhưng phía Chánh
Phủ Việt Nam Cộng Ḥa không chấp nhận, v́ danh từ nầy ngụ ư nói rằng
cho đến giờ nầy QLV NCH không có tham chiến. Việt-Nam-Hóa không phải
chỉ có việc cung cấp chiến cụ cho Hải Lục Không quân của VNCH, mà
c̣n phải cung cấp quân dụng, vũ khí đạn dược để trang bị cho khoảng
12 sư đoàn bộ binh. Con số nầy đă được Ngủ Giác Đài và Bộ Quốc Pḥng
ước định cho là vừa đủ trong công tác pḥng thủ lănh thổ VNCH mà
thôi, không tính đến số lượng phải cung ứng thêm cho chiến trường
bên Lào và Cam Bốt, cũng không kể đến việc QLVNCH liều lĩnh tấn công
ra Miền Bắc, điều mà Hoa Kỳ không bao giờ chấp nhận mặc dầu các
tướng lănh của họ thường khuyến cáo như vậy.
Sự việc Hoa Kỳ có được cơ hội để rút chân ra khỏi bải lầy nguy hiểm
nầy bằng cách cho Việt-Nam-Hóa chiến tranh để đưa quân về nước, thực
ra đă giúp cho người Việt Nam lần đầu tiên có được một nền độc lập
thật sự, hoàn toàn tự chủ trong trách nhiệm của ḿnh, mặc dầu c̣n
phải lệ thuộc vào một sự viện trợ "không có không được" của ngoại
quốc. Cuối cùng rồi Quân Lực của Miền Nam Việt Nam lần đầu tiên được
hoàn toàn tự do gánh lấy trách nhiệm của quốc gia ḿnh, mà chính yếu
là pḥng thủ lảnh thổ của đất nước ḿnh.
Chỉ trong ṿng vài tháng thôi, mọi việc đều thay đổi hẳn, từ dân
chúng đến chánh phủ rồi trong quân đội. Mặc dầu bị bắt buộc phải đưa
quân trám vào những khoảng trống quá rộng do 500.000 quân Mỹ và đồng
minh TháiLan, Đại Hàn, Úc Đại Lợi, và một vài đơn vị của một vài
quốc gia khác rút đi, nhưng QLVNCH rất vui vẻ được làm chủ vận mạng
của ḿnh. Các quân binh chủng lần lượt được nhận một số trang bị tối
tân, - tuy cũng có một vài đơn vị nhận có hơi chậm - dù c̣n xa mới
sánh kịp với quân dụng của quân đội Hoa Kỳ, nhưng như thế quân đội
cũng tương đối có đủ phương tiện để có thể làm tṛn sứ mạng của ḿnh
đối với đất nước.
Cây dù không quân chiến lược của Hoa Kỳ vẫn c̣n tiếp tục được duy
tŕ thêm một thời gian nữa, và Không Lực của Miền Nam vốn có nhiều
trực thăng loại chuyên chở cộng với những phi cơ phản lực có tốc độ
nhanh, cũng cảm thấy có một niềm hảnh diện cho quân chủng của ḿnh.
Hải Quân của Miền Nam nhận được khá nhiều tàu chiến tuy thuộc loại
cũ nhưng cũng đủ để làm tṛn nhiệm vụ tuần duyên hoặc an ninh trên
sông rạch. Vấn đề tu bổ các loại chiến cụ nầy cũng là một bài toán
cho QLVNCH . Các tướng lảnh Hoa Kỳ có nhiệm vụ trao quân chiến cụ
cho VNCH đă theo dỏi sát công tác tu bổ các loại chiến cụ nói trên,
đều không tiếc lời khen ngợi về kỹ thuật của các công xưởng và các
trung tâm sửa chữa, cũng như sự khéo tay của các quân nhân trong đơn
vị.
Người lính VNCH th́ ở đâu cũng hảnh diện trong bộ quân phục chỉnh
tề, tươm tất và duyên dáng của ḿnh, giày luôn luôn được đánh bóng.
Các loại chiến cụ nặng cũng thế thôi, từ chiếc xe thiết giáp, xe vận
tải, khẩu pháo binh đến chiếc tàu chiến của Hải Quân hay chiến đấu
cơ của Không Quân..tất cả đều được săn sóc và bảo tŕ đúng mức, cho
nên dù là quân cụ thuộc loại cũ nhưng vào tay của QLVNCH th́ xem như
c̣n mới nguyên, làm cho tất cả quan khách viếng thăm đều hết sức
ngạc nhiên và ca tụng.
Về hành chánh th́ QLVNCH được Tổng Tham Mưu Trưởng quản trị. Về nhân
sự và chiến thuật th́ vị lănh đạo quốc gia đích thân trách nhiệm, có
một phụ tá là một tướng lănh phụ trách tập trung mọi tin tức và thảo
kế họach.
LẦN THỬ LỬA ĐẦU TIÊN
Sự thử thách đến ngay sau đó. Kết quả thật là đáng khích lệ và người
ta phải tuyên dương công trạng một quân đội c̣n quá trẻ trung nầy
Năm 1992, phải chăng để ḍ dẫm, Bắc Việt đă tung ra một cuộc tổng
tấn công được coi là có tính toán rất kỹ lưỡng về mặt chiến lược.
Cũng rất là quan trọng, v́ lần đầu tiên họ dùng chiến xa của Nga Sô.
Bất chấp hiệp ước Genève và không cần biết đến vùng phi quân sự giữa
hai miền Nam Việt và Bắc Việt, mủi dùi tấn công của Bắc Việt đánh
thẳng từ phía Bắc xuống Nam, cuộc tấn công nầy đă gặp một sức kháng
cự quyết liệt. Một mủi tấn công khác từ biên giới Cam Bốt đánh qua
phía KonTum Pleiku, làm cho tất cả các tiền đồn đều bị nhổ sạch, áp
lực đè nặng Vùng nầy đến độ phải đưa sư đoàn bộ binh từ Banméthuột
lên để tiếp viện. Từng đợt liên tiếp, hai cuộc tấn công nầy càng
ngày càng mạnh hẳn lên trên cả hai mặt trận. Gộng kềm đang siết dần
chung quanh thị trấn KonTum. Ở mặt trận phía bắc, Bộ Chỉ Huy địa
phương thành lập từng bộ phận lưu động nhỏ để cho dễ điều động,
nhưng cũng v́ thế mà trở thành khó chỉ huy và hậu quả là tuyến pḥng
thủ bị vỡ. Thành phố Quăng Trị thất thủ ngay sau đó, và các đơn vị
tranh nhau chạy về Hué.
Trung Tướng Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn IV và Vùng 4 Chiến Thuật (Miền
Tây) được gởi ngay ra Hué với nhiệm vụ là tái lập trật tự tại đây.
Hai Sư Đoàn tổng trừ bị, sư đoàn dù và sư đoàn thủy quân lục chiến
đến giờ nầy vẫn c̣n tại Sài G̣n, được đặt dưới quyền xử dụng của
tướng Trưởng. Một sư đoàn bộ binh khác từ Vùng 4 đồng bằng sông Cữu
Long (sư đoàn 21 bộ binh) đang được đặt trong t́nh trạng báo động,
dự trù sẽ được bốc luôn ra Hué, th́ bất th́nh ĺnh địch quân tấn
công vào An Lộc, bao vây thị trấn nầy, đe dọa Sài G̣n vốn chỉ cách
đó trên dưới 100 cây số. T́nh h́nh lúc bấy giờ hết sức căng thẳng,
và nếu trể nữa giờ nữa th́ không c̣n kịp cho ngưng chuyến đi ra Hué
của sư đoàn bộ binh nói trên để chuyển hướng cho sư đoàn nầy đi
thẳng lên An Lộc nhằm bảo vệ cho thủ đô Sài G̣n. Sự việc xảy ra sau
đó là một điều phi thường. Và đây là một điểm son danh dự dành cho
Quân Lực V NCH và cho các cấp chỉ huy trong quân đội trẻ trung nầy.
Tướng Trưởng phải bỏ bữa cơm trưa tại dinh Tổng Thống để cấp tốc bay
ra ngay nhiệm sở mới, cố đô Hué lúc nầy đang ở trong t́nh trạng hỗn
loạn vô trật tự. Trung tướng Trưởng, 37 tuổi, trước kia là hạ sĩ
quan trong một tiểu đoàn nhảy dù Pháp, là người đă từng hảnh diện
nhận cấp bằng nhảy dù do tướng Gilles kư tại Paris, - lúc bấy giờ là
tướng thanh tra binh chủng nhảy dù của quân đội Pháp -, với một sự
b́nh tỉnh đáng kính phục, không có một trách phạt hay quy lỗi cho
một ai, ông đă văn hồi được trật tự trong hàng ngũ quân sĩ và đặt
lại ngay một hệ thống an ninh pḥng thủ trên sông Mỹ Chánh, sẳn sàng
chờ một loạt tấn công mới của quân Bắc Việt sau khi họ đă chiếm được
một phần đất khá sâu và đang muốn tiến sâu xuống phía Nam khai thác
thành quả chiến thắng vừa đạt được. Ông đă biết lợi dụng được sự già
nua của cán bộ cộng sản Bắc Việt, khai thác được bệnh đa nghi và
nặng về giấy tờ tŕnh báo của họ vốn là những tật xấu cố hữu của bộ
máy cộng sản. Vị Tướng Bắc Việt chỉ huy mặt trận lúc đó thay v́ ngồi
trên xe jeep chạy phon phon như một kẻ thắng trận vào nội thành Hué
th́ ông cho dừng quân lại chờ ông báo cáo chiến thắng và nhận chỉ
thị mới. Hà Nội rất tức giận về việc nầy, ra lệnh sa thải ngay vị
tướng nhác gan và gởi thượng tướng thứ trưởng bộ quốc pḥng vào thay
thế. Khi thượng tướng nầy đến nơi, phải mất một thời gian là 27 ngày
mới nắm được quân t́nh để tiếp tục khai thác chiến quả, một thời
gian quá đủ cho tướng Trưởng kiện toàn xong hệ thống pḥng ngự. Ông
chẳng những đă chận đứng được đợt tấn công của địch mà c̣n phản công
ḍ dẫm ở một vài điểm, làm cho địch quân phải lúng túng và chùng
bước tiến công của họ lại. Ông đă nhận được lệnh phải tiêu diệt 4 sư
đoàn Bắc Việt đang đối diện, bằng 2 sư đoàn tổng trừ bị là sư đoàn
dù và sư đoàn thủy quân lục chiến mà ông hiện có sẳn trong tay.
CHIẾN THẮNG QUẢNG TRỊ
Ông đă làm đúng theo lệnh. Không phải bằng một cuộc phản công đại
quy mô, mà bằng những cuộc tấn kích nho nhơ và liên tục, mỗi ngày
một khác và ở những địa điểm không giống nhau, nhằm mục đích tiêu
hao để rồi tiêu diệt địch. Ông tiếp tục hành quân phản công lấn đất
dần về đến Quăng Trị; sau đó chiếm lại thành phố Quăng Trị, bao vây
cổ thành, và cho dưỡng quân không đánh chờ địch phải đầu hàng, biết
rằng họ sẽ thiếu lương thực và đạn dược.
Và ngày đó đă tới, Ông cho trương cờ VNCH lên cổ thành vừa chiếm lại
được, sau đó nằm lại ở phía nam sông Quăng Trị, dùng con sông và
phần đất phía bắc như là một vùng phi quân sự để tổ chức các tuyến
pḥng ngự, xử dụng trọng pháo tối đa, như lực lượng ngăn chặn chính.
Tổng kết sau khi tái chiếm xong Quăng Trị, QLVNCH đă bắt sống và
tịch thu được một số lớn chiến xa, trọng pháo và vũ khí đủ loại đủ
cỡ, nói lên được rơ ràng đây là một chiến thắng không thể chối cải
đuợc. (Nói thêm là ngay sau chiến thắng nầy tướng Trưởng có được một
cháu trai Ông đặt tên là Trị)
Tại Kontum, với một số dân đông đúc phần lớn là dân tỵ nạn, người ta
chưa nghĩ là thị xă nầy sẽ bị địch vây hảm nên không có ǵ gọi là
pḥng thủ chặt chẻ cả, lại không cần đến cầu không vận mà một đại tá
trẻ tuổi đă dùng trí thông minh tuyệt diệu chọi với 3 sư đoàn quân
Bắc Việt, một chuyện rất hay và hiếm có đă thực sự xảy ra như vậy.
"Nếu ta có thua th́ chỉ có tôi là người duy nhất gánh hết trách
nhiệm, nếu phải xử bắn người trách nhiệm th́ cũng chỉ có một ḿnh
tôi là người duy nhất phải bị xử bắn mà thôi." ông lư luận như vậy
để bác bỏ những đề nghị của một tướng lănh Hoa Kỳ cố vấn của Ông.
Tướng Bắc Việt chỉ huy mặt trận nầy thật ra là một cựu chiến binh
Điện Biên Phủ, tung từng sư đoàn một vào trận chiến từ sư đoàn thứ
nhứt đến sư đoàn thứ ba (xa luân chiến), đến khi bị thiệt hại quá
nặng phải buộc ḷng tung cả 3 sư đoàn cùng lúc th́ cả 3 anh sư
trưởng đều từ chối không chịu đi theo ông ta. Tại mặt trận KonTum,
sơ khởi khi quân Bắc Việt đánh tan các tiền đồn ṿng đai và sau đó
gây được thiệt hại không ít cho sư đoàn bộ binh Việt Nam Cộng Ḥa.
Do đó họ có thu được nhiều quân dụng trong số đó có nhiều máy truyền
tin mà họ cho sửa chữa để dùng lại.
Nhưng các máy truyền tin nầy vẫn c̣n ở một tần số mà Miền Nam đang
xử dụng, do đó mà chuyện lạ đă xảy ra: Anh đại tá trẻ của KonTum
kiểm thính được tất cả mọi lệnh lạc liên quan đến từng giai đoạn,
từng diễn tiến hành quân của phía Bắc Việt, từ đó mà anh bố trí các
bẫy phục kích cho họ vào, hoặc cho họ tấn công vào chỗ không người
để sau đó phản công tiêu diệt họ từ phía sau lưng, tất cả cũng chỉ
với một đại đội thiết giáp xa (10 chiếc chạy xích), mà mỗi khi xuất
trận về phải tận lực sửa chữa mới kịp. Quân Bắc Việt 3 lần dùng
chiến xa tấn công vào, chỉ c̣n cách 100 thước là đến Bộ chỉ huy của
anh đại tá. Nhưng rồi bộ binh địch không theo được các chiến xa nầy
v́ bị quân ta từ phía sau đánh tới, làm cho các chiến xa không c̣n
ai che chở, bị quân ta dùng hỏa tiển T.O.W. (của Mỹ được VN cho ghép
lại thành từng nhóm 6 chiếc một) hạ gần hết, nằm răi rác đầy đường
trong thành phố KonTum hoang tàn.
Thị trấn sau trận nầy bị thiệt hại nặng. Nhưng anh đại tá trẻ th́
nhận được một ngôi sao cấp tướng và sư đoàn của anh đựơc tuyên dương
là một trong những đơn vị xuất sắc của QLVNCH. Giám Mục Seitz, một
vị Giám Mục người Pháp duy nhất tại VN đă ở lại tại thị trấn KonTum
với con chiên của Ông trong suốt thời gian chiến trận. Uy tín của
Ngài rất cao, và Ngài rất là can đăm. Ngài rất vui thích khi có việc
thiện phải làm, và luôn luôn nêu gương tốt cho mọi người. Sau
30/4/75 Ngài đă ở lại KonTum với đồng bào Thượng của Ngài: Ngài là
nước Pháp ! Cộng Sản đă mắng trách Ngài và cuối cùng đă trục xuất
Ngài.
AN LỘC ! TRẬN VERDUN CỦA VIỆT NAM
An Lộc là một quận lỵ nhơ của một tỉnh miền đông Nam Việt. Quân Bắc
Việt đă vây hảm quận lỵ nầy, nả vào đó đủ mọi loại trọng pháo, hỏa
tiễn, và tấn công vào đó nhiều lần.
Sư đoàn 21 bộ binh từ Vùng 4 Chiến Thuật (đồng bằng sông Cữu Long)
lẻ ra được đưa ra Hué cho tướng Ngô quang Trưởng, được hấp tấp thả
xuống một vùng nằm giữa An Lộc và Sài G̣n với nhiệm vụ sơ khởi là
chận địch lúc bấy giờ đang tự do tiến bọc ṿng quanh An Lộc, bao vây
cô lập thị xă nầy cốt không cho trong ngoài liên lạc được với nhau.
Người ta ngăn chận được phần nào ư định của địch nhưng không giải
tỏa được An Lộc, và phải thú thật đây không phải là một chuyện dễ
làm. Tuy nhiên An Lộc vẫn đứng vững. Để so sánh và cũng để thực sự
thấy được giá trị của QLVNCH, chúng ta phải nói rơ là thị xă An Lộc
giống như Điện Biên Phủ, nằm dài trên hai bên suờn đồi của một ḷng
chảo mà vành đai của ḷng chảo nầy địch đă làm chủ. An Lộc không có
nhiều binh sĩ như Điện Biên Phủ nhưng có hai chục ngàn dân, chẳng
những không giúp ích được ǵ mà trái lại c̣n là một gánh nặng cho
quân trú pḥng nữa. Quân số Bắc Việt bao vây An Lộc nhiều hơn quân
số đă bao vây Điện Biên Phủ trước kia; họ cũng tiến hành cuộc tấn
công bằng cách đào chiến hào đi lần vào trung tâm thị trấn, giống
như ở Điện Biên Phủ vậy, tiến đến đâu lấp hầm đến đó. Lực lượng pháo
binh Bắc Việt nhiều hơn lúc ở Điện Biên Phủ, nhưng họ ít pháo vào
trung tâm thị xă mà chỉ dùng súng cối 130 ly và hỏa tiển, nên phố xá
nhà cửa trong thị xă gần như bị các loại nầy phá nát hết.
Quân trú pḥng không có thiết giáp, nhưng Bắc Việt lại dùng loại
chiến xa T.54 của Nga Sô mà Pḥng nh́ VNCH cũng như Hoa Kỳ không rơ
bằng cách nào họ mang được loại chiến xa nặng nầy đến tận cửa An Lộc
được. Nhưng điều bất ngờ là các chiến xa Nga Sô nầy lại được hỏa
tiển TOW của Hoa Kỳ niềm nở đón tiếp, và có một số lớn T.54 bị bắn
cháy hay bị bỏ lại răi rác trong thị xă như là chiến lợi phẩm đặc
biệt của đội quân trú pḥng. Số tử thương tại An Lộc nhiều hơn ở
Điện Biên Phủ. Quân Bắc Việt c̣n tiếp tục bao vây An Lộc, nhưng t́nh
h́nh có vẽ sáng sủa hơn, khi Tổng Thống Thiệu quyết định dùng trực
thăng đáp xuống ngay An Lộc. Cùng đi với Ông c̣n có Tướng Viên, Tổng
Tham Mưu Trưởng, Tướng Minh, Tư Lệnh Vùng 3 Chiến Thuật, và một số
sĩ quan khác, trong số nầy có một tướng lănh ngưởi Pháp muốn hưỡng
một chút thú vị kiêu hảnh là được tham dự vào một trận phục thù cho
Điện Biên Phủ. (Lời người dịch: Đó chính là tác giả quyển sách nhỏ
nầy, Đại Tướng Vanuxem. Ông được quân trú pḥng "anh hùng An Lộc"
tặng cho một lá quốc kỳ VNCH trong chuyến đáp xuống An Lộc nầy, gọi
là để kỹ niệm trận "B́nh Long anh dũng", và sau nầy trước khi qua
đời tại Pháp năm 1982 Ông đă trao lá quốc kỳ nầy lại cho Trung Tướng
Trần văn Trung, Chủ Tịch Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH tại Pháp.) Hai chiếc
trực thăng đáp xuống và cất lên ngay thật nhanh sau khi các vị tướng
lănh vừa nhảy xuống xong th́ các loạt đạn pháo Bắc Việt cũng vừa
tới. Người ta đi thăm Bộ Chỉ Huy Hành Quân, phát sao, gắn "lon",
"huy chương", tuyên dương công trạng khen thưởng các cấp v.v...sau
đó đi thăm và ủy lạo các đơn vị, (binh sĩ các cấp nhảy lên khỏi
chiến hào để hoan hô ầm ỉ vị Tổng Tư Lệnh của họ), thăm và an ủi các
thương bệnh binh, đến tận các xác chiến xa Nga T.54 để sờ các pháo
tháp hay xem cái vỏ thép của loại chiến xa nầy, người ta cũng đi
viếng các nghĩa trang "bất đắc dĩ" nằm trên các vỉa hè đường phố, và
trước một nấm mồ Tướng Thiệu qú xuống cầu nguyện...Người ta cũng có
cầu nguyện như vậy giữa sân của một nhà thờ đă bị đổ nát, chỉ c̣n
trơ lại có một pho tượng lớn của Chúa đang giăng hai tay nhân ái ra
coi như để chúc lành cho phái đoàn. Tổng Thống Thiệu thản nhiên như
không có ǵ xảy ra, quỳ một gối xuống ngay trên vũng bùn, làm dấu
thánh giá, và cầu nguyện...trong khi tất cả đều đứng ngay ngắn,
nghiêm trang... Đâu đây bên b́a rừng gần đó có một vài tiếng nổ của
đạn rốc kết..
Chuyến về của phái đoàn cũng như chuyến đáp xuống. Tất cả quan khách
đều đứng dưới các hố cá nhân, chờ. Khi các trực thăng đáp xuống, tất
cả đều nhảy lên thật nhanh để trực thăng vọt đi ngay, v́ trước đó ai
cũng được báo cho biết là nếu không lên kịp th́ sẽ bị ở lại An Lộc.
Tất cả đều về đến Bộ Chỉ Huy tiền phương của Quân Đoàn III ở Lai
Khê, và đến lúc đó người ta mới thấy là đă bỏ quên lại một người: đó
là Trung Tướng Mỹ, cố vấn QĐ.III. Ông ta không trách cứ ǵ cả, nhưng
ngày hôm sau ông ta đă trở thành "anh hùng An Lộc", một loạt pháo đă
gây tử thương cho ông khi trực thăng của ông vừa đáp xuống.
An Lộc đă trở thành một biểu tượng, đó là một khi quân đội và dân
chúng đă cương quyết một ḷng th́ khẳng định là chận đứng được quân
thù. Đó là tinh thần của trận chiến Verdun của VNCH, một chiến trận
mà V NCH đă làm lễ kỹ niệm thật long trọng để xác nhận ư chí quyết
chiến quyết thắng của quân dân Miền Nam Việt Nam. Tiếc rằng ngày lễ
quốc khánh của VNCH đă trót được chọn là ngày 1/11 rồi, nếu không
th́ người ta nghỉ có lẽ nên chọn ngày mà An Lộc hoàn toàn được giải
tỏa để nói lên biểu tượng Tự Do của quốc gia nầy.
Đó là những sự việc đă xảy ra năm 1972. Lúc đó có ai dám nghỉ được
rằng ba năm sau, vâng chỉ không đầy 3 năm sau thôi, một quân đội đă
từng biểu diễn một pha hết sức ngoạn mục về sức mạnh, về ư chí của
quân nhân các cấp, được ḷng tin cậy hoàn toàn của cấp trên , lại có
thể bị suy sụp đến độ phải tan ră hoàn toàn ?
Vă lại Quân Lực VNCH, với một quân số được Ngũ Giác Đài tính toán
quá sít sao lúc bắt đầu Việt-nam-hóa, nên chỉ có một nhiệm vụ duy
nhất là pḥng ngự để ǵn giữ lănh thổ mà thôi. Sau đó lại bị hao hụt
trầm trọng trong 3 năm liền, trong khi các đơn vị Miền Bắc tiếp tục
được bổ sung đầy đủ, tăng cường cả về lượng cũng như về phẩm, nhất
là quân chiến cụ, so sánh th́ hơn xa quân đội Miền Nam, cho nên nếu
ước tính tương quan lực lượng phải là 4/1, tôi nói lại là bốn trên
một !
Đă được quân đội Pháp thành lập sau đó mới được Hoa Kỳ tái tổ chức
lại, nên dù muốn dù không quân đội Miền Nam cũng vẫn c̣n giữ vài kỹ
niệm về lề lối hay phương thức do quân đội Pháp để lại. Điều nầy đă
đem lại nhiều chuyện không hay cho một vài tướng lănh, tuy nhiên dù
ǵ đi nữa th́ QLVNCH cũng vẫn phải chấp nhận phương thức tác chiến
học được từ quân đội Hoa Kỳ. Do đó, nếu không chấp nhận điều quân mà
chỉ dùng hỏa lực không mà thôi, trong tấn công cũng như trong pḥng
thủ, th́ phương thức nầy bắt buộc phải có phương tiện yểm trợ hùng
mạnh của không quân, thiết giáp, pháo binh và của cả hải quân nữa.
Điều nầy quân đội Hoa Kỳ được trang bị quá đầy đủ, nếu không muốn
nói là quá dư thừa, cho nên từ khi quân đội Mỹ rút đi th́ QLVNCH bị
thiếu mất trầm trọng một hỏa lực yểm trợ mạnh và hữu hiệu. Tổng
Thống Thiệu là một người am tường về chiến lựợc, lại là một nhà
chánh trị thận trọng há đă không đề ra được một phươg thức tiết
kiệm, vừa để dưỡng sức các đơn vị tinh nhuệ vừa tránh hao tốn phí
phạm đạn dược hay sao? Cho nên mỗi người lính chỉ được phát 80 viên
đạn và 1 trái lựu đạn trong một tháng.
Ông quan niệm rằng, trước một kẻ thù như Bắc Việt, và trên một lănh
thổ quá dài và quá hẹp của Miền Nam Việt Nam, ông không có thể điều
quân được. Đă từ lâu, ông nói là chỉ với lực lượng của Miền Nam ông
không thể chống lại được một cuộc tổng tấn công quy mô của Bắc Việt
trên một chiến tuyến quá dài từ Bắc xuống Nam dọc theo biên giới Lào
và Cam Bốt, chỉa mủi dùi thẳng vào Sài G̣n, chỉ c̣n cách đó dưới 100
cây số mà thôi. Ông cũng biết là địch quân tất phải chủ động, nhưng
giờ th́ hệ thống pḥng thủ bị gậm nhấm, quân số các đơn vị bị hao
hụt và tiếp vận th́ quá nghèo nàn nên chắc chắn là không thể chịu
nổi sức tấn công mạnh của địch, và dè dặt hơn trong trường hợp nếu
được bảo đăm là có một sự tiếp viện từ phía đồng minh th́ ông cũng
phải đi đến chỗ phải bỏ bớt một phần lănh thổ để tập trung lực lượng
vào việc cố thủ vùng Sài G̣n và đồng bằng sông Cữu Long. Nếu quân
đội Bắc Việt tiến hành một chiến dịch tấn công theo kiểu gậm nhấm
tiêu hao dành dân lấn đất, th́ cố thủ như vậy cũng có thể thành công
được nhưng Miền Nam Việt Nam sẽ bị một chấn động tâm lư, mất hết
tinh thần và rồi cũng phải thua, mất hết mà thôi. C̣n nếu Miền Bắc
dàn quân đánh mạnh theo chiến tranh quy ước th́ tai họa lớn sẽ xảy
ra, nhanh hơn .
Đă từ lâu, Miền Nam VN không áp dụng phương thức pḥng thủ lưu động,
nên không có khả năng để tiến hành một cuộc rút lui quy mô, một cuộc
hành quân rất khó v́ vừa phải lui quân vừa phải chiến đấu không
ngừng với quân Bắc Việt, vốn lúc nào cũng nhẹ nhàng luồng lách, xâm
nhập, đánh ngang cạnh sườn, bọc hậu, bao vây, sau lưng đánh tới, đe
dọa tuyến pḥng thủ... bắt buộc lực lương nầy phải rút đi càng sớm
càng tốt, (nếu không sẽ bị bao vây và tiêu diệt), lần lần bị gậm
nhấm rồi cuối cùng th́ bị tràn ngập. Những cánh đồng lầy mênh mông
vắng vẽ như sa mạc giúp cho quân Bắc Việt thâm nhập vào sâu trong
Miền Nam Việt Nam quá dễ dàng, và rừng cây bao la rậm rạp làm cho vũ
khí chống chiến xa vốn thuộc loại quá cũ kỹ, mất đi phần nào hữu
hiệu và chính xác. Hơn thế nữa, những hỏa tiễn SAM (địa-không) do
Nga Sô viện trợ đă ngăn chận được khả năng không-yểm từ các phi cơ
có tốc độ chậm, chỉ có những chiến đấu cơ F.5 do Hoa Kỳ trang bị cho
Không Lực VNCH là có thể thỉnh thoảng yểm trợ hỏa lực được cho các
đơn vị bộ binh dưới đất, nếu không th́ các đơn vị nầy phải tự lo
liệu lấy mà thôi. Cuối cùng là những khinh tốc hạm phóng ngư lôi do
Nga Sô viện trợ có thể vô hiệu hóa lực lượng hải quân của Miền Nam
Việt Nam , vốn cũng có khá nhiều tàu chiến nhưng toàn thuộc loại cổ
xưa.
Do đó mà cuộc hành quân triệt thoái của Vùng II Chiến Thuật từ Cao
Nguyên về vùng duyên hải, và cuộc rút quân của Vùng I Chiến Thuật từ
Hué, Đà Nẵng về hướng Nam, đă biến thành một cuộc thua chạy hỗn
loạn, khiến cho không c̣n gom góp lại được một đơn vị nào, không c̣n
chiến cụ vũ khí nào, trong khi Miền Nam đang cần tiết kiệm nhân lực
và trang thiết bị để có thể lo cho tuyến pḥng thủ ở phía Nam. Tuyến
nầy mặc dầu có một số lớn hành động thật anh dũng nhưng rồi cũng vỡ
ra từng mảnh th́ làm sao có được chiến trận ở vùng Sài G̣n được ?
Cho nên đến sáng ngày 30/4 là coi như tất cả đều mất hết rồi ! Tướng
Dương văn Minh, người đă nhận chức vụ Tổng Thống VNCH đă kêu gọi
binh sĩ hảy chấm dứt cuộc chiến mà từ nay đă trở thành vô vọng và vô
nghĩa. Sau một vài hành động trong thất vọng và một vài trận "tử thủ
kiểu Camerone" để ít nhất nói lên ḷng can đăm hy sinh của QLVNCH,
một quân lực mà không có một người binh sĩ hay một cấp chỉ huy nào
đă phản bội, th́ đă thấy có lá cờ đỏ của quân cộng sản xăm lăng Bắc
Việt được kéo lên trên nóc dinh Độc Lập. Giờ nầy đây răi rác chỉ c̣n
một vài binh sĩ lẽ tẽ, đi lang thang chưa chịu đầu hàng. Quốc gia
mang tên Việt Nam Cộng Ḥa đă bị "bức tử" rồi !!! Danh từ Việt Nam
Cộng Ḥa đă bị xóa không c̣n trên bản đồ của các quốc gia trên thế
giới nữa.
CHIẾN THẮNG CỦA BẮC VIỆT CHO THẤY CỘNG SẢN VIỆT NAM C̉N NHIỀU
THAM VỌNG
Ở đây người ta thấy rơ tính cách mong manh dễ sụp đổ của mọi guồng
máy quân sự nào mà không tự túc được trang thiết bị, vũ khí đạn dược
để tự đứng vững được mà không cần viện trợ từ bên ngoài. Và những sự
dự đoán dù hết sức đứng đắn cũng có thể bị một vài biến cố làm sai
lạc hẳn đi.
Về sự sụp đổ của quân đội VNCH chỉ trong ṿng thời gian không quá 60
ngày, cũng không có ǵ lạ cho lắm, và lịch sử cận đại cũng đă cho
thấy nhiều chiến cuộc được kết thúc rất mau chóng, nhất là khi mà
việc kháng địch phải bị tùy thuộc nhiều vào số lượng và phẩm chất
của trang thiết bị hơn là ḷng can đăm của binh sĩ các cấp. Người ta
cũng có thể đổ lỗi cho địa thế của chiến trường; người ta có thể nói
là trước đó trong cuộc tổng tấn công thất bại năm 1972, quân Bắc
Việt đă chiếm hết các tiền đồn mà QLV NCH không tái chiếm lại được
và những trung tâm kháng cự đă bị tràn ngập ngay từ lúc đầu. Tất cả
những nhận xét phê b́nh chi tiết cũng không đi đến đâu, và cũng
không thể quy lỗi cho đặc điểm dễ sụp đổ đó của quân đội, dù là quân
đội thiện chiến vốn rất nhạy cảm đối với từng thay đổi nhỏ về t́nh
trạng đang rất mong manh của quốc gia họ; các nhà làm chánh trị ắt
phải biết rơ điều nầy.
Chiến tranh càng ngày càng dài ra và càng ngày càng gian lao khó
khăn thêm ra, những sự đổ vỡ của một vài lối thoát ghi nhận được,
sau một vài chiến thắng hay sự kiện mơ hồ không rơ ràng của bên này
hay bên kia, đă trở nên hoàn toàn bế tắc đáng sợ, không cho phép có
được bất cứ một giải pháp nào dù là hợp lư và có tính toán trước;
tinh thần bị suy sụp bất ngờ v́ nhiều lư do khác nhau mà nh́n bề
ngoài th́ không thấy ǵ nguy hại cả, đă gây ra những sự đăo lộn
nhanh như chớp, làm cho mọi người phải bàng hoàng kinh ngạc.
Một lần nữa, lại một lần nữa có một quân đội đă bị đánh bại và quốc
gia của quân đội đó bị xóa tên trên bản đồ các quốc gia trên thế
giới.
Một lần nữa, trên bán cầu nầy lại có một làn sóng cộng sản tràn
xuống, tiếp tục đi theo con đường mà họ đă vạch ra từ trước, chỉ v́
các quốc gia bị tấn công từ chối không chịu đồng tâm hợp lực lại với
nhau trên một tuyến pḥng thủ chung, để rồi ai cũng bị quá đuối sức
v́ nỗ lực quá mức và quá lâu, đến độ người ta tin vào định mệnh quá
khắt khe để rồi tự an ủi là "đúng theo tiến tŕnh của lịch sử".
Thế nhưng lịch sử th́ người ta đọc quá ít mà nhớ th́ chẳng đặng bao
nhiêu, nhất là những đoạn đầy rẩy những kẻ xăm lăng không biết nhàm
chán, độc đi chiếm các đồng bằng ph́ nhiêu như những lượng sóng thần
cuốn đi tất cả, hung hăn không một ai cưỡng lại nổi, và các làng mạc
đô thị tự mở cửa đầu hàng, người người phải nạp vàng bạc châu báu cả
đến vợ con họ nữa để làm nô lệ cho những kẻ xăm lăng, cuối cùng rồi
cũng phải tự nạp nốt mạng sống của ḿnh cho kẻ địch. Và cứ như thế,
lần nào cũng như thế... cho đến một hôm có một người rồi một nhúm
người , rồi một làng rồi một đô thị..... ai cũng nghĩ là dù sao cũng
phải chết th́ thà là chiến đấu cho xứng đáng rồi muốn ra sao th́ ra
không cần biết kết quả cuộc chiến sẽ như thế nào. Thường th́ chiến
thắng sẽ ngă về phía những người nầy.
Trong khi chờ đợi, sau sự việc xảy ra ở Việt Nam, cũng như ở Lào và
Cam Bốt, sau một thời gian chống đở lâu dài, người ta chỉ c̣n cách
nh́n theo ngón tay chỉ trên bản đồ để xem ư định tương lai của địch
quân và dự đoán những mục tiêu mà địch sẽ xâm chiếm, tin chắc rằng
những chiến thắng mới vốn chưa dễ ǵ thỏa mản được tham vọng bành
trướng của họ, sẽ mở ra cho họ nhiều miếng mồi khác, ngon hơn và mới
mẻ hơn.
Người ta rất lấy làm lo âu khi khảo sát lại những lư do dẩn đến sự
chiến bại của QLVNCH. Một mặt người ta thấy trước đó các tiền đồn xa
bị chiếm, nhất là Lào và Cam Bốt. Kế đến là sự phản bội của các quốc
gia siêu cường tự coi ḿnh là người nắm vận mệnh của các quốc gia
khác, một nước th́ không giữ những cam kết mà ḿnh đă long trọng
tuyên hứa, một nước th́ bội tín, lợi dụng những hiệp định đă kư để
tăng cường lực lượng và nỗ lực đến một mức độ quyết định. Sau đó là
sự suy yếu của chánh quyền, tuy có ư chí vững mạnh mà không có khả
năng rơ rệt để giải quyết t́nh trạng tham nhũng kéo dài, cọng thêm
vào đó sự mệt mỏi của 30 năm nỗ lực và đau khổ triền miên. Đối diện
đó là một thể chế độc tài coi rẻ con người và dân chúng, xử dụng họ
như một công cụ hay như một vũ khí trong bàn tay sắt: v́ thế mà họ
thắng.
"CHÚNG TÔI KHÔNG BAO GIỜ SỢ CHẾT"
Không phải QLVNCH từ chối không chiến đấu. Bị gậm nhấm liên tục và
bị thiệt hại càng ngày càng nặng, quân đội dần dần mất đi những
người con ưu tú và thấy khó mà bổ sung được đầy đủ và kịp thời.
Trong khi đó th́ quân đội Bắc Việt được bổ sung và tăng thêm quân
số, cũng như được viện trợ chiến cụ tối tân gấp bội, sự kiện nầy làm
cho người quân nhân VNCH thấy ḿnh bị quá thua kém v́ chiến cụ quá
cũ kỹ trước trang thiết bị tối tân của quân thù. Khi mà người lính
thiếu đạn dược và xăng nhớt, khi mà cây súng trong tay trở thành vật
vô dụng th́ chỉ c̣n có mỗi một cách là "chạy" mà thôi, chạy khỏi
trận chiến !!!! Và đây đó khắp nơi t́nh huống của người lính chiến
Miền Nam là như vậy đó, mặc dầu anh ta thừa biết rằng danh dự của
người lính là phải chứng tỏ ḷng dũng cảm chiến đấu cho tương lai
của đất nước, dù đang trong t́nh trạng nguy hiểm đến tánh mạng, biết
đâu nhờ hành động anh dũng nầy mà đất nước được sống c̣n....
Quân Lực VNCH đă làm tất cả những ǵ họ có thể làm được. Nhưng họ
thua sút kẻ địch quá nhiều, về quân số cũng như về kỹ thuật trang
thiết bị. Không áp dụng được một thế pḥng thủ lưu động, quân đội
Miền Nam không sao đạt được những thắng lợi dài hạn và đầy đủ để
chống lại tính năng nỗ của quân thù xăm lược và v́ thế mà mất
nước.....
Người Pháp chúng ta xưa kia đă có lư khi đoan chắc rằng sức mạnh của
một đô thị nằm trong con tim của các thị dân, cũng không phải nằm
trong sức chịu đựng của các bức tường hay sức chiến đấu của người
binh sĩ, cũng không phải các bức tường chống đở cho người lính, mà
người lính phải chống đở cho các bức tường, nói cách khác là cần cả
bức tường và cũng cần cả người lính.
Ở nước Pháp chúng ta th́ sao ? Chúng ta phải buộc tội cho ai đây, và
phải đổ lỗi cho ai đây về những rủi ro bất hạnh trong tương lai, nếu
bất ngờ có xảy ra chuyện ǵ, dù đó là một điều hợp lư ? Phải trút
trách nhiệm cho người lính chăng ? hay cho giới trẻ thời bây giờ,
đôi lúc quá say mê lư tưởng và người ta chỉ muốn đưa hết họ vào thế
giới tiêu thụ ? hay cho dân chúng mà người ta dễ cám dỗ bằng ăo
tưởng ? Vậy những ai sẽ chịu trách nhiệm đây ?
Người ta c̣n nghi ngờ ǵ nữa không, như Tổng Thống Pháp chúng ta đă
nói, là chúng ta đang sống trong một thời kỳ đầy đe dọa ??
NHỮNG HẬU QUẢ MÀ QUỐC GIA VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM
PHẢI GÁNH CHỊU TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM NGƯỜI TA KHÔNG BIẾT CƯỜI NỮA
RỒI!
Tại Sài G̣n, sau cái ngày gọi là "được giải phóng" th́ tất cả quyền
Tự Do mà người ta thường quá lạm dụng, đùng một cái ngă lăn ra
"chết" hết !
Miền Nam Việt Nam trở thành một trại giam vĩ đại mà khẩu phần ăn mỗi
ngày chỉ được cho vừa đủ sống. Ở một đất nước mà người ta chỉ có
biết cười, th́ bây giờ dân chúng chỉ c̣n biết nghe theo lệnh "học
tập", nụ cười đă biến mất từ đây!
Trong lúc đó th́ người ta bắt buộc người dân phải xem "cười" là một
nhiệm vụ hàng đầu, và mỗi buổi sáng sớm tại các ngả tư đường phố hay
trong những vườn công cộng, người dân được tập hợp lại, trước khi đi
làm việc, để người ta dạy cho hát những bài hát cách mạng, để học
lại những biểu ngữ hồi thế kỹ thứ 15 và những bài học vỡ ḷng về
kinh tế mác-xít. Và người ta luôn luôn nhấn mạnh:"trước tiên là phải
"cười".
Người ta phải dạy cho dân chúng cười, v́ họ không biết "cười" là cái
ǵ ! và "cười" ra làm sao nữa ? Trước hết, sau ngày "được giải
phóng", th́ dân chúng mất hết tất cả những ǵ gọi là êm ấm của cuộc
đời, bù lại họ được một sự nhớ nhung thương tiếc một đất nước mà nay
đă không c̣n nữa. Hết rồi ! ở cái quốc gia Việt Nam nầy người ta hết
biết cười nữa rồi !!!!!
Ôi Tự Do, Ôi Tự Do, Chỉ v́ hai chữ Tự Do nầy mà con người đă làm
biết bao là tội ác giết người ! Dĩ nhiên tất cả chỉ c̣n là tự do vô
kỷ luật, và mọi sự cố gắng cải thiện đều bất thành, dĩ nhiên luật
pháp không c̣n được tôn trọng nữa, buông thả ham chơi đă thành tập
quán rồi, đồng tiền đă đưa con người vào con đường tham nhũng, sức
mạnh đạo đức của quốc gia Việt Nam Cộng Ḥa nầy đă v́ thế mà bị hủy
diệt rồi !
Theo lư luận cùn của những anh bộ đội Miền Bắc, th́ họ rất là măn
nguyện. Miền Nam tự do nầy bây giờ đă không c̣n một con "vi trùng tự
do" nào c̣n sống sót được nữa, mảnh đất nầy đă được tẩy trùng sạch
sẽ lắm rồi, không c̣n bất cứ một thứ Tự Do nào nữa. Người ta sẽ thử
xây dựng một nước "Việt Nam Khác" trong sự cưỡng bách và khắc khổ.
Trong khi đó th́ những người tự xưng là "cách mạng" lại muốn người
dân Miền Nam Việt Nam coi họ là những người "giải phóng". Họ khẳng
định là họ đă thực sự giải phóng đất nước mà họ vừa chiếm được bằng
vũ lực chống lại đồng bào Miền Nam của họ. Họ nói là họ đă hành động
v́ sự tự do, chúng ta hăy nghe lời tuyên cáo xấc xược của họ:
- "Chiến thắng ngày hôm nay, không những là một chiến thắng của dân
tộc Việt Nam, mà c̣n là chiến thắng của tất cả dân tộc khác, các dân
tộc và những người yêu chuộng ḥa b́nh, tự do, căn bản xem phẩm giá
của con người là trọng yếu... Có độc lập và tự do rồi, th́ ngày mai
nầy điều ǵ chúng ta cũng sẽ làm được hết"
Ô Hô ! Họ đă đem cả hai thứ "Độc Lập" và "Tự Do" vào cho Sài G̣n
ngày 30 tháng 4 năm 1975 !
C̉N TỆ HẠI HƠN LÀ TẮM MÁU!
Không có xảy ra một cuộc tắm bằng máu như người ta hằng trông đợi.
Và một điều hết sức ngạc nhiên khi người ta thấy những người man di
mọi rợ, trong khi được dân chúng đón tiếp bằng một sự khinh bỉ ra
mặt, đang thử làm quen với thành phố Sài G̣n rộng lớn nầy, dân chúng
th́ bất thần nghiêm mặt lại, làm như không có chuyện ǵ vừa xảy ra,
trong khi thật sự th́ không c̣n có ǵ c̣n giống như ngày hôm qua
nữa.
Làm ǵ có chuyện tắm máu, đó không phải là thói quen của người cộng
sản ! Và người nào có ư muốn chờ xem chuyện đó th́ có thể tin được
như vậy . C̣n quá tệ hại hơn thế nữa kia !!!
Thật vậy, người ta nghe nói có nhiều vụ xử tử sơ khởi, đó
đây...không có chứng cớ:
Tại Ban mê Thuộc họ cho ám sát tất cả những cấp chỉ huy và cựu quân
nhân thuộc các dân tộc thiểu số miền thượng du Bắc Việt đă chạy cộng
sản di cư vào Nam từ năm 1954-1955.
Bác sĩ Vincent, d’Athis Mons, người Việt 100%, có quốc tịch Pháp,
thuộc đoàn "bác sỉ không biên giới" trong Phái Bộ Y Tế do nước Pháp
gởi sang Việt Nam, nên ư kiến rất là tự do và trung thực. Không cần
biết đầu óc ông ta nghĩ như thế nào trước đó, khi mà tất cả phái bộ
của ông được khoản đăi linh đ́nh ở Paris ngày 1¾/75, trước khi rời
nước Pháp để sang Việt Nam, do Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tổ chức.
Mặt Trận đă khuyên ông không nên bắt liên lạc với Sài G̣n và hảy tạm
nằm ở Vũng Tàu chờ "quân giải phóng".
Phái bộ nghe theo lời MTGPMN, không vào Sài G̣n mà ra nằm chờ ở Vũng
Tàu, thuốc men và dụng cụ y khoa được tạm gởi vào một bệnh viện dân
sự của VNCH. Có vài cuộc pháo kích vào thị xă, và người ta mang lại
khoản 80 người bị thương vừa thường dân vừa lính nhảy dù. Họ săn sóc
cho những người nầy. Đến lượt những người man rợ đến, có lẽ chưa có
chỉ thị của cấp trên, nên họ ra lệnh ngưng tất cả mọi công tác và ư
định chữa trị cho những người bị thương nói trên. Rồi một toán khác
lại đến, những người nầy có vẻ hiểu biết hơn, nhưng ra lệnh buộc tất
cả phải rời khỏi bệnh viện nầy, v́ họ đang cần dùng.
V́ các "bác sĩ không biên giới" không biết phải đưa những người bị
thương mà họ đang chữa trị đi đâu, nên họ từ chối lệnh nầy. Tức th́
một người chỉ huy toán "giải phóng quân" nói với bác sỉ Vincent
rằng: "Đây rồi chúng tôi đă có cách." Nói xong ông ta rút súng ngắn
ra, kê vào đầu một người bị thương cạnh đó, và bóp c̣. Bác sỉ
Vincent phản đối. Người ta lôi ông ra chỗ khác...và rồi ông nghe
nhiều tiếng súng lục nổ.... đến lúc súng hết nổ th́ bệnh viện đă
trống, sẳn sàng cho "giải phóng quân" sử dụng!
Đó là một trong những nhân chứng và chứng cớ hiếm hoi của những cuộc
hành quyết nhanh gọn. Và người ta phải rất ngạc nhiên lắm mới thấy
được sự đứng đắn của những kẻ xăm lăng man rợ nầy. Một người trong
phái bộ "bác sĩ không biên giới" phải thốt lên: "Thật là giống y như
bọn phát xít Đức hồi năm 1940 !"
Những ǵ xảy ra tại Sài G̣n đều giống y như đă xảy ra tại HàNội. Và
những ai đă từng có "sống" tại Bắc Việt vào những năm 1954-1955 đều
phải buồn ḷng và sửng sốt mà thấy vở tuồng cũ năm xưa đang được họ
diễn lại tại Sài G̣n. Về sau nầy, để tránh nhân chứng gây trở ngại
cho những cuộc hành quyết, ở xa trung tâm thành phố và ở vùng ngoại
ô hay vùng thôn quê, lần lần bắt đầu có những cuộc thanh trừng dưới
h́nh thức các ṭa án nhân dân, xử và hành quyết ngay tại chỗ, xử
những người nào bị bất cứ ai (v́ tư thù hay v́ đăng vụ) tố giác hay
gán cho cái tội "có hành vi phản cách mạng", hay "là kẻ thù của nhân
dân", không cho người tù nhân có cơ hội hối cải. Thế mà dân chúng
phải buộc ḷng ưng chịu, sau đó hoặc là tử h́nh, hoặc được đưa đi
"trại cải tạo", nơi đó người ta phải chịu chết dần chết ṃn, v́ tinh
thần bị lụn bại c̣n tệ hại hơn là thể xác bị hao ṃn.
Những ai vẫn c̣n tưởng rằng cộng sản và thể chế độc tài chuyên chính
của họ là nhân đạo, th́ bằng cớ rành rành ở đây sẽ chứng minh một
lần nữa là không phải như vậy. Người ta có thể cho những hành động
vô nhân đạo nầy là của một giống dân khác, ở một quốc gia khác, có
một thời tiết khác, nhưng cho dù từ miền Trung Âu hay Đông Âu, đâu
đâu cũng vậy, chỉ có một âm điệu giống nhau mà thôi !
Không có ǵ có thể thay đổi được tính ác độc trong một guồng máy
chánh quyền chỉ biết dựa vào hệ thống tố giác đê tiện và sự kềm kẹp
của bộ máy công an.
Vậy hỡi những ông bạn của Thế Giới Tự Do! các bạn đă biết yêu tự do
và biết giá trị của hai chữ "Tự Do" là thế nào rồi, các bạn hảy coi
chừng !!!
Cũng như tại Hà Nội năm 1954, mặc dầu bộ máy chánh quyền cũ không
c̣n nữa và có một sự lộn xộn hổn tạp xảy ra sau đó, người ta cũng
rất đổi ngạc nhiên mà thấy người cộng sản lúc nào cũng ḥa nhă ân
cần khi đón tiếp người dân, mặc dầu họ khó chịu v́ những câu hỏi tuy
có hóc búa nhưng cũng dễ trả lời; cũng có khi người ta phải chịu khó
điền vào một số quá nhiều giấy tờ như bộ máy hành chánh cộng sản
thường đ̣i hỏi, nhưng không bao giờ người ta được trả lời dứt
khoác,"không", mà chỉ được hẹn lại một ngày nào đó để họ có thời
gian điều tra và nghiên cứu qua hệ thống tố giác của nhân dân, có lẽ
"chắc ăn" hơn là từ chối thẳng thừng ngay lúc đó.
TRƯỚC HẾT LÀ MỘT SỰ HỖN LOẠN
Như vậy là ngày hôm trước hôm sau tất cả các hăng xưởng đều đóng
cửa, tất cả mọi người đều chờ đợi trong căng thẳng và lo âu. Tuy
nhiên tất cả những chướng ngại vật cũ đều được dẹp bỏ, không c̣n
thấy những đường phố nào c̣n có rào cản, không c̣n những vườn chơi
nào bị cấm vào, không c̣n một công sở nào c̣n có người canh gát, tất
cả đều được tháo gở, dĩ nhiên mọi luật pháp của chế độ cũ cũng đều
không c̣n nữa, người ta sống trong một sự rỗng không hợp pháp mà có
một số người lợi dụng để làm điều bất chánh.
Trật tự lưu thông v́ không có người điều hành nên không c̣n ǵ là
quy tắc nữa, và những chiếc xe "honda" với tiếng nổ inh tai nhức óc
lượn qua lượn lại như một đàn ong vở tổ, trong lúc người ta đua nhau
dọn sạch các nhà ở hay văn pḥng của người Mỹ, và xúm vào tháo gở
hết những ô tô Hoa Kỳ đẹp bóng bị bỏ lại khắp nơi, gở rất kỹ lưỡng
và sạch sẻ không bỏ sót một thứ ǵ, y như một đàn kiến siêng năng
đang bu đen một khúc xương vậy.
Điện thoại của thành phố th́ c̣n xử dụng được, nhưng bưu điện th́
đóng cửa và mọi liên lạc ra ngoài đều bị cắt đứt, cả đài phát thanh,
viễn ấn tự (télétype)cũng vậy, mặc dầu các ṭa đại sứ ngoại quốc vẫn
c̣n mở cửa làm việc. Dĩ nhiên sân bay th́ ngổn ngang đủ loại xác phi
cơ, ô tô, c̣n đường sá th́ hư nát v́ đạn pháo nên không thể nào vào
được. Trong một cuộc họp báo của Tư Lệnh Ban Quân Quản Sài G̣n Gia
Định, chánh quyền hiện hữu và duy nhất lúc nầy, th́ một nhà báo có
phản đối về việc đi lại không được tự do, th́ được trả lời rằng
"việc đi lại luôn luôn được hoàn toàn tự do, nhưng mỗi ông quận
trưởng chỉ có quyền cho phép đi lại trong phạm vi trách nhiệm của
quận ḿnh mà thôi."
Không c̣n thấy một tư ǵ gọi là trù mật, là sầm uất như xưa của
thành phố nữa, mặc dầu các chợ cũng c̣n lưa thưa một vài tiệm chạp
phô và một vài quầy hàng c̣n bày bán một ít hàng xen lẩn với h́nh
của Hồ chí Minh, trên cửa c̣n dấu vết của lá cờ vàng vừa được bôi
cạo để thay vào đó màu đỏ của kẻ xăm lăng. Các quán giải khát, các
quán rượu..chỉ mở hí cửa và bên trong th́ trống rỗng, trong khi các
cô chiêu đăi viên th́ ngồi ngáp dài trước cửa, chờ đón những ông
khách lạ từ xa....không mời mà đến, nhưng được mời mà không vào. Các
trạm xăng công cộng th́ hoặc bị lấy hết hoặc bị đốt lúc bộ đội Bắc
Việt vào thành phố, nên người ta chỉ c̣n t́m được xăng với giá chợ
đen, do một số người bán rong, xăng họ rút ra từ các xe của Mỹ c̣n
bỏ lại hay của bất cứ xe vô chủ nào c̣n bỏ răi rác trên hè phố. Sau
đó th́ các anh bộ đội Bắc Việt cũng bắt chước chơi theo kiểu Mỹ làm
nhà cung cấp xăng cho bọn chợ đen bằng cách tự rút xăng trong xe
chiến lợi phẩm của ḿnh đang lái. Dài dài hằng 100 thước trên những
con đường chánh của thành phố, nhất là sau nhà thờ Đức Bà và trên
đường Lê Lợi, cả đàn ông đàn bà lẩn con nít kiên nhẫn đứng thành
từng hàng mời khách bộ hành qua lại mua xăng đựng trong những vơ
chai rượu whít ky đủ loại .(nhưng coi chừng ! ai muốn mua phải chịu
khó nếm thử để biết chắc đó có phải là xăng, là trà hay là
dấm...)giá từ 250 đồng bạc một chai đến 1400 hay 1600 đồng một lít.
Và cứ như vậy mà ô tô thưa thớt lần, các xe Honda cũng bớt gây ồn ào
và từ đó xe đạp bắt đầu xuất hiện, một loại xe thông dụng của các
quốc gia cộng sản nghèo. Giá của chiếc xe đạp cứ thế lên dần như
dều, dầu vậy người ta cũng c̣n thấy thỉnh thoăng có người c̣n giữ
một vài chiếc loại tốt thời xưa, sáng đạp một chiếc màu xanh chiều
một chiếc màu đen, coi như để thay đổi thời trang!! Riêng những ông
lănh chúa mới th́ ngồi chểm chệ trên những xe Mercédès sang trọng có
dựng cờ trên đầu xe, hoặc ra vẻ vênh váo trên những xe mà họ vừa mới
tịch thu được.
Trộm cắp tăng nhanh không nói được: chỉ trong khoản thời gian ngồi
uống một cốc cà phê ở khách sạn Continental là chiếc xe của Đại Sứ
Pháp bị đục thủng thùng xăng và chân máy đă bị tháo khỏi sườn xe
rồi. Không có một người cảnh sát nào cả, người ta phải gọi những anh
mặc quân phục xanh nhỏ con Bắc Việt đang thơ thẩn đâu đó, có lẽ họ
cổ xúy cho hành động bất chánh kiểu nầy để có dịp khủng bố và thanh
lọc dân chúng. Bộ chỉ huy ban quân quản thành phố sẽ trừng phạt nặng
những người nầy, có lẽ không nhằm mục đích bảo vệ tài sản của người
dân đâu mà chỉ cốt để lấy ḷng dân mà thôi. Chỉ với tội ăn cắp vặt
mà một em bé đă bị họ đánh gục. Và có một hôm nọ, một anh tài xế xe
tải cán chết một em bé: người mẹ khóc than phản đối dử dội, và để
cho bà nầy vừa ḷng người ta hành quyết ngay tại chỗ người tài xế đó
bất kể sự phản kháng của anh nầy, trong một không khí im lặng hết
sức nặng nề của đám đông dân chúng đang cảm xúc đứng xem, không dám
phản đối.
Công tác thông tin báo chí hầu như bị bải bỏ. Trước hết người ta tổ
chức một nhóm sinh viên la ó phản đối một bài báo bị họ kiểm duyệt,
sau đó họ mới đóng cửa hết trên 40 tờ báo của Sài G̣n mà không có
một ai dám lên tiếng. Vài ngày sau đó duy nhất có một tờ báo được
ra, tờ "Sài G̣n Giải Phóng", một tờ báo có cái tên mà tiếng Việt Nam
có nghĩa là một sự thay đổi hết sức thô bỉ, sự thật nó chỉ là một mớ
giấy tuyên truyền của chế độ cộng sản mà thôi. Dân chúng giờ đây chỉ
có bám víu vào những tin đồn để mà sống qua ngày và tin đồn th́ quá
nhiều đến mức có thể làm cho họ say mê. Người ta nghe lén các đài
phát thanh ngoại quốc, đài "Tiếng Nói Tự Do", đài BBC, đài VOA, đài
Úc Châu v.v.. Tất cả các máy thâu thanh sau đó đều bị kiểm tra rất
nghiên nhặt, và người ta được xem truyền h́nh phát từ HàNội mà sự
"tuyên truyền nặng mùi quân phiệt c̣n rất là hiểm độc hơn của Đức
quốc xả trong thời kỳ Hitler nữa", một anh nhà báo Pháp đă có nhận
xét như vậy.
"ĐÊM QUA EM MƠ THẤY BÁC HỒ"!
Năm chiếc tàu hàng Nga Sô vừa cập bến chở theo toàn là "gạo" đúng
lúc Việt Nam đang thiếu. Người ta phân phối gạo cho những phường
đông dân trước; nhu cầu quá nhiều nên có nhiều sự phản đối. Người ta
cho ngưng công tác phân phát gạo và chỉ cho tiếp tục lại vài ngày
sau đó. Trong khoảng thời gian chờ đợi người ta cho nhiều toán kiểm
tra đi từng nhà để thẩm định lại từng thành phần đáng nhận gạo. Một
máy điện thoại hay một máy thu thanh dù là thuộc loại cổ lổ xỉ, được
coi là xa xí phẩm, và người sở hữu chủ được xếp vào hạng giàu, không
được hưởng phần gạo cứu đói, phần gạo nầy để cho những người nghèo
cần hơn. Sự thật là ở Miền Nam giàu nghèo ǵ ai cũng có máy thu
thanh cả !!!
Những sinh viên học sinh từ trước vẫn ham mê các tạp chí đầy h́nh
ảnh khiêu dâm của Mỹ, tự nhiên đâm ra có nhiệt t́nh trong các cuộc
chống đối phim ảnh, những bài hát, dĩa hát và các loại in ấn phẩm mà
họ cho là đồi trụy, không lành mạnh. Các rạp chiếu bóng được cho mở
cửa lại ngay, người ta cho chiếu các phim "chiến thắng Điện Biên
Phủ", "đời sống bác Hồ", nhưng lèo tèo chỉ có vài khán giả bất đắc
dĩ ngồi ngáp vắn ngáp dài... Cũng có nhiều người c̣n dấu lại một vài
đỉa nhạc hay, và có người th́ cố đọc ngấu nghiến lần cuối cùng một
quyển tiểu thuyết đắc ư nhất của ḿnh, nhưng rồi các cô cậu sinh
viên học sinh trẻ tuổi chia nhau đi khắp thành phố lùng sục cho bằng
hết các đỉa nhạc và các quyển sách c̣n sót, chất thành đống đốt lên
như lửa trại, rồi múa hát chung quanh đó với những bài hát mới và vủ
khúc b́nh dân Nga Sô. Các tiệm sách, các thư viện, đều được lệnh lập
bản kê khai sách báo hiện có, cũng giống như các doanh-xí-nghiệp
khác vậy thôi, nhưng đối với sách báo th́ các bản kê khai nầy chắc
phải nộp cả kílô !
Một cô gái 16 tuổi, lớp 12 của một trường trung học tại Sài G̣n đă
viết một bức thư cho một vị giáo sư Pháp văn của cô: "Tôi rất buồn
mà thấy bộ mặt Sài G̣n bị thay đổi, ngày trước rất là tươi vui. Đời
sống đă trở nên khó khăn. Có rất nhiều gia đ́nh không c̣n có ǵ để
ăn cho đủ no. Tôi không c̣n một phương tiện nào để tiếp tục học. Tôi
cần phải t́m bất cứ công việc làm ǵ để đi làm.. Nếu tôi có thể làm
bồi pḥng cho Thầy..."
Các trường tiểu học trong phường khóm đă được cho mở lại, các trường
trung học cũng vậy. Với các em học sinh, người ta chỉ dạy "công dân
giáo dục" và người ta chú trọng nhiều trong việc tập luyện phương
thức căn bản trong công tác tuyên truyền, các bài hát, các khẩu
hiệu, như người ta đă bắt dân chúng phải tập mỗi đêm từ 2 giờ đến 4
giờ sáng để "không bị thiệt mất giờ lao động", có hại cho việc sản
suất. Với các em thiếu nhi, người ta tập họp lại rồi nhồi cho các em
bài hát sau đây :
"Đêm qua, em mơ thấy bác Hồ,
Bác nh́n em bác cười,
Em vuốt râu bác, và vuốt tóc bác,
và bác nói với em:
mai nầy em sẽ là bộ đội."
Đức tin mạnh đến độ dường như có một số em nhỏ tin rằng đêm qua em
mơ thấy bác Hồ thật ! Đối với các em lớn hơn th́ có giáo viên hướng
dẫn, có đạo hay không cũng vậy, thay v́ đọc kinh cầu nguyện buổi
sáng, th́ người ta cho học thuộc ḷng bài hát và các khẩu hiệu biểu
ngữ, rồi cùng nhau đọc lên năm điều khuyên răn của Hồ chí Minh:
- Phải yêu dân tộc và yêu tổ quốc,
- Phải lao động,
- Phải sống trong kỷ luật,
- Phải biết điều độ,
- Phải giữ ǵn sức khỏe để phục vụ đất nước.
Đối với các sinh viên hay ít nhất là những em có điều kiện sinh sống
để có thể c̣n tiếp tục học, th́ người ta tổ chức họ lại thành từng
trung đội và trung đội trưởng là một anh "cán bộ". Anh nầy có nhiệm
vụ phải đào tạo cho mỗi người phải có một nghề hữu ích nào đó trong
ṿng hai tháng, xong đưa họ về vùng nông thôn để học tập cho biết
"lao động là vinh quang", giúp làm công việc đồng áng, và nhất là
truyền bá lời hay ư đẹp của chủ nghĩa Mác Lê. Nhưng trong khi chờ
đợi "được" đi lao động ở nông thôn, th́ với một tinh thần "tự
nguyện" đáng khen, họ được trang bị mỗi người một chiếc vá và một
cây chổi để "tự giác" đi t́m dọn sạch tất cả các đống rác trong
thành phố. Tất cả mọi sự hoán đổi các khoa, ngành của trường đại học
đă có dự trù sẳn từ trước cả rồi: Khoa Luật và Văn Chương sẽ được
đóng cửa vĩnh viễn và thay vào đó là trường đào tạo thông dịch viên,
dạy tiếng Nga, tiếng Tàu và cũng có tiếng Anh. Tiếng Pháp vốn thông
dụng trong ngành Y Khoa th́ nay bị cấm chỉ, không cho dùng nữa, và
chỉ sẽ được dùng như một chuyển ngữ mà thôi.
Tóm lại, đó là những ǵ mà người ta đă quyết định về một sự "cải tạo
con người, tư tưởng, và nền văn hóa" của Miền Nam Việt Nam .
Những bài toán về kinh tế và xă hội đă từng làm nhức óc các nhà lănh
đạo của chế độ cũ, và bắt buộc phải có một khoản viện trợ không ít
của ngoại quốc, th́ nay được người ta giải quyết cũng dễ dàng một
cách lạ lùng. Người ta cho kiểm tra dân số, ghép lại thành từng tổ
một. Ngay đối với những người nào vẫn tưởng rằng ḿnh không có một
vấn đề ǵ để người ta phải trách phạt ḿnh, th́ các cuộc điều tra
phỏng vấn càng tỷ mỹ và càng làm cho họ sốt ruột nóng nảy lên. C̣n
đối với những người nào mà chế độ cho là thuộc "thành phần nguy
hiểm", th́ người ta cố t́nh lờ đi, để cho họ chờ...
Các quân nhân nào không chạy thoát thân ra ngoại quốc được th́ họ
trút hết quân phục vũ khí đạn dược, rồi t́m chỗ ẩn náo, hoặc với gia
đ́nh hoặc với bạn bè của họ. Họ được gọi đi tŕnh diện tại các địa
điểm kiểm tra, xong người ta vẫn cho họ đi về sau khi cho biết là họ
sẽ được đi học tập ngắn hạn ở một trại cải tạo, xong về và sẽ trở
thành công dân như những công dân VN khác. Nhưng khổ nổi ngay bây
giờ đây, không công ăn việc làm, không lương không tiền...chắc chắn
sẽ là một bài toán khó không có đáp số.
Tất cả các công chức cũng được gọi đi tŕnh diện, xếp theo từng loại
chức vụ, ngạch trật, nhưng chúng ta phải thấy được sự nhục nhă khó
chịu của họ trong bộ cánh chỉnh tề có thắt cà vạt, cúi ḿnh trước
anh "cán bộ" trước cửa ṭa nhà Quốc Hội Sài G̣n. Người ta không có
hứa bất cứ điều ǵ với họ cả.
Nhiều bản yết thị kêu gọi những người ngoại quốc đi tŕnh diện,
thường trú th́ tại các văn pḥng cảnh sát cũ, tạm trú th́ tại Bộ
Ngoại Giao. V́ số người tŕnh diện quá đông nên họ phải xếp dặt lại
cho có trật tự, phân chia từng loại theo từng gốc dân. Đối với người
Pháp chúng ta th́ trước hết là người Pháp chính gốc, kế đó là những
người lai Pháp, sau hết là những người Việt có quốc tịch Pháp. Với
loại nào cũng vậy, họ bắt điền vào những bản "vấn đáp" dài lê thê,
khai rơ tên họ và lư lịch ba đời, thời gian và lư do cư trú, t́nh
trạng xă hội, tài sản ở Việt Nam, và những máy móc dụng cụ hiện có:
truyền h́nh, máy thâu thanh, khuếch âm nghe nhạc, máy ảnh, súng,
điện thoại v.v...Có nhiều nam nữ cán bộ cố gắng giúp phụ điền giùm
các giấy tờ quá nhiều nầy, lẻ ra phải được thảo ra bằng tiếng Việt.
Cũng c̣n phải nộp cho họ h́nh căn cước, mà do đó nghề chụp h́nh căn
cước nay tự nhiên trở thành một kỹ nghệ mới đắt khách nhất lúc bấy
giờ.
Nhưng tất cả đều được báo cho biết rằng mọi mưu mô hay hành động
chống phá cách mạng đều bị cấm, nhưng họ không nêu rơ h́nh phạt. Và
từ đó mới bắt đầu có hành động tố giác, ngay trong những người Pháp
chúng ta, v́ quá lo sợ, lại được người ta khuyến khích, dù đây là
một việc làm quá bỉ ổi.
HĂY BIẾT VỖ TAY HOAN HÔ NHỮNG KẺ CHIẾN THẮNG.
Điều chính yếu ở đây là phải biết "tham gia"
Trước hết là tham gia vào buổi lễ mừng ngày "được" giải phóng. Ngày
1 tháng 5, ngày lễ lao động, dân chúng tập hợp đông đăo ngay bải cỏ
trước dinh Tổng Thống cũ. Nh́n thẳng vào mặt tiền sơn trắng của bao
lơn dinh Độc Lập,n2 ta thấy rợp màu cờ của Chánh Phủ Lâm Thời Cộng
Ḥa Miền Nam Việt Nam, không có một lá cờ nào của Bắc Việt, nhưng
nổi bật lên trên hết phía trên bao lơn là một bức chơn dung lớn của
Hồ chí Minh, đang đứng đưa tay vẫy chào.
Suốt đêm qua, người ta kêu gọi dân chúng hăy làm những biểu ngữ bằng
vải với đủ màu sắc rực rỡ và viết lên đó những câu khẩu hiệu được
dạy trước đó, hoặc vẽ chơn dung của Hồ chí Minh, tất cả đều tự túc
v́ người ta dư biết là người Việt Nam làm thứ ǵ cũng được, không
cần biết có phương tiện hay không.
Mỗi người đi dự buổi mít tinh phải đem theo hai cây cờ giấy nhỏ, một
của Bắc Việt và một của Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam để luôn tay phất
qua phất lại và không ngớt tiếng hoan hô theo hiệu lệnh của cán bộ,
từng chập từng chập ngắt khoản bài diễn văn của vị Tướng chỉ huy Ban
quân quản Sài G̣n GiaĐịnh đứng trên bục cao ở bao lơn dinh Độc Lập.
Đứng sau tiểu đoàn danh dự, đám đông dân chúng bị dồn cứng trên bải
cỏ mà các chiến xa T.54 đă cày nát hôm qua, sau lưng họ là các cánh
cửa sắt của cổng chính đă bị người ta cố ư cho chiến xa T.54 ủi sập
theo yêu cầu của các toán phim ảnh Bắc Việt. Nhiều loa phóng thanh
ră rít phát ra những giọng điệu cũ, những bài họp xướng mà người
Pháp chúng ta nghe th́ nhớ ngay tới bài quốc ca La Marseillaise của
ḿnh hay một bài hát quốc tế nào đó. Mỗi lần nghe thấy hiệu lệnh th́
người ta đồng loạt vỗ tay rất nhịp nhàng và reo ḥ đồng loạt nghe
như là tự động hoan nghênh thật sự vậy, làm cho diễn giả dù khó tính
đến đâu cũng phải vừa ḷng. Sau đó người ta đi diễn hành, tay phất
cờ giấy của ḿnh.
Buổi lễ bắt đầu từ sáng sớm, khoản 8 giờ 30 th́ kết thúc và mỗi
người trở về nhà gương mặt tối sầm trở lại, có vẻ quá đau khổ v́ vừa
phải chịu một sự nhục mạ nặng nề. Tuy nhiên các thanh niên th́ có
nhiều tṛ chơi vui được tổ chức hôm đó nên cũng tạm khuây khỏa được.
Nhưng rồi sau đó thành phố lại trở nên một thành phố chết, không có
một chút sinh khí nào.
Sinh nhật cụ Hồ năm nay rơi đúng vào một ngày quá xấu, nhưng người
tavẫn tổ chức. Trên sân cỏ trước dinh Độc Lập người ta đặt một cái
bục để chơn dung cụ Hồ lên đó. Rồi cũng đám đông dân chúng hôm nọ
được gọi tới, rồi cũng những biểu ngữ cũ, những khẩu hiệu cũ được
giăng lên chung quanh nơi hành lễ, rồi cũng những lá cờ nhỏ hôm
trước, cũng những tiếng hoan hô những tiếng vỗ tay theo lệnh như hôm
trước...Người ta cố t́m trên khán đài để xem mặt ông chánh phủ Lâm
Thời Miền Nam, v́ cho tới giờ nầy người ta vẫn chờ mà cũng không ai
biết được thành phần chánh phủ có những ai? mặt mày họ ra sao ?...
Phải chăng để đính chánh một tin đồn ngoài phố đang làm cho các bà
vốn ăn diện quá mức trước kia, nay không c̣n dám đeo đồ trang sức
nữa, không dám mặc áo dài màu mè sặc sở nữa, tóc không c̣n uốn chải
tươm tất nữa...dường như muốn trở về đời sống khắc khổ sằn dă, đâu
đâu cũng chỉ thấy có độc một màu "củ nâu" mà thôi, nên bà Nguyễn thị
B́nh, từ bên Pháp về, mặc một chiếc áo dài tơ lộng lẫy, môi son má
phấn ḷe lẹt, cốt ư để cho người ta nh́n thấy sự sung sướng hân hoan
của bà đối với chiến thắng của Cách Mạng.
Có gần 8000 bộ đội Bắc Việt tham gia cuộc diễn binh. Bộ binh th́
được chở trên xe Molotova của Liên Xô, ngồi trên băng cây, mặt hướng
về phía trước với quân phục màu xanh "ve chai" nghèo nàn, nhưng có
mang bao tay vải thô không biết lấy từ đâu ra. Theo sau là đủ mọi
loại chiến cụ, chiến xa T 54, hỏa tiễn SAM của Liên Xô, pháo binh
nặng, pháo pḥng không, truyền tin, công binh, tất cả đều cho thấy
không được bảo tŕ tốt, đó là nhận xét rất tỷ mỷ của một quân nhân.
Dù nh́n bên ngoài có vẻ khù khờ, không bóng loáng nhưng đó vẫn là
quân đội và vũ khí của kẻ chiến thắng. Dần dần các hè phố và những
cửa sổ bắt đầu có người ṭ ṃ xem. Người ta không vỗ tay. Ngồi thẳng
lưng trên băng gỗ trên xe, các bộ đội cố giữ tư thế hoàn toàn bất
động. Giữa các đơn vị, với một khoản cách đều nhau, là những quân
kỳ: một lá màu đỏ, có lẽ là cờ của đơn vị diễn hành, v́ trên lá cờ
có gắn một số huy chương. Tất cả đều là quân nhân Bắc Việt. Đúng là
các đơn vị Bắc Việt đă tham dự cuộc tổng tấn công Miền Nam Việt Nam
đang diễn hành để ăn mừng chiến thắng của họ.
GƯƠNG MẶT HỌ KHÔNG ĐƯỢC VUI !
Trong nhà lồng chợ và trên các đường phố lân cận, các gian hàng bắt
đầu mở cửa, lưa thưa, nhưng cũng có hàng. Người mua quá ít, giá cả
tăng lên gấp 5 lần chỉ trong ṿng một tuần, do người ta không có bổ
hàng về nên hàng hóa cũng hiếm. Tuy nhiên rau cải các loại v́ là sản
phẩm địa phương nên cũng b́nh giá. Thật ra không phải thiếu hàng
hóa, Sài G̣n luôn luôn có 6 tháng lương thực dự trử, nhưng v́ tiền
càng ngày càng cạn dần, nên người mua càng ngày càng ít đi, người
nh́n chơi th́ càng ngày càng nhiều.
Cho tới ngày 30/4/75, khi người Mỹ cuối cùng rời khỏi Miền Nam Việt
Nam th́ đồng đô la tăng giá vùn vụt mỗi ngày v́ người ta hy vọng đi
ngoại quốc được. Chỉ riêng những người có quyền thế, hoặc vợ con,
cha mẹ, hay bạn bè của người Mỹ th́ được cửa mở cho vào ṭa Đại Sứ
Hoa Kỳ, được trực thăng bốc đi đều đều và liên tục cho đến trưa ngày
30, đưa ra hạm đội đậu ngoài khơi Vũng Tàu, để rồi từ đó được đưa đi
thẳng tới đăo Guam. C̣n những người khác th́ muốn vượt qua khỏi đám
đông đang đứng nghẹt trước cổng ṭa Đại Sứ. th́ trước hết phải biết
dúi cho người nào đó xuyên qua lô cốt gát, hằng ngàn hay hàng vạn đô
la mới được người ta hé cửa cho vào để được đưa đi t́m Tự Do. Từ sau
ngày 30 th́ hy vọng đi Hoa Kỳ không c̣n nữa, đồng đô la lại xuống
giá khoản vài trăm đồng bạc, và rất nhiều người lợi dụng được t́nh
thế nầy. Đồng quan Pháp th́ lại có giá. V́ người ta đồn rằng sẽ có
những chiếc tàu Pháp sắp cặp bến Sài G̣n để chở những người muốn
sang tỵ nạn ở Pháp. Người ta c̣n đồn rằng chiếc tàu cặp bến đầu tiên
sẽ là chiếc Cambodge, một chiếc tàu chở khách rất đẹp thuở xa xưa đă
được giải giới từ lâu rồi.
Nhưng rồi đùng một cái, mọi người đều hoảng sợ. Tất cả các ngân hàng
đều bị đóng cửa, các tủ sắt của ngân hàng bị niêm phong, thợ thuyền
công nhân đều không có lương, giá sinh hoạt hằng ngày tăng nhanh đến
một mức độ không thể tính trước được nên ai cũng phải lo tiết kiệm
tối đa mới có thể kéo dài đời sống cho gia đ́nh ḿnh được.
Rất may là điện xài trong nhà vẫn c̣n, nhưng người ta cũng phải dự
trù có ngày điện có thể bị cúp. Hơi đốt th́ không thể t́m đâu ra,
nếu có th́ giá chắc phải cao kinh khủng. Người ta xài lại những ḷ
đất đốt bằng than hay bằng củi.
Ngoài "chợ trời" th́ quang cảnh thật quá vui. Người Mỹ đi rồi th́
thay vào đó đă có các anh bộ đội Bắc Việt, c̣n khờ khạo hơn nữa, họ
chỉ say mê ngắm đủ mọi thứ, máy thu thanh (mà họ gọi là đài), máy
ảnh, các loại máy điện tử, và nhất là đồng hồ đeo tay.... đủ các
loại hàng mà từ cha sanh mẹ đẽ tới giờ nầy các anh không hề được
nh́n thấy qua bao giờ. Túi các anh đầy giấy bạc VNCH, không biết các
anh "chôm" từ đâu. (tác giả dùng chữ chapardés, có nghĩa là đánh
cắp). Những người bán hàng vui vẽ mơn trớn họ, họ mua đại khái một
vài món không đâu ra đâu, tuy vậy giá cả cũng lên vùn vụt. Nhưng rồi
hai tuần lể sau đó th́ giá cả lại tụt xuống, đây là một dịp may hiếm
có nhưng không ai muốn mua sắm ǵ nữa v́ làm ǵ c̣n tiền đâu nữa để
mà mua ? Bán ra th́ có!!!
Như thế là bài toán kinh tế đương nhiên đă được giải quyết, bài toán
mà người ta cứ nghỉ là phải có viện trợ của ngoại quốc đều đều mới
có đáp số được. Chỉ cần đóng cửa các ngân hàng, không trả lương cho
thợ thuyền, giảm thiểu tối đa sự lưu thông của đồng tiền, bắt người
ta phải chấp nhận một đời sống khắc khổ có khi phải đưa con người
tới cái đói hoặc đưa các em nhỏ vào con đường bất lương trộm
cắp...tự nhiên xă hội tiêu thụ sẽ biến mất và thay vào đó sẽ là xă
hội tiện tặn kiểu Mác-Lê.
Một vài cán bộ kỹ thuật người Miền Nam từ Hà Nội đến Sài G̣n. Họ
than phiền là bị giữ lại ngoài Bắc quá lâu, phải chờ đến những 20
năm mới gặp được người nhà. Họ về ngay gia đ́nh: người ta nh́n họ
như những con người của một thế giới khác, của một hành tinh nào xa
lạ, dù ngôn ngữ vẫn là một ngôn ngữ Việt Nam nhưng họ khó mà có thể
hiểu nhau được. Họ có vẻ được thỏa măn một ít thôi, nhưng kể như
không được thỏa măn ǵ cả. Họ thuật lại là họ có được đặc quyền đặc
lợi v́ họ là kỹ sư, là chuyên viên kỹ thuật, do vậy họ được lương 70
đồng một tháng để sống, tuy ít đó, nhưng vẫn sống được: "Chỉ với 70
đồng thôi th́ làm được cái ǵ ?" người ta hỏi họ như vậy.
Tất cả đều mặc quần áo màu xanh lá cây. Dường như người ta có thể
phân biệt được sỉ quan và cán bộ bằng một dấu hiệu nhỏ gắn trước
nón, một súng ngắn đeo bên hông, với một dáng điệu tao nhă nào đó
được cố tạo ra để che dấu gương mặt đôi khi "sắt máu" không ai muốn
nh́n.
Các bộ tham mưu và các pḥng sở của họ được tung ra đóng răi rác
khắp nơi. Tất cả các nhà có pḥng trống (hay có khi không có) đều
"được" họ tới chiếm ở, gọi là "xin ở nhờ", và mỗi khách sạn, mỗi
hiệu ăn, nhà hàng...đều được yêu cầu dọn cho 100 phần ăn mỗi ngày,
dĩ nhiên không tính tiền !
Tại khách sạn Majestic, ngay đầu đường Catinat và trên bờ sông Sài
G̣n, có một sĩ quan cấp tướng người Pháp đang ở. Ông là khách trọ
duy nhất ở đây. Ngày 29 tháng 4, trước ngày Sài G̣n buông súng
xuống, một trái đạn rốc kết san bằng tầng lầu trên của pḥng Ông
đang ở, chết một người gát đêm của khách sạn. Sau đó, khi quân Bắc
Việt chiếm xong Sài G̣n, th́ Ông là người khách duy nhất trong căn
pḥng ăn rộng thênh thang với 100 anh quân phục xanh lá cây, chia
nhau ngồi làm nhiều bàn. Họ có đứng dậy khi ông tướng nầy bước vào
pḥng ăn, rồi mỗi người cúi xuống chén cơm ḿnh ăn vội ăn vàng,
không nói một tiếng nào, ăn xong lẳng lặng mạnh ai nấy đứng dậy,
mạnh người nào nấy đi, yên lặng dễ sợ, khác xa các phạn điếm ồn ào
và vui nhộn của quân đội Pháp chúng ta hay của Quân Lực VNCH thuở
nào. Tất cả đều có vẻ không được vui, không hiểu tại sao.
Sau đó người ta thấy họ đeo băng tay đỏ, có may trên đó chữ K. kèm
theo một số: như K.21 hay K.8 chẳng hạn. Sau khi họ thu thập xong
các tin tức cần thiết, họ chỉ định nhiều loại ủy ban có nhiệm vụ
phải nắm chặt hoạt động của từng nghành kinh tế sau khi kiểm kê xong
các loại hàng. Những cuộc tiếp xúc đầu tiên không mấy vui. Vừa gặp
người chủ xưởng họ đă quá vội vàng trách ngay, phủ đầu:
- "Ông không trả lương cho thợ ?".
Người chủ bèn gọi ngay tất cả thợ của ḿnh đến chứng kiến câu
chuyện. Ông nói:
- "Tôi coi xưởng nầy đến nay đă 20 năm rồi. Thợ được trả lương rất
đều, cứ mỗi 15 ngày một lần."
"- Đúng, đúng ! vài người thợ phát biểu, ông nầy là một người chủ
rất tốt."
"- Ngày 30/4, họ chưa có lương. V́ họ vắng mặt ngày hôm đó. Các ông
pháo rốc kết vào họ và ngân hàng th́ bị các ông cho đóng cửa, cho
tới ngày hôm ông đi lănh nay vẫn c̣n đóng. Nếu các ông cho mở cửa
lại, tôi sẽ kư một ngân phiếu là ngay" người chủ nói.
"- Chúng tôi không thể cho ngân hàng mở cửa lại được. Chúng tôi phải
kiểm soát tất cả các chương mục, tất cả, ông nghe chưa? để t́m moi
ra những việc làm xấu xa của "chế độ cũ", họ nói. (nguyên tác:
ancien régime. Tác giả không biết danh từ "ngụy quyền" như Cộng sản
đă dùng từ 30/4 cho đến bây giờ)
"- Trong trường hợp đó, chính các ông là người không chịu trả lương
cho thợ", người chủ nói.
Sau đó họ nói chuyện khác với nhau.
Tất cả những hăng, xưởng, nhà máy v.v.. đều phải qua một cuộc kiểm
kê rất tỷ mỷ và trong một thời gian rất là lâu, khiến cho măi đến
hai tháng sau chưa có nơi nào mở cửa làm việc lại được cả. Chỉ có
vài nơi như hảng rượu bia BGI và một xưởng dệt làm việc lại được, v́
họ c̣n nguyên liệu.
Trong tất cả các hăng xưởng, nhà máy...chỉ có một luận điệu được
nhai đi nhai lại. Người ta cho tập họp chủ, thầy, thợ, công nhân lại
và người ta tuyên bố:
- "Bắt đầu từ giờ nầy, tất cả các anh đều là chủ cả."
Hoặc là: "Bắt đầu từ bây giờ, tất cả các anh đều là công nhân."
Và người ta c̣n giải thích thêm: "Tất cả các anh đều là công nhân
viên của Nhà Nước. Nhà Nước sẽ cung cấp cho các anh nguyên vật liệu,
sẽ gánh cho các anh mọi phí khoản điều hành, nhận tất cả các mặt
hàng do các anh sản xuất, chịu trách nhiệm về sự tiêu thụ các món
hàng nầy theo phương cách tốt nhất, hoặc trong nước hoặc ra nước
ngoài bằng cách trao đổi hàng hóa giửa quốc gia nầy và quốc gia
khác."
Và cứ như thế là đùng một cái người ta chuyển ngay nền kinh tế thị
trường có lợi cho dân chúng sang một nền kinh tế chỉ huy thung giăn
kiểu Mác Lê chỉ có lợi cho chế độ.
Rồi người ta c̣n lưu ư thêm, trịnh trọng: "Tất cả các anh đều có bổn
phận và quyền lợi để cho hăng xưởng chúng ta phồn thịnh lên. Các anh
đều có trách nhiệm phải giữ ǵn cho hăng xưởng chúng ta chạy tốt, và
nếu các anh thấy được mọi biến chuyển xấu nào, bất cứ từ đâu đến,
các anh có bổn phận phải tố cáo ngay mỗi buổi chiều với cán bộ trực.
Nếu có ǵ nghi ngờ, và tối đến mà các anh suy nghĩ tới một vài sự
việc tiêu lạm hay bất cứ lương lẹo nào mà các anh không thấy được
ngay lúc đó, th́ sáng ra các anh hảy nói cho cán bộ nghe liền."
Lúc bấy giờ và chỉ có đến lúc bấy giờ, cả hai bên chủ và thợ, ngay
cả những ai đă đặt hy vọng vào một nền kinh tế chỉ huy, ai ai củng
biết là tai họa đă đến với chính ḿnh rồi.
Tuy hành động tố giác có làm cho họ kinh tởm thật đấy, nhưng họ vẫn
biết rơ rằng sớm hay muộn ǵ họ cũng bị bắt buộc phải làm như vậy,
nhưng dù sao ngay giờ nầy th́ họ rất khinh chuyện đó. Vă lại sau đó
tin tức và tiếng đồn từ những người từ Miền Bắc trở về, đă cho họ
thấy rơ là "cái ǵ sẽ đến cho họ" và chế độ Miền Bắc cũng như ở Miền
Nam sẽ như thế nào.
Mỗi người thợ, mỗi công nhân chỉ được lănh mỗi ngày 50 $ và 700 gram
gạo, đó là phần lương của riêng anh, mà cũng được coi như của cả gia
đ́nh anh, không cần biết gia đ́nh anh có bao nhiêu người, (kể cả
trường hợp người chồng là người duy nhất phải gánh chịu mọi tiêu xài
cho 1 vợ và 8 con).
- "Làm ǵ đủ ăn cho một người !" một người công nhân nói.
- "Cũng chưa đủ để trả tiền điện nấu cơm" người vợ anh mỉa mai nói.
MỘT CƠN DỊCH ĐANG LAN TRÀN: TỰ SÁT
Như vậy là tất cả đều phải đi "lao động". Đó là một cái luật, một
cái luật khắt khe "không lao động là không có quyền sống". Người dân
Miền Nam hay hoài nghi nên chưa chịu tin như vậy, và v́ quá khôn
lanh nên lúc nào họ cũng t́m cách sắp xếp, chưa bao giờ chịu tin là
tai họa đă đến với ḿnh mặc dầu nó đă lù lù đứng trước mặt ḿnh rồi
! lúc nào họ cũng lạc quan một cách ngoan cố và liều lĩnh, sẵn sàng
tự sửa ḿnh mà không muốn nghe lệnh ai ép buộc ḿnh, tuy hay nói
nhưng vẫn là người thợ khéo tay khéo chân, lúc nào cũng vui vẻ và
khôi hài, có tinh thần phán đoán và diễu cợt chọc cười cho quên mệt.
Do vậy mà họ không thèm biết đến cái luật lao động kỳ quái đó, v́
lúc nào họ cũng tự hănh diện là người Miền Nam, chê người Miền Bắc,
coi người Miền Bắc như là một người man rợ không hơn không kém. Họ
không chịu "theo" cái luật đó, họ nghĩ rằng họ sẽ nắm được những
người nầy, họ đánh cuộc như vậy và không biết họ đánh cuộc đến bao
giờ ?
Một vài người nghĩ rằng Miền Nam là một quốc gia an lạc, giàu có phi
thường sẽ không giống như Miền Bắc. Trí khôn lanh và sắc bén của dân
chúng sẽ không chấp nhận những điều kiện của Miền Bắc cũng như sự
chỉ huy của những người Miền Bắc. Thế rồi tự nhiên những danh từ
"thống nhất đất nước" là những danh từ đầu môi chót lưỡi của bộ đội
Miền Bắc từ lúc vừa bước chân vô thành phố Sài G̣n, nay từ từ dường
như được rút lại, không c̣n thấy xuất hiện trong những bài diễn văn
hay trên các biểu ngữ nữa. Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt
Nam kéo dài thời gian thành lập và cho ra đời thành phần một chánh
phủ Miền Nam, có lẽ là do một sự tranh chấp nội bộ giữa người Nam và
người Bắc. Miền Bắc nói: "Chúng ta sẽ thống nhất". Miền Nam đă chánh
thức tuyên bố với những danh từ hết sức dè dặt rằng: " Sẽ đi tới
thống nhất khi nào hội đủ điều kiện đặc biệt."
Càng ngày càng có nhiều người bất măn, và càng ngày càng có nhiều
người chán đời. Trong ṿng vài tuần lễ, không cần biết hôm nay đă
xảy ra việc ǵ, có khoản từ 15 đến 20 nhân sĩ tự tử, chết.
Một ông đại tá công khai trước đám đông người dùng súng bắn vào đầu
một phát đạn, chết. Ông có mang một tấm bản trên ngực, viết: "tôi
đói".
Một người khác leo lên đông gạch vụn của tượng đài "t́nh đồng đội"
trước Nhà Hát Tây Sài G̣n (Quốc Hội Việt Nam Cộng Ḥa) vừa bị phá
sập, đổ xăng vào người và tự thiêu, chết.
Nhiều phóng viên chạy nhanh tới để chụp ảnh, các anh bộ đội đến ngăn
cản, không cho chụp ảnh nhưng lại rất thản nhiên để cho những người
muốn chết được chết.
Đó là những chuyện thường xảy ra gần như hằng ngày. Có nhiều quân
nhân đă được giải ngũ, không việc làm, sợ bị đi trại cải tạo, biết
được vũ khí chôn dấu c̣n nhiều, và với một cây súng cũng có thể vào
sống trong rừng được, những người mất hết hy vọng, những cấp chỉ huy
cương quyết...tất cả đều vào bưng, vào rừng, vào núi, gia nhập nhóm
kháng chiến c̣n đang hoạt động mạnh, không cần biết đó là một sự kết
thúc hay một sự bắt đầu của một niềm hy vọng....Dĩ nhiên Hànội lên
án chuyện nầy và thú thật là chưa giải quyết xong Miền Nam Việt Nam.
ÍT NHẤT NGƯỠI TA CÓ THỂ RA ĐI ?
Tuy nhiên người ta không để cho một người nào được ra đi cả, dù họ
có muốn. Không có phương tiện chuyên chở ư ? Không có phương tiện
kiểm soát ư? Không có ư muốn như vậy ư? hay họ sợ một lỗ trống trong
lưới sẽ làm sẩy hết đàn cá? Tất cả mọi biện pháp đều tốt, người ta
cho phép chuyển điện tín gia đ́nh ra ngoại quốc, miễn là để cho
chánh quyền thêm vào một câu: "Về ngay đi, gia đ́nh đang chờ anh."
Một số đông người, cả nam lẫn nữ, đến lănh sự quán Pháp xin chiếu
khán nhập cảnh, hay để xin nhập tịch Pháp, hay để xin hồi tịch Pháp.
Người ta đă có dự trù cho những người Pháp có thể rời khỏi Việt Nam
lúc nào cũng được, nhưng ai có vợ hay có chồng người Việt th́ không
được mang họ theo và nếu đă có con th́ cũng phải để chúng ở lại Việt
Nam.
Nước Pháp là quốc gia đă chấp thuận nhận một số dân tỵ nạn Việt Nam
, nhưng đó cũng chỉ là lời hứa đầu môi chót lưỡi. Dường như là nước
Pháp có kư một thỏa hiệp có lợi cho thể chế hiện tại, hay ít nhất
cũng có phần nào hơi thận trọng để khỏi làm mất ḷng họ, v́ thật ra
Pháp đang c̣n bận tâm lo cho những công dân của ḿnh đang c̣n kẹt
tại đó, theo lời yêu cầu của những người nầy.
Có gần một triệu người Miền Bắc đă chạy vào Miền Nam , theo chân
quân đội Pháp năm 1954-55. Bây giờ nếu Việt Nam mở cửa th́ vài triệu
người Việt Nam sẽ t́m cách sang định cư ở Pháp ngay. Tàu nào mà
chuyên chở cho hết đây ? Và người Pháp chúng ta phải làm sao đây ?
trong lúc quốc gia chúng ta đang lo cho nền kinh tế bị suy thoái và
nạn thất nghiệp, và cũng chưa ổn định xong cho một triệu người Phi
gốc Pháp của chúng ta? Thật là một bài toán đau thương, một bài toán
nan giải!
" -Vậy là chỉ c̣n có nước đem họ liệng xuống biển Nam Hải cho cá mập
sơi tái mà thôi !"
Linh mục Hoàng Quỳnh đă nói như vậy.
Hay là chúng ta cứ để họ chết dần chết ṃn ở Miền Nam Việt Nam , vốn
đă sớm biến thành một nhà tù vĩ đại rồi, với một chế độ nô lệ đáng
ghê tởm và một bức màn sắt bao kín mít, không một tiếng kêu rên
thống khổ nào bay lọt được ra ngoài.
Nếu người Pháp chúng ta không chịu mở rộng con tim, hay mở rộng cửa
biên giới cho những người từ phương trời xa kêu gào cầu cứu với
chúng ta, th́ ít nhất chúng ta cũng phải biết được rằng, cũng như
các nơi khác, ở đó vừa có một bằng chứng mới nữa, đó là: người cộng
sản không bao giờ biết đến hai chữ "nhân đạo" là ǵ, và họ đang tiêu
diệt con người.
Xin cầu nguyện cho người Pháp chúng ta biết lo sợ, khi họ cũng bị
rơi vào trường hợp phải bị người ta bắt phải vỗ tay hoan nghênh, và
cũng xin cầu nguyện cho người ta đừng bắt buộc họ phải cười, nếu họ
không thích cười v́ họ không c̣n cười được nữa: "Cộng sản chỉ có một
thứ Tự Do, lănh tụ cộng sản Pháp, ông Marchais đă nói như vậy. Thật
vậy, trong chế độ cộng sản, chỉ có một thứ Tự Do, đó là "Tự Do Không
Có Một Thứ Ǵ Cả" !
NƯỚC PHÁP SẼ PHẢI RA ĐI VĨNH VIỄN RỒI
Đúng thật đây là một ngày 14 Juillet rồi.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, lúc bọn người man rợ tiến vào Sài G̣n, th́
ở đây chỉ c̣n độc có những lá quốc kỳ Pháp mà thôi.
Thật không sai, v́ trước đó Tổng Thống nước Cộng Ḥa Pháp đă có lời
yêu cầu các công dân Pháp trong trường hợp nào cũng nên ở lại để duy
tŕ sự có mặt thường trực của nước Pháp tại Việt Nam. Để cho người
Pháp khỏi nghi ngờ, nghị sĩ Ornado đă được phái đến tận Sài G̣n để
nói lại với họ như thế. Người Pháp ở Miền Nam Việt Nam dù muốn dù
không cũng phải nhận lời.
Bây giờ th́ họ bị quá bất ngờ, không dè t́nh thế kết thúc quá nhanh
như thế, họ không thể c̣n làm ǵ hơn được, v́ không một ai có được
một phương tiện nào để ra đi.
Trước đó, tại Dublin, Ngoại Trưởng Pháp đă làm cho các bạn đồng
nghiệp thuộc các quốc gia Âu Châu phải sửng sờ khi ông tỏ ư muốn
thấy Tổng Thống Thiêụ từ chức và ra đi, v́ theo ông th́ ông Thiệu
được xem là một trở ngại chính cho một nền ḥa b́nh ở Việt Nam .
Có nhiều người Việt Nam từng có bắc đấu bội tinh Pháp cũng đă bị rơi
vào rọ, đang phản kháng ầm lên rằng họ đă được Chánh Phủ Pháp hổ trợ
và khuyên họ phải ở lại Sài G̣n, để hậu thuẩn cho các phong trào đ̣i
Tổng Thống Thiệu phải ra đi. Dĩ nhiên chuyện nầy không đúng. Thật
vậy, lúc bấy giờ ở Sài G̣n người ta thuật lại rằng trong khi kiều
dân Pháp nghe theo lời khuyến cáo của Tổng Thống Pháp, th́ những
người trong Bộ Ngoại Giao Pháp hơi thính tai nên đă đưa tất cả nhơn
viên của họ về Pháp trước rồi, và ở Ṭa Đại Sứ Pháp tại Sài G̣n lúc
nầy chỉ c̣n có gia đ́nh của ông tùy viên quân sự mà thôi, ông nầy
can đăm và vẫn lạc quan. Lẽ ra th́ giới hữu trách ở Tổng Thống Phủ
và Bộ Ngoại Giao Pháp phải có những tin tức chính xác về VN mới
phải. T́nh thật họ không chịu tham khảo những người có nhiều hiểu
biết sâu rộng về vấn đề Việt Nam, và ngay như tại Phủ Thủ Tướng cũng
vậy, công khai ai cũng biết là về chánh trị người ta chỉ có một tầm
nh́n duy nhất về quyền lợi của nước Pháp ở Viễn Đông mà thôi.
NƯỚC PHÁP ĐĂ CHỌN NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN
Trên phương diện chánh trị, người Pháp nghĩ đại để rằng giúp đở cho
một lực lượng thứ ba lên nắm quyền, (lời dịch giả: ư tác giả muốn
nói đến tướng Dương văn Minh) để họ có thể thương lượng với Chánh
Phủ Lâm Thời Miền Nam, thiết lập một thể chế mới tạm thời do cộng
sản sắp xếp, ít nhất cũng có thể bảo đăm được một nền ḥa b́nh nào
đó. Miền Nam Việt Nam đang cần có ḥa b́nh. Những người cố vấn kỹ
thuật Pháp khẳng định rằng nếu có được ḥa b́nh trong vài năm thôi,
th́ với sự khám phá các mỏ dầu ngoài khơi biển Nam Hải và vùng Vịnh
Thái Lan, nền kinh tế của Việt Nam sẽ tiến nhảy vọt hơn hẳn Đài Loan
và Nam Hàn nữa. Do vậy mà chúng ta đă thấy tại sao Bắc Việt và Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam liên tục tạo ra một sự bất an ninh để ngăn
chặn mọi đầu tư và khai thác tài nguyên giàu có của Miền Nam Việt
Nam, nếu không th́ chắc chắn VNCH sẽ vĩnh viễn chiếm địa vị ưu thế
hơn Miền Bắc.
Dĩ nhiên người ta rất cần có ḥa b́nh ! Quan điểm chánh trị của Pháp
đối với vùng Viễn Đông luôn luôn nghiên về một nền "ḥa b́nh kiểu
cộng sản", từ lúc một ngày nọ, trong lúc cao hứng, tướng De Gaulle
đă đọc một bài diễn văn nẩy lửa tại Phnom Penh để "chơi" các bạn
đồng minh Hoa Kỳ. Thật là một điều nhục nhă khi phải nghĩ đến nền
ḥa b́nh đó, v́ nó có khả năng đưa nền kinh tế của Việt Nam lên cao,
nhưng đồng thời nó cũng đem lại nhiều quyền lợi cho những người có
quyền thế ăn trên ngồi trước.
Dù muốn dù không th́ nước Pháp cũng đă chọn xong con đường phải theo
rồi. Pháp đă không ủng hộ Thiệu nữa, ông nầy bị Pháp chỉ trích ngày
càng gay gắt thêm lên. (Cách đây mấy năm dường như ông Thiệu đă có ư
muốn trục xuất tất cả người Pháp ra khỏi Miền Nam Việt Nam , nhưng
ông vốn là một quân nhân trong quân đội Pháp, là con người có t́nh
cảm nên ông vẫn c̣n giữ nhiều cảm t́nh bạn bè thân thiết với quân
đội Pháp). Tuy vậy không v́ thế mà ông không làm tất cả những ǵ có
thể làm được để tái lập bang giao b́nh thường với Pháp. Việc cắt đứt
bang giao là do tướng Kỳ lúc bấy giờ rất có quyền hành, sau khi ông
De Gaulle đọc bài diễn văn ở Phnom Penh . Lúc nào Tổng Thống Thiệu
cũng tỏ ư mong muốn có sự thân thiện giữa hai nước Pháp Việt, ngay
như lúc Pháp chỉ định đến V NCH một vị đại sứ "nhà nghề" quá lạnh
lùng, không biểu hiện được một t́nh thân hữu nào giữa hai quốc gia,
vậy mà ông Thiệu cũng vẫn vui vẻ mở cửa đón tiếp ngay, bất chấp mọi
nghi lễ ngoại giao.
Vậy mà nước Pháp vẫn chọn Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam . Pháp đă cho
chánh phủ nầy một chỗ đứng chánh trị khá cao tại thủ đô Paris , và
t́m mọi cách khuyến khích họ. Hơn thế nữa, Pháp cũng đă gởi vào vùng
được gọi là "giải phóng" cũng như đến Hànội rất nhiều viện trợ, gọi
là "viện trợ nhân đạo", do đó mà đă có những chuyến phi cơ quân sự
chuyển từ Vientiane (Lào) hơn 300 tấn thuốc men, nói là để giúp cho
những người tỵ nạn. Nhưng mỉa mai thay thật là một điều đáng tiếc v́
những người tỵ nạn hôm nay lại đúng là những nạn nhân khốn khổ của
chính cái gọi là Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam nầy và của quân đội
cộng sản Bắc Việt trong chiến dịch tổng tấn công xăm chiếm Miền Nam
Việt Nam năm 1975. Ngoài ra, nếu người ta không lầm th́ giới thân
cận trong chánh quyền Pháp đă nghe được đại diện của Chánh Phủ Lâm
Thời Miền Nam (M TGP MN) ngỏ lời cám ơn các quốc gia bạn của họ, mà
Pháp là quốc gia đứng hàng đầu, một nước đă từng giúp đở họ trong
cuộc chiến nhằm xâm chiếm Miền Nam Việt Nam. Một điều chắc chắn là
người ta thấy có những người Pháp tại Miền Nam đă từng tuyên bố là
không làm chánh trị, nhưng lại nằm trong danh sách những người cộng
tác với M TGP MN để mong t́m được một sự bảo đăm thân thiện nào đó
của MTGPMN, không biết có phải v́ họ quá sợ bọn người dă man nầy hay
không. Một số người Pháp có quyên tiền cho M TGP MN, giữa họ với
nhau, được khoản 2 triệu bạc VN, nhưng Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam
từ chối không nhận. Khi Sài G̣n bị chiếm th́ người ta gởi tới tướng
chỉ huy Ban Quân Quản một bản danh sách những người Pháp cảm t́nh
viên thân MTGPMN để mong đừng làm ǵ khó dễ họ, đồng thời người ta
cũng có tố giác một số người Pháp được ghi nhận là có khuynh hướng
chống cách mạng.
CÓ TỪ 12.000 ĐẾN 15.000 NGƯỜI PHÁP C̉N KẸT LẠI SÀI G̉N
Có thể nói không sai là phần đông người Pháp ở Sài G̣n không nhận
cái lối xử sự như vậy của chánh phủ Pháp. V́ họ rất hiểu biết vấn
đề. Nhiều người đă biết rơ cuộc di tản khỏi Bắc Việt trong những năm
1954-55. Những người khác th́ đă đo lường được mức độ nguy hiểm của
vấn đề. Một số người thật t́nh cũng không thích vấn đề tham nhũng
của một số nhơn vật trong chế độ, nhưng họ không phải trong số những
người chỉ v́ lo lắng cho công việc làm ăn của họ được an toàn mà
mong cho ông Thiệu từ chức và ra đi, hay muốn thấy thành phần thứ ba
lên nắm quyền: tất cả đều biết trước những ǵ sẽ xảy ra cho họ nếu
MGP MN hay Bắc Việt lănh đạo đất nước nầy, v́ nền kinh tế chỉ huy
theo kiểu cộng sản sẽ không bao giờ đem lợi lộc ǵ cho họ cả, trong
khi chỉ v́ chút lợi lộc đó mà họ mới có mặt ở đây. Cho nên khi thấy
ḿnh tự nhiên bị kẹt vào rọ, tất cả đường dây liên lạc ra ngoài đều
bị cắt đứt, tất cả mọi khả năng đi ra nước ngoài đều bị đ́nh chỉ
trong lúc nầy, khi mà họ thấy xí nghiệp của họ bị đóng cửa, sắp sửa
bị quốc hữu hóa hay biến thành tài sản của "nhân dân", thấy các cửa
hiệu của họ và tủ sắt của họ đều bị niêm phong, khi mà họ chạm phải
một đời sống khắc khổ, họ liền sực cảm thấy t́nh trạng gần như bị
"giam lơng" của ḿnh, theo đúng nghĩa của danh từ luật pháp, bị giam
lơng cả sanh mạng lẫn tài sản mà không thấy có được một bảo đăm nào
cho tương lai, ít nhất trong một thời hạn xa hay gần nào đó. Chừng
đó họ mới bắt đầu nổi khùng lên và bắt đầu nguyền rủa. Họ càng như
phát điên lên khi được biết rằng các dàn trọng pháo được bố trí xong
chung quanh Sài G̣n sẳn sàng cho cuộc tổng tấn công, dự trù đủ để
bắn phá thành phố liên tục trong bảy ngày đêm. Họ có cảm giác rằng
người ta đă "không đếm xỉa" ǵ đến sinh mạng của họ cả đừng nói chi
đến việc bảo vệ tài sản của họ củng như tài sản của nước Pháp.
Từ ngày 1 tháng 5 đến 1 tháng 8/1975, trong số từ 12.000 đến 15.000
người Pháp c̣n bị kẹt lại tại Sài G̣n, chỉ có khoản 300 hay 400 ǵ
đó đi được ra ngoài, phần đông là những người tạm trú, hoặc họ lợi
dụng 3 chuyến bay Illyouchine từ Sài G̣n đi Vientiane (t́nh trạng
những máy bay nầy xấu không thể tả nổi, bên trong mưa rơi như gió
mùa), hoặc theo các chuyến bay của Hàng Không Lào, với những chiếc
máy bay nhỏ liên lạc qua lại Sài G̣n nhiều lần để mang thuốc men từ
kho hàng Bangkok sang. Trong tháng 8/1975, người ta đă cố gắng
"chạy" tối đa: một nhân viên ngoại giao phụ trách việc nầy, ông nầy
đă từng thành công trong việc di tản những người Pháp ở Cam Bốt, dù
là rất khó khăn và nguy hiểm. Nhưng tất cả cố gắng của ông đều không
đi đến đâu, không có một kết quả nào. Đại sứ Pháp bên cạnh chánh phủ
Thiệu th́ bị Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam từ chối không công
nhận, người ta chỉ định một xử lư thường vụ từ HàNội, mong là đă
từng có nhiều tiếp xúc với chánh phủ Bắc Việt th́ công việc điều
đ́nh của ông sẽ có phần dễ dàng hơn, nhưng cho đến bây giờ th́ ông
ta chưa vào được Sài G̣n. Ngoài ra, người ta không hiểu tại sao
Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam lại cho triệu hồi đại sứ của họ
đang ở Paris về Sài G̣n. Bang giao giữa hai bên đang tốt đẹp tự
nhiên dường như trở nên lạnh nhạt. Như thế là hằng ngàn người Pháp
c̣n kẹt tại Sài G̣n, gần như "bị nhốt trong trại tập trung Sài G̣n".
Ông Giscard d’Estaing, Thủ Tướng Pháp, có tuyên bố là người Pháp
chúng ta có thể yên tâm đi nghỉ hè, nhưng phải thú nhận là người
Pháp không thấy có một hứng thú nào. Ngoài ra, ông ta c̣n thấy măn
nguyện và khen các nhân viên ngoại giao của ḿnh trong việc áp dụng
thành công và khéo léo đường lối chánh trị của Pháp tại Viển Đông.
Người ta lại c̣n gắn cho họ một số "bắc đấu bội tinh" nữa. Tại Pháp,
người ta sửa soạn để đón tiếp những người Pháp từ VN trở về. Người
ta dọn trống các câu lạc bộ của kiều dân di trú Bắc Phi, có đủ chỗ
cho 2.000 người Pháp được biết là rất nghèo từ Sài G̣n về cư ngụ.
Rất may là tất cả mọi thông tin liên lạc đều bị cắt đứt, nên người
ta không nghe thêm được tin tức ǵ về việc nầy từ nước Pháp nữa.
GIỐNG NHƯ LÚC TRƯỚC Ở BẮC VIỆT, NGƯỜI PHÁP CHÚNG TA MẤT TẤT CẢ
Nước Pháp phải có mặt thường trực tại Việt Nam , đó là mục đích mong
muốn của Chánh Phủ Pháp và đó là đường lối chánh trị của ḿnh. Đường
lối nầy đă được thi hành đến đâu rồi ? Người ta phải nghi ngờ khi
nhớ tới những ǵ đă xảy ra ở Miền Bắc Việt Nam lúc xưa. Thật ra th́
những kỹ niệm xưa không được coi như là những bài học, và người ta
biết rơ rằng không phải v́ vậy mà sự việc không c̣n có thể xảy ra
cho ngày mai.
Tại Miền Bắc, tất cả những ǵ được gọi là của Pháp trước đây 30 năm
đều đă biến mất. Tất cả đều biến mất hết, nhanh chóng dị thường.
Nhiều cảm t́nh viên chánh trị đă thử ở lại xem sao. Nhưng rồi một
năm sau, chỉ một năm sau thôi, họ cũng phải ra đi. Một người trong
số đó viết một quyển sách khá dày, đầy những sự kiện, có tên là "Tôi
đă sống trong địa ngục cộng sản Miền Bắc Việt Nam , và tôi đă chọn
tự do ". Ai đă có đọc được quyển sách nầy? Ai đă quên quyển sách nầy
?
Tại Hànội, tôi nhắc lại, những ǵ được gọi là của Pháp đều biến mất
hết, kể cả viện Pasteur. Người Nga đă giúp lo cho họ tốt hơn. Tại
bệnh viện Saint Paul , cảnh sát vào chiếm đóng và các bà "sơ" tốt
bụng phải bị giam cầm 14 năm trong các viện mồ côi.
Nhiều tài sản của Trường Viễn Đông Bát Cổ của Pháp, trong đó thư
viện Hán văn đẹp nhất thế giới, và cả một bộ sưu tầm độc đáo có một
không hai về ngọc quí, dường như được đem ra phân phối hết cho bốn
quốc gia đă từng cộng tác với Bắc Việt. Những ǵ c̣n lại tại chỗ
người ta cũng đă bán đi hết. Rất nhiều người đă bị hy sinh, chỉ có
15 ngày sau khi người Pháp chúng ta rời khỏi Hà nội là ở các chợ
quanh thủ đô, hàng Pháp lèo tèo chỉ thấy c̣n có những ống chỉ để bán
cho người Tàu, thật là một sự mĩa mai, nhục nhă và rất đau ḷng !!!
Thế th́ tại sao bây giờ chánh phủ Pháp lại c̣n có ảo tưởng mong muốn
một sự có mặt thường trực của nước Pháp tại Sài G̣n ?
Phải chăng đó là những bộ h́nh luật xưa, 5 bộ luật mà Pháp đă để lại
lúc người Pháp rời khỏi Việt Nam -chẳng có bổ túc thêm một điều
khoản nào, có chăng cũng chỉ có một vài chi tiết nhỏ không đáng kể-
làm nền tảng căn bản cho bộ h́nh luật của Miền Nam Việt Nam? Các vị
chánh án cũng như các luật sư trong các phiên xử vẫn c̣n mặc chiếc
áo thụng dài và mũ đen truyền thống của Ṭa án Pháp. Bây giờ th́ tất
cả luật pháp và pháp chế gốc Pháp đều đă bị hủy bỏ. Có một khoản
trống pháp định đang kéo dài...Các chánh án, luật sư và nhân viên
ṭa án đều phải đi "học" lại tất cả. Đaị học Luật khoa đă bị đóng
cửa vĩnh viễn. Chẳng những người Pháp mất hết quyền được hưởng luật
pháp của người Pháp, mà trong một quốc gia không luật lệ như bây
giờ, lấy ǵ để che chở, bảo đăm cho sanh mạng của con người, cho tài
sản cá nhân, v́ không có một quy chế nào cả ?
Phải chăng v́ nền văn hóa Pháp, một nền văn hóa rất là phong phú ở
Miền Nam Việt Nam , vốn là một quốc gia thân Pháp hàng đầu. Có nhiều
bản thỏa hiệp đă được chuẩn phê vào đầu năm 1975, dự trù ghép các
trường Đại học và các phân khoa Pháp, Việt lại với nhau, thành lập
thêm các trường sư phạm đào tạo giáo sư Pháp văn tại Việt Nam, giảng
dạy Pháp Văn như là một chuyển ngữ trong tất cả các trường trung học
trong nước, hợp tác về giảng dạy tu nghiệp cho tất cả các giáo viên
và giáo sư thuộc đủ mọi cấp mọi ngành giáo dục, cấp học bổng cho
giới trẻ có phương tiện theo học bên Pháp. Để kiểm điểm lại chúng ta
thấy chỉ ở ngay tại Paris thôi, đă có bao nhiêu bác sĩ, kỹ sư, luật
gia Việt Nam trong các học đường cao nhất của nước Pháp, th́ người
ta sẽ đoán được lợi ích như thế nào . C̣n bây giờ th́ sao ? Trong
ban Văn khoa th́ tiếng Pháp bị khai trừ, người ta chỉ dạy tiếng Nga,
tiếng Tàu, thỉnh thoảng cũng có tiếng Anh. Chẳng những các dự án bị
"rơi rụng" hết và không c̣n một tư giá trị nào, mà các trường Pháp
cũng sẽ chết, mà sự cộng tác cũng không c̣n lư do để tồn tại nữa,
mặc dầu trong chương tŕnh cộng tác nầy có rất nhiều người thân với
chế độ cộng sản trong hiện tại. Thật sự th́ những người Pháp nằm
trong chương tŕnh cộng tác văn hóa nầy không nguôi được cơn giận dữ
và sắp sửa phun ra những lời chỉ trích nặng nề đối với chánh quyền
Pháp, v́ họ lo rằng thời gian nghỉ hè của họ năm nay vốn phải được
bắt đầu từ 1 tháng 6/75 sẽ bị kẹt tại "thiên đường cộng sản mới" nầy
rồi !
VÀ NGƯỜI NGA SẼ THAY PHIÊN "ĐỔI GÁC" CHO NGƯỜI MỸ
Bệnh viện Grall nằm tại Sài G̣n, một quân y viện đă có từ xưa, lúc
người Pháp chiếm Việt Nam . Luôn luôn bệnh viện nầy được treo quốc
kỳ Pháp. Bệnh viện nầy là một "pháo đài" Pháp cuối cùng phục vụ cho
vấn đề nhân đạo, pháo đài cuối cùng trên bờ biển Thái B́nh Dương.
Nhơn viên của bệnh viện là người Việt Nam, được các bác sĩ tự nguyện
và các chuyên gia kỹ thuật người Pháp huấn luyện đến nơi đến chốn.
Bệnh viện tự túc điều hành bằng lợi tức của ḿnh. Một khế ước có gia
hạn được kư kết cho cơ sở nầy. Nhưng sau chuyện xảy ra ở Trung Tâm Y
khoa Calmette tại Phnom Penh và ở bệnh viện dân sự tại Vũng Tàu, th́
không một bác sĩ dân sự Pháp nào c̣n muốn tự nguyện phục vụ cho bệnh
viện Grall nữa. Tất cả nhân viên hết sức tận tâm đáng khen ngợi, với
một tŕnh độ kỹ thuật cao khó t́m được bên Pháp, đều đ̣i hỏi phải
được di tản cùng với bệnh viện.
Vốn là một bệnh viện tư, tự túc điều hành với lợi tức cơ hữu của
riêng ḿnh từ các bệnh nhân thường là giới thượng lưu của Sài G̣n,
Grall bây giờ có nguy cơ thiếu thu nhập. Hơn nữa những "ông chủ mới"
của Sài G̣n lại trưng dụng 100 giường cho toàn những quân nhân Bắc
Việt nằm, bệnh viện lại phải chịu tốn nhơn viên và phương tiện thuốc
men để điều trị miển phí cho họ nữa. Chẳng những v́ thiếu cả nhân
viên lẩn ngân khoản điều hành mà bệnh viện Grall không thể tiếp tục
hoạt động nữa được, nhưng v́ người ta đă chánh thức thông báo cho vị
tướng chỉ huy bệnh viện biết là không gia hạn khế ước của cơ sở nầy
nữa. Vă lại ở đây chắc rồi cũng sẽ giống như ở Hànội trước kia thôi,
các tài liệu về y, và dược của Pháp chắc chắn sẽ phải nhường chỗ cho
sách và thuốc của Liên Xô, ngành y học Pháp và đồng thời kỹ nghệ y
dược của Pháp tức khắc sẽ bị phá sản.
"Nhân dân lao động tốt sẽ làm chủ tập thể đất nước, kết hợp sức mạnh
lại nhằm tạo một đời sống ấm no và hạnh phúc cho mọi người ", người
ta đă tuyên bố như vậy. Sẽ không c̣n chỗ cho tự do kinh doanh, cũng
như tự do thu nhập.
- "Ǵ th́ ǵ họ cũng phải cần đến chúng ta thôi, chúng ta sẽ đem đến
cho họ kỹ thuật, chuyên viên và kỹ thuật gia mà họ đang thiếu", có
người ranh mănh nói như vậy.
Nói như thế là không chịu hiểu tính tự phụ của những người "chủ
mới". Nói như thế là chưa biết đánh giá được cái "thực tài" của
người Việt Nam mà chúng ta cũng như những người khác đă từng đào
tạo, họ hoàn toàn có đầy đủ khả năng và thích hợp cho tất cả mọi
việc làm, mọi nghành nghề.
Nói như thế là không hiểu và không biết là cường quốc Liên Xô đang
hết ḷng giúp đở cho họ, đă gởi sang cho họ một số lớn chuyên viên
kỹ thuật để thay thế cho người Pháp chúng ta.
Những xí nghiệp, hăng xưởng đang sắp sửa biến thành tài sản của Nhà
Nước, hoặc tài sản của nhân dân rồi. Không có một người Pháp nào
chịu để mất uy tín của ḿnh và hơn thế nữa không thể chịu mất đi
khoản lợi nhuận của họ, trong lúc họ đă nghe và biết được là kể từ
nay không c̣n một lợi tức riêng nào cho cá nhơn nữa. Người ta đă
nghe kể chuyện về một nhà máy của hảng Michelin, hoạt động dưới một
chế độ xă hội ở Algérie, trường hợp đó chưa đủ sao ? Không có một
người Pháp nào ở Sài G̣n không thấy rơ chuyện đó, dù người đó là
công chức của ṭa Đại Sứ, ṭa lănh sự hay trong bất cứ chương tŕnh
nào của chánh phủ, dù người đó là luật sư, buôn bán, dân trồng tỉa
hay kỹ nghệ gia: không những chỉ nói đến các nhà máy, xí nghiệp,
hăng xưởng và lợi tức cá nhơn mà phải nói là tất cả những ǵ mà
người Pháp c̣n đang điều hành tại Miền Nam Việt Nam cũng đều sẽ bị
mất hết, vô phương cứu văn.
Tất cả những chuyện đó đều đưa tới một kết luận: dù cho có được
những sự thương lượng ngoại giao nào đi nữa th́ đây cũng vẫn là một
sự sụp đổ, một sự phá sản hoàn toàn của đường lối chánh trị của nước
Pháp ở Viễn Đông, nơi đó ở trên bờ biển Nam Hải, bên cạnh của một
trong những trung tâm kinh tế thế giới của ngày mai, nơi mà người
Pháp chúng ta đă từng có một chỗ đứng vững mạnh và quan trọng hàng
đầu về kinh tế, văn hóa, chánh trị...tất cả, ngày mai nầy sẽ không
c̣n ǵ nữa, và người Pháp chúng ta không c̣n là "cái thá" ǵ hết....
Tại Miền Bắc Việt Nam, chỉ c̣n có 18 người Pháp mà thôi, mà hết 17
người là nhân viên của Ṭa Đại Sứ.
C̣n tại Cam Bốt, không theo lề lối thông thường, nước Pháp đă công
nhận và mở bang giao trước với Hoàng Thân Shianouk lúc ông nầy c̣n ở
Bắc Kinh sợ chưa dám về nước, vậy mà người Pháp cũng bị đuổi đi khỏi
Cam Bốt một cách nhục nhă.
Tại Lào, nơi c̣n một phái bộ quân sự Pháp, th́ Ṭa Đại Sứ Pháp bắt
buộc nhân viên của ḿnh công chức cũng như quân nhân, ủng hộ chánh
thức phe Pathet Lào cộng sản vừa đoạt chính quyền sau khi thử nghiệm
thất bại một chánh phủ ba thành phần. Pathet Lào đă từ khước sự có
mặt của người Hoa Kỳ, và đă kêu gọi đến Liên Xô. Người Nga đă tới và
đă mở lănh sự quán ở tất cả các tỉnh của Lào. Pathet Lào cũng đă
trục xuất, vừa êm thắm vừa bằng biện pháp mạnh, tất cả những người
Lào "quốc gia" nào có bất cứ dính líu với người Pháp. Trong lúc đó
tất cả kiều dân Pháp cũng phải sửa soạn "khăn gói" sẵn sàng lên
đường về nước.....
Trong khi chỉ có sự việc bắt giữ một con tin nào đó thôi cũng đă làm
cho dư luận quốc tế phẩn nộ ầm lên đổ tội cho luật lệ quốc tế yếu
hèn, th́ tại Việt Nam có đến những 12.000 dến 15.000 người Pháp bị
cầm giữ tại chỗ cùng với tài sản của họ, mà tuyệt nhiên không thấy
một ai có được một phản ứng nào ! như vậy Chánh Phủ Pháp có thấy
thoải mái lắm hay không ? Chánh Phủ Pháp có c̣n biết cách nào để
ch́u chuộng ve văn Liên Xô hơn được nữa hay không, v́ đây là công
tŕnh sự nghiệp của họ kia mà. Ông Marchais tổng bí thư đăng cộng
sản Pháp cũng chưa chắc làm ǵ hơn được, c̣n ông Mittérand của đăng
xă hội th́ chắc chắn không dám làm ǵ hơn rồi .
Nước Pháp vừa hoàn toàn thua một trận chiến cuối cùng tại Đông
Dương. Cái giá phải trả thiệt t́nh chưa tính ra được, nhưng xem
chừng như quá đắt!
Tổn phí ước tính sẽ lên đến bao nhiêu tỷ quan đây ? cái giá phải trả
cho bao nhiêu sinh mạng con người, hoặc cho tinh thần rách nát không
sao hàn gắn lại được của họ ? Và làm sao nước Pháp của chúng ta chịu
nổi sự tổn thương nặng nề cho uy tín, danh dự, và quyền lợi của ḿnh
đây ?
Người Pháp chúng ta có bao giờ quan tâm đến những câu hỏi nầy không,
hỡi những người đang đi nghỉ hè một cách yên ổn kia?
NHỮNG HẬU QUẢ TRONG CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU
Chiến xa của Liên Xô đă tiến vào Sài G̣n.
Sau khi Hoa Kỳ lầm lỗi bỏ cuộc tại Việt Nam th́ nỗ lực của Liên Xô
rất là chính xác trong cả ư định và quyết định mở chiến dịch Hồ chí
Minh, dẫn đến chiến thắng cuối cùng là chiếm được hoàn toàn Miền Nam
Việt Nam. Đối với chiến quả nầy, phải nói là chính Liên Xô là người
đă đưa ư kiến cho Bắc Việt (xúi giục), và đă góp phần chi viện tất
cả mọi phương tiện cần thiết cho quốc gia nầy, cho nên giờ đây họ
đang tính tới việc khai thác thành quả vừa do họ mà đạt được, và
cũng có thể nói là đạt được cho chính họ.
Bằng chứng đă quá rơ ràng. Sự kiện không thể chối cải được. Ngay tại
Lào cũng thế, tại đây giải pháp chánh trị đă đi tới thành công, một
sự thành công mà từ lâu người Lào đă không bao giờ đạt được qua một
cuộc chiến có vơ trang, để tranh đấu bảo vệ sự tự do của họ. Mặc dầu
người ta không biết việc ǵ sẽ xảy ra cho Cam Bốt, một quốc gia bị
kẹp giữa hai chế độ cộng sản Việt Nam và Lào, nhưng người ta cũng
nghĩ được là những ǵ đang đến và sẽ đến cho người Khmer chắc chắn
cũng giống như vậy thôi.
Hoa Kỳ đă yểm trợ cho cuộc chiến dành độc lập tự do của ba quốc gia
Việt Nam Lào và Cam Bốt. Nay dù cho rằng họ bỏ cuộc hay họ phản bội,
tất cả đều có nghĩa là họ đă đồng ư cho Liên Xô hành động, v́ có ai
dám khẳng định là họ không thấy hay không ước tính trước được những
hậu quả sẽ đến sau đó ?
Những ǵ đă xảy ra trên toàn cơi Đông Dương đều là chiến thắng của
Liên Xô và là sự chiến bại của Hoa Kỳ. Chỗ nào người ta cũng thấy
Hoa Kỳ ra đi một cách nhục nhă, ra đi khỏi các quốc gia mà họ đă
từng yểm trợ, bênh vực, và đở đầu, để cho Liên Xô đến thay thế, đó
mới là những kẻ thật sự chiến thắng, thật sự chiếm hết toàn bộ bán
đăo Đông Dương.
Rơ ràng là Hoa Kỳ đă có thỏa hiệp như vậy rồi, bằng cớ là họ đă
thành lập lại tuyến pḥng thủ Thái B́nh Dương, dựa trên các pháo đài
Nhật bản, Úc Châu và các đăo trong vùng. Như vậy th́ coi như Hoa Kỳ
đă bị Liên Xô trục xuất ra khỏi lục địa Á Châu. Sự kiện nầy làm cho
người ta phải tự hỏi xem tại sao ? có một ư định ǵ đây ngoài hành
động được mang nhăn hiệu là "giải phóng quốc gia" mà bây giờ không
c̣n một ai dám tin được nữa?
ĐI TỚI MỘT SỰ ĐỐI ĐẦU TRỰC DIỆN GIỮA TRUNG QUỐC VÀ LIÊN XÔ
Quốc gia chính yếu quan tâm đến vấn đề nầy đă tự giải thích. Họ đă
có nói rơ cho dư luận Pháp biết rồi nhưng người Pháp lúc nào cũng ưu
tư mà lúc nào cũng không chịu chú ư ǵ cả. Trong một chuyến viếng
thăm nước Pháp, người ta có nói là trong ṿng 10 năm tới, nước Pháp
sẽ là một nước theo cộng sản. Ông Lư tiên Niệm, Phó Thủ Tướng nước
Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa c̣n nói tường tận hơn tại Raiwalpindi
của Pakistan, đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề:
- "Mặc dầu hiện nay các siêu cường quốc đang dính cứng vào một cuộc
khủng khoảng chánh trị và kinh tế khó mà gở ra cho nổi, nhưng họ
không bao giờ chịu buông bỏ mộng làm bá chủ toàn cầu. Trong hiện tại
th́ họ tranh đua nhau ráo riết tại Âu Châu, Trung Đông, trong vùng
biển Ấn Độ Dương, vùng vịnh Bengale, nhất là vùng Đông Nam Á Châu,
cũng như các vùng khác trên thế giới nầy."
Và ông ta c̣n nêu rơ phương thức bố trí lực lượng Liên Xô bao quanh
Trung Quốc nữa. Bây giờ th́ Hoa Kỳ đang yếu thế, tất cả mọi sự việc
đều h́nh như là rất ăn khớp với nhau. Thật vậy, người ta có thể tin
rằng những chỗ trống do Hoa Kỳ bỏ cuộc rút đi đều được Liên Xô đích
thân trám vào, hoặc trung gian đàn em thay thế Liên Xô trám vào, tất
cả đều nhằm một mưu đồ chiến lược là bao vây Trung Quốc.
Có một vài khuynh hướng sành sỏi h́nh như đă thấy trước được một
cuộc chiến tranh gây hấn từ phía Liên Xô đối với Trung Quốc, mà họ
gọi là một cuộc chiến tranh pḥng bị, trước khi Trung Quốc vượt qua
được giai đoạn h́nh thành một lực lượng nguyên tử năng. Mao trạch
Đông đă nói rơ với ông Nixon trong chuyến viếng thăm mới đây của ông
nầy tại Bắc Kinh, h́nh như không ngoài những lư do nào khác.
Thật ra th́ hiện nay Trung Quốc dường như đă vượt qua được giai đoạn
khó khăn nhất về khoa học và kỹ thuật của ngành nguyên tử lực rồi.
Sự tiến bộ vượt bực nầy đă làm cho các chuyên viên Hoa Kỳ hoang mang
đến hoảng hốt và dĩ nhiên các nhà sưu tầm người Pháp cũng vậy nữa.
Ngày 26 tháng 7 năm 1975, có lẽ để cảnh cáo hay trả lời cho những
hành động của Liên Xô, Trung Cộng đă phóng lên và đặt thành công vào
quỷ đạo trái đất một vệ tinh thứ ba, và họ cũng nói lên công khai
không cần dấu diếm ǵ đó là một vệ tinh gián điệp có nhiệm vụ canh
chừng động tịnh của Liên Xô.
Tại Trung Quốc, người ta không tin vào thời kỳ "ḥa hoản" mà chỉ
thấy có chiến tranh; về chuyến bay của phi thuyền Apollo-Soyouz
người ta nói rằng có một "pha đấu kiếm" tay đôi trên không gian:
"các dân tộc trên thế giới đều biết rơ là những phi hành gia có dấu
dao găm trong tay khi họ bắt tay nhau" người ta nói như vậy tại Bắc
Kinh.
Từ việc phóng vệ tinh gián điệp nói trên, người ta có thể rút ra một
kết luận duy nhất không lầm lẩn được là: Trung Quốc đă có loại hỏa
tiển tầm xa có khả năng mang tới bất cứ ở đâu trên lănh thổ Liên Xô
và trên thế giới những quả bom mà họ điều khiển được. Đó là một lời
cảnh cáo: Trung Quốc đă cho người ta hiểu rằng họ đă bước qua được
cái "ngưởng cửa giới hạn" nguyên tử rồi, và nếu Liên Xô tung ra một
cuộc chiến th́ Trung Quốc không coi đó là một cuộc hành quân có tính
cách pḥng bị hay một cuộc chiến có giới hạn nữa, mà coi đó là môt
cuộc chiến tranh thật sự, toàn diện, có nguy cơ hủy hoại tàn phá cả
đôi bên thù nghịch, dù là giữa anh em cộng sản với nhau.
V́ lẽ đó, do tinh thần đạo đức của Hoa Kỳ đang bị tuột dốc, do chính
sách "bao vây ngăn chặn" của Liên Xô trong việc bố trí lực lượng bao
quanh Trung Quốc, và do sự tăng tiến vượt bực của lực lượng nguyên
tử của Trung Hoa, một thế "dung ḥa" mới sẽ được h́nh thành. Sự đối
đầu trực tiếp giữa hai siêu cường cộng sản sẽ thay thế cho sự đối
đầu giữa Đông và Tây. Và đương nhiên người ta sẽ trở lại những sai
lầm trong ṿng lẩn quẩn như trước: chiến tranh lạnh, sống chung ḥa
b́nh, rồi đến một sự ḥa hoản giả tạo với những kho vũ khí cao như
núi, và cuối cùng rồi cũng v́ thế mà phải tiếp tục tạo ra những cuộc
chiến giới hạn nữa, những cuộc gây hấn nho nhỏ để từ đó người ta có
khả năng châm lửa vào ng̣i, giữ măi ngọn lửa chiến tranh, do sự thúc
đấy, khuyến khích và yểm trợ của các siêu cường trong sự phân tranh
của họ.
Như vậy th́ chẳng những chiến tranh không bao giờ chấm dứt ở Trung
Á, ở Phi Châu được, th́ tại sao lại chấm dứt ở Âu Châu và ở Đông Nam
Á Châu được ? Chắc chắn là như vậy rồi. Ngay như ở Việt Nam và trên
bán đăo Đông Dương, chiến tranh chỉ tạm ngưng mà thôi. Người dân chỉ
chấp nhận một cuộc sống khắc khổ kiểu cộng sản chỉ v́ họ phải chịu
hy sinh cho một cuộc đấu tranh mà người ta nói là cuộc "chiến tranh
giải phóng", một cuộc chiến đă không bao giờ chấm dứt được mà c̣n có
khả năng tái diễn nữa ....
Những sự tranh chấp tiềm tàng đă có giữa người Thái Lan, Khmer và
Việt Nam . Ngay tại Việt Nam cũng vẫn c̣n chưa yên: dân tộc thiểu số
miền thượng du đang đ̣i quyền tự trị, ở hậu phương c̣n răi rác tàn
quân VNCH chưa thanh toán xong, c̣n những chiến khu đang h́nh thành,
tuy nhỏ không đáng kể nhưng các chiến binh c̣n súng đạn thà chọn lối
sống tụ do trong rừng rậm c̣n sướng hơn lối sống trong các trại tù
"tập trung cải tạo" .
Một tờ báo bên Bỉ đă nói về "hạnh phúc của người dân Việt Nam " như
sau:
- "Sài G̣n đă bị chiếm, nhưng đó không phải là "giải phóng" nổi đau
khổ của "nguời dân" như người ta đă từng tuyên truyền. Mà trước đó
đă có người dân nào được hỏi qua ư kiến đâu ? Dân chúng bây giờ đang
sống dưới một chế độ mà không một ai dám nêu tên của nó lên, sau bao
nhiêu năm sống dưới nhiều chế độ khác nhau tuy chưa thỏa măn được
đúng nguyên vọng của họ... Các siêu cường chỉ áp đặt một nền chánh
trị dựa theo đường lối chiến lược của họ mà không bao giờ dựa trên
nền tảng ư kiến của người dân" .
Qua biến cố của quốc gia Việt Nam , có lẽ rồi đây chiến lược toàn
cầu nầy phải có một sự chuyển biến sâu xa hơn.
BREST VẪN C̉N NẰM TRONG NƯỚC PHÁP CHÚNG TA KIA MÀ!
Cán cân lực lượng giữa hai siêu cường Nga Mỹ xem chừng giống như một
ṭa lâu đài xây cất lên bằng những lá bài tây, rất mong manh, các
lực lượng của Liên Xô th́ càng ngày càng lớn mạnh và ư chí của những
nhà lănh đạo Liên Xô th́ không chút suy suyển, trong lúc Hoa Kỳ th́
vẫn là một sức mạnh to lớn về vật chất nhưng không có chút sinh khí
nào, không hồn, không có ư chí...cho đến khi họ chữa trị xong bịnh
hoại huyết của họ.
Thế nhưng dù muốn dù không, với sức mạnh vật chất vô song của họ,
Hoa Kỳ cũng đă là quốc gia lănh đạo của Thế Giới Tự Do, nay đùng một
cái các nước thuộc Thế Giới Tự Do nầy phút chốc bổng cảm thấy lạc
lơng, vừa không có sức mạnh của chính ḿnh vừa mất hết ḷng tin ở sự
che chở của quốc gia đầu đàn Hoa Kỳ của họ. Dường như sự đối đầu
Đông Tây có một sự chuyển biến quan trọng, và nếu Liên Xô trám được
vào các khoản trống mà Hoa Kỳ tạo ra, th́ đó chính là những bằng
chứng cho thấy rơ ư định và hành động của quốc gia nầy. Người ta sẽ
càng thấy rơ hơn khi theo dỏi được đường lối chánh trị của họ: Họ có
nhu cầu gây tạo cho được một hậu phương vững mạnh. Tại Âu Châu, họ
đang muốn tái diễn lại hành động ở Á Châu. Để đạt được kết quả nầy,
như thường lệ, một mặt họ dựa trên sức mạnh của vũ khí chiến cụ, một
mặt họ dựa trên điều mà họ gọi là "ḥa hoản" nhưng chỉ là hành động
ve văn giả nhân giả nghĩa thôi, mặt lúc nào cũng vẫn giả vờ là bạn
bè. Về mặt nầy, họ muốn có "ḥa b́nh" v́ họ cần có ḥa b́nh.
Như vậy người Mỹ được họ xem là những người ngoại cuộc. Bằng cách
nầy hay cách khác họ sẽ t́m cách "tống cổ" người Mỹ ra khỏi Âu Châu,
v́ duy nhất chỉ có người Mỹ là có thể chống lại ư đồ của họ mà thôi.
Nhưng họ cũng chống lại việc h́nh thành một Âu Châu thống nhất, v́
đối với họ khi đă thống nhất được rồi th́ Âu Châu trong một thời
gian nào đó sẽ thay thế Hoa Kỳ. Những quốc gia nhỏ lẽ loi của Âu
Châu, dưới áp lực chánh trị và quân sự của Liên Xô, lại không đủ khả
năng tự pḥng thủ cho ḿnh, bắt buộc sẽ phải chấp nhận quyền lănh
chúa của Liên Xô mà thôi. Nói như thế th́ đâu cần các quốc gia Tây
Âu phải là cộng sản, Liên Xô chỉ cần sấp xếp thế nào đó để nuôi
dưỡng những chánh phủ mà họ có khả năng ch́u chuộng được, để sát
nhập kỹ nghệ Âu Châu và kỹ nghệ Liên Xô lại...chừng đó th́ Liên Xô
sẽ là đệ nhất siêu cường, mạnh nhất thế giới, tha hồ tự do hành động
theo mưu đồ chiến lược tương lai của họ.
Như vậy, liệu chúng ta có phải trở về với cái thuyết của Đô đốc
Castex, thuyết mà hầu hết các sử gia đều hết lời ca tụng về giá trị
của nó, và những chiến lược gia bây giờ mới nh́n nhận đó là thực tế
: "Trung tâm tranh chấp của thế giới sẽ là trục đi từ Vlapostok (cực
đông Liên Xô) đến Brest (tây bắc nước Pháp)." Nhưng Brest vẫn c̣n là
một thành phố của nước Pháp chúng ta, do đó nước Pháp vẫn c̣n là mục
tiêu quyết định và mong muốn của chiến lược nầy.
Mong rằng người Pháp chúng ta phải thấy rơ được điều đó, và mong
rằng chúng ta nhớ rơ là ở bên kia chân trời, những anh em người Việt
Nam của chúng ta đă phải trả một cái giá quá đắt như thế nào, và họ
sẽ c̣n phải trả nữa, như chúng ta trong một t́nh h́nh chiến lược
tương tự như thế nầy!
XIN GIĂ BIỆT VIỆT NAM
Đến đây tác giả xin lỗi bạn đọc tự thuật lại những ǵ đă xảy ra cho
chính ḿnh.
Như thế là tôi đă đến Việt Nam, vừa mang nhăn hiệu phóng viên của
tuần báo "Carrefour" để dễ đi săn tin biến cố, vừa có sự ủy thác của
"Hội Chiến Binh Liên Hiệp Pháp" để thiết lập một đường dây cứu trợ
cho những người tỵ nạn và những nạn nhân của cuộc chiến tranh tàn
khốc nầy.
Sau ngày 30/4, chiếu theo những bản "yết thị" của đương kiêm chánh
quyền được dán lên khắp các đường phố, tôi chỉ c̣n cách là phải đi
tŕnh diện để cho họ kiểm kê như tất cả mọi người khác. Khi đă điền
và nộp xong các giấy tờ, tôi được bảo cho biết là ngày mai tôi lại
phải đến đây để nhận một "biên nhận", giấy nầy được coi như là "giấy
phép thông hành" dùng đi trong thành phố.
Ngày hôm sau, trong lúc tất cả những người khác đều nhận được giấy
thông hành của họ th́ tôi được thông báo là giấy của tôi chưa kư
xong.
- "Ngày mai ?" Tôi hỏi.
- "Đâu có biết được" Họ trả lời ỡm ờ.
- "Ngày mốt ?" Tôi lại hỏi.
- "Nếu muốn biết th́ ông nên hỏi ông ủy viên chánh trị, người mà ông
thấy đang đứng ngoài sân kia ḱa ", một người con gái dễ thương vừa
ngạo nghễ nói với tôi như vậy, vừa nói vừa đưa tay chỉ một người đàn
ông nhỏ con mập mạp đang xách một chiếc cập da trên tay.
Tôi đi lại gặp ông ta trong lúc ông ta đang tiếp chuyện với hai
người Anh. Để trả lời câu hỏi "đến bao giờ th́ tôi có thể lại đây
nhận giấy thông hành của tôi được", th́ như một thầy tướng số ông ta
đáp :
- "Ông là Tướng Vanuxem, ông không bao giờ có được giấy thông hành,
và ông phải biết là tại sao rồi."
- "V́ ông nói với cái giọng điệu nầy, tôi sẽ báo cho Đại Sứ của tôi
biết vậy." tôi trả lời ngay.
Trong lúc tôi rời khỏi nơi đây, ông ta c̣n nói với hai người Anh mà
ông ta đang c̣n tiếp chuyện, cố ư nói lớn tiếng để cho tôi nghe thấy
:
- "ông tướng nầy có hai bàn tay dính đầy máu !"
Tôi quay lại tức khắc và chỉ thẳng vào mặt ông ta, tôi nói:
- "Tôi không cho ông được phép nói như thế.."
Ông ta bỏ đi nhanh vào văn pḥng.
Ông Đại Sứ tiếp tôi sau một vài phút chờ đợi. Ông khuyên tôi nên
b́nh tĩnh và mời tôi sang văn pḥng bên cạnh để ghi tên mà không nên
ghi nghề nghiệp. Đó là một đ̣n mưu mẹo của ông thôi, v́ ông không
thể cho tôi một chỗ trú trong ṭa đại sứ, nơi đó ngoài quyền ưu đăi
miễn trừ của ông và của 13 nhơn viên pḥng vệ ra, ông bắt buộc phải
trao tôi ngay cho họ nếu họ đ̣i hỏi. (Tại Phnom Penh, sự kiện đă xảy
ra cho thấy là chẳng những không có một tư ǵ gọi là an ninh trong
ṭa đại sứ, bởi v́ cuối cùng người ta đă phải trao lại những người
mà cộng sản đ̣i hỏi, nếu không th́ ṭa đại sứ sẽ bị đóng cửa ngay.
Sau đó những người được trao trả bị hành quyết ngay tại chỗ). Tôi
cũng thử làm theo lời ông Đại Sứ. Công việc xem ra cũng có kết quả.
Tôi mới nghĩ ra rằng ông Đại sứ của ḿnh có lư, và tôi đă có ư nghĩ
không mấy tốt đối với Bộ Ngoại Giao.
Như vậy là tôi trở lại lần nữa. Một ủy viên chánh trị tiếp tôi lần
nầy, vẫn với thái độ hằn học:
- "Chính ông là đại tá Vanuxem? (phải chăng một phút kỷ niệm của
Miền Bắc Việt đă làm cho tôi trẻ lại, trở lại cấp bậc đại tá ?), ông
đă giết quá nhiều người Việt Nam . Ông là một tội phạm chiến tranh.
Ông sẽ được xét xử, và chánh phủ của chúng tôi sẽ không bao giờ tha
cho ông đâu, không, không, không bao giờ tha đâu."
Đại Sứ Pháp nhấn mạnh một lần nữa để tôi không xin tạm trú tại ṭa
đại sứ, và tôi đành âm thầm ẩn náu tại nhà một người giáo sư bạn
tôi, một trong vài dăy nhà dành cho những người Pháp phục vụ cho các
chương tŕnh hợp tác văn hóa, các dăy nhà nầy tuy được đặt dưới sự
bảo vệ an ninh của Pháp, nhưng xem có vẻ bấp bênh lắm. Thời gian
trôi qua...Sự kín đáo coi như được giữ ǵn đúng cách. Sáng ngày thứ
sáu hôm đó, người ta tin cho tôi biết là có một máy bay Illyouchine
sấp sửa đáp xuống sân bay Tân sơn Nhứt, phi cảng của Sài G̣n, và sẽ
ra đi, qua Vientiane (Lào) với khoản 40 nhà báo Pháp. Ai cũng thấy
thèm muốn được đi nhưng người ta nói là v́ lư do kỹ thuật, chuyến
bay đó sẽ phải được dời lại đến ngày hôm sau.
Chiều hôm đó, vào khoản 5 giờ, giờ Sài G̣n, người ta đến tận nhà tôi
đang ở, nơi mà cho đến giờ nầy tôi vẫn tưởng là kín đáo không ai
biết, để giao cho tôi một phong b́ lớn, gọi tôi đến tŕnh diện tại
Bộ Ngoại Giao vào lúc 8 giờ tối cùng ngày. Thật là kỳ lạ, v́ vào giờ
nầy lẽ ra Bộ Ngoại Giao phải đóng cửa nghỉ vắng tanh rồi! Tôi điện
thoại cho vị Tùy Viên Quân Sự Pháp để cho có người biết việc nầy, và
với một bộ quần áo thật đẹp, chiếc cà vạt thắt thật vừa vặn, tôi đến
Bộ Ngoại Giao, tŕnh diện ngay tại cửa dành riêng cho dân chúng.
Một người có lẽ là công chức đang đứng đợi tôi ở đó. Anh ta dẫn tôi
đi ṿng vo quanh các hành lang phía bên kia ṭa nhà để đưa tôi vào
một pḥng khách lớn mà tôi biết rất rơ, v́ đây là nơi mà tôi đă được
các vị bộ trưởng trước kia thường tiếp kiến. Một cô gái đẹp tại đây
nhận ra tôi: "Ồ, tôi biết ông nhiều, tôi thường thấy ông ở đây, tôi
là thông dịch viên ở đây từ lâu rồi". Ngay sau đó một người đàn ông
bước vào pḥng. Ông nầy cao lớn so với người VN b́nh thường, thân
h́nh như một lực sĩ, gương mặt b́nh thản không có vẻ ǵ là Á Đông
cả, với một mái tóc chải rất đẹp, mặc quân phục màu xanh lá cây mà
không có đeo cấp bậc. Không nói một câu, anh ta khoát tay ra hiệu
cho tôi ngồi xuống một ghế dài và sau đó anh ta cũng ngồi xuống bên
cạnh tôi. Anh ta bắt đầu bằng một diễn văn bằng tiếng Việt và cô gái
thông dịch lại rất chính xác:
- "Ông là đại Tướng Vanuxem. Ông đă cố t́nh vào Việt Nam, gian dối
lấy cớ là hành động nhơn đạo, nhưng thật ra ông đến đây để bảo vệ
quyền lợi của "thực dân mới" Hoa Kỳ và giúp cho lực lượng của chánh
phủ bù nh́n. Do vậy mà Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam
đă có quyết định trục xuất ông ra khỏi lănh thổ Việt Nam . Đây tôi
đọc cho ông nghe bản văn trục xuất liên quan đến trường hợp của
ông."
Như thế là xong.
- "Ngày mai, 6 giờ sáng giờ Hà Nội, tức là 7 giờ sáng giờ Sài G̣n,
ông phải ra sân bay Tân sơn Nhứt bằng phương tiện của ông, với 120
đô la, tiền ông phải trả cho chuyến bay Illyouchine, chỗ ngồi đồng
hạng, để đưa ông đến Vientiane."
Tuy nhiên tôi bắt buộc phải trả lời. Nh́n cử chỉ và dáng điệu của
người vừa tiếp chuyện với tôi, người ta có thể tin được là không
phải chỉ có cộng sản trong Chánh Phủ Cộng Ḥa Lâm Thời Miền Nam (
GRP ), một chánh phủ mà người ta không biết được ǵ nhiều. Tôi nói:
- "Nh́n bộ quân phục của ông, tôi nghĩ ông là một quân nhân. Các ông
tranh đấu cho lư tưởng của các ông, th́ tôi cũng tranh đấu cho lư
tưởng của tôi, làm sao các ông lại trách tôi được? Ngoài ra, v́ tôi
là một người có đạo Thiên Chúa, là con người "duy tâm", cho nên là
kẻ thù của con người "duy vật" dù người nầy ở về phía chủ nghĩa tư
bản hay chủ nghĩa mác xít cũng vậy thôi. Tôi không phải đến đây để
bảo vệ quyền lợi của Hoa Kỳ, mà đến đây v́ t́nh nghĩa với một nước
Việt Nam đang trong đau khổ, một quốc gia mà tôi xem như quê hương
thứ hai của tôi, một quốc gia mà tôi hằng chúc cho luôn được hạnh
phúc...".( Hai chữ Việt Nam ở đây, cũng như trong toàn bộ quyển sách
nầy, tác giả chỉ có ư muốn nói là Miền Nam Việt Nam, là Việt Nam
Cộng Ḥa- chú thích của dịch giả-)
Anh ta chăm chú nghe tôi nói, mắt nh́n thẳng lên cao. Rồi anh ta
đứng dậy, tôi tưởng là cuộc tiếp kiến như vậy là đă xong nên tôi
cũng đứng dậy. Nhưng anh ta đi lại đứng ngay trước mặt tôi, ngay
giữa pḥng khách, thẳng người trong tư thế đứng "nghiêm" và nói với
tôi rằng:
- "Thưa đại tướng, chúng tôi rất cảm động về những lời chúc phúc cho
nước Việt Nam của đại tướng, và chúng tôi đoan chắc với đại tướng là
chúng tôi luôn luôn xem đại tướng là một quân nhân thẳng thắng và
trung thực."
Và anh ta đưa tay ra cho tôi bắt.
Không thể nghĩ là tôi rất cảm động đến độ nào, tôi bước ra cửa và đi
vào hành lang đă đưa tôi đến đây lúc năy. Nhưng người ta gọi tôi
lại: có ai đó đă cho một lệnh ngắn gọn để mở cửa danh dự của Bộ
Ngoại Giao cho tôi ra, và tôi từ từ bước đi, đầu ngẩng cao, hai lồng
ngực thở phồng lên đầy kiêu hănh, với cả một sự chững chạc không thể
tả được.
Ngày hôm sau, tại Tân sơn Nhứt, sau một lúc chờ đợi, tôi được lên
chiếc Illyouchine cùng với gần 40 nhà báo. Trên phi cơ, một sĩ quan
đi kèm theo tôi đă nhă nhặn hỏi và thu lại bản văn trục xuất tôi ra
khỏi Việt Nam, làm cho tôi cụt hứng không c̣n có thể treo vào tủ
kính bảo tàng của tôi được nữa, bên cạnh tờ giấy trả tự do ra khỏi
nhà tù "La Santé" của tôi. Tiếc thật!
Phi cơ có vẻ không được bảo đảm cho lắm. Khó nhọc lắm nó mới cất
cánh lên được. Ở dưới kia là thành phố Sài G̣n với những đại lộ
thẳng tấp giữa những khúc quanh co uốn khúc của con sông Sài G̣n và
cả một vùng đồng ruộng với những con rạch nhỏ ôm lấy cảnh vật như
một con bạch tuột to lớn giữa những ruộng lúa xanh um đầy nước phản
chiếu lóng lánh ánh sáng của mặt trời buổi b́nh minh.... Rồi không
c̣n thấy được bóng dáng một người nào nữa, và bây giờ th́ đến màu
xanh lục của núi rừng...Xa xa, một lần chót tôi c̣n thấy ḥn ngọc
của Viễn Đông trong một vũng bọt bèo u ám, một làn sương mù trắng
xóa bốc lên từ mặt đất như một vành khăn tang....
Thế là tôi đương nhiên rời khỏi Việt Nam vĩnh viễn rồi: Nước Việt
Nam từ đây đă là một trong những nước mà tôi và những bạn bè của tôi
đă tổn phí quá nhiều, một nước mà tôi bị cấm không bao giờ được bước
chân trở lại đó nữa, một nước mà nơi đó vẫn c̣n trái tim của tôi,
ôi! tương tự như tôi đă bị lưu đày ra khỏi cuộc sống của chính bản
thân tôi vậy.... Và tiếc thay không ở đâu có được những cây phượng
vĩ đỏ rực, những cây hoa sứ trắng ngát hương thơm như ở quốc gia
Việt Nam nầy, một quốc gia mà đâu đâu cũng chỉ thấy có một vẻ đẹp
yêu kiều và mỹ lệ . Xa rồi, xa lắm rồi, bây giờ nước Việt Nam đă
không c̣n nữa rồi ! Người ta không c̣n thấy được gương mặt đầy lệ,
không c̣n nghe được tiếng thổn thức sâu xa thống khổ của quốc gia
nầy nữa, quốc gia nầy đă phải đau đớn tự chôn sống ḿnh trong một
nấm mồ kín không c̣n cách ǵ có thể chui ra được nữa.
Người ta sẽ không c̣n thấy được những cái nh́n van xin của dân chúng
nữa, cả đàn ông lẫn đàn bà, họ đưa cả hai tay ra hướng về chúng ta
mắt đẫm lệ van nài:
- "Hăy cứu chúng tôi với ! Hăy cứu vớt đàn con chúng tôi với !"
Những người đàn bà nầy là những người có tŕnh độ học thức đàng
hoàng, giờ đây mắt họ sưng húp, v́ không thể cầm ḷng được nên phải
khóc thật to lên cho vơi nổi đau khổ của ḿnh. C̣n những người đàn
ông kia có ai bảo là không cứng rắn, nhưng trong một phút yếu ḷng
v́ quá đau khổ nên khóc than run lên cả thân ḿnh, van nài:
- " Hăy cho tôi xin một chiếu khán nhập cảnh.",
Hay một người nọ tỵ nạn trong bệnh viện Grall:
- "Tôi bé nhỏ quá, nhưng tôi là cựu trung sĩ pḥng nh́ của các ông,
do vậy mà họ sẽ cắt cổ tôi. Nhưng mà ngay như nếu tôi có được một
chiếu khán xuất cảnh th́ làm sao tôi có đủ tiền để mua vé máy bay
cho vợ và 8 đứa con của tôi đây ".
Và c̣n có những thanh niên nam nữ bế con khẩn thiết van nài:
- "Mua giùm tôi đứa con nầy đi ông ơi, Mua giùm tôi đi.."
Ở đây, "mua" có nghĩa là "nhận làm con nuôi" hay rộng hơn là "nhận
chúng tôi đi".
"Và nước Pháp, c̣n nước Pháp nữa, nước Pháp đâu ?"
Họ hỏi với nhau trong một hy vọng gần như tuyệt vọng.
Nước Pháp ở quá xa, vâng thật quá xa ! Và Thượng Đế xem ra không
thương xót những người khốn khổ nầy rồi !
-"C̣n Đức Mẹ nữa, tại sao Mẹ để cho đến nông nổi nầy ? Tôi hỏi cha
Diu, cha cai quản nhà thờ, vừa chỉ vào tượng h́nh lớn của Đức Mẹ
Đồng Trinh, vị Nữ Vương của Ḥa B́nh, được dựng lên trước sân rộng
của đại giáo đường, nơi mà ai cũng đến tôn vinh Người, không phân
biệt có đi đạo hay không đi đạo.
- " Đức Mẹ Người không bỏ chúng ta đâu. Họ cũng sẽ phải trở về đạo
mà thôi,và sẽ trở lại với đầy đủ t́nh cảm của con người." Cha nói
như vậy.
Và như thế là hy vọng đă trở thành vô vọng .
Và như thế là Việt Nam , Cam Bốt và một ngày gần đây nhất là Lào,
tất cả đều nằm trong một địa ngục trần gian. Nước Việt Nam sẽ đi đến
một sự thống nhất đất nước trong một thời gian nào đó mà thôi, chắc
không khó khăn ǵ, nhưng mà thời gian ở đây xem chừng như vô hạn
định, không tính không đếm ǵ được cả. Chắc chắn trên toàn bán đăo
Đông Dương cũng sẽ có những tiến tŕnhnhư thế thôi, không chừng c̣n
các quốc gia lân cận nữa là đằng khác ! Nhưng mà người ta chỉ ngẫu
nhiên mà nói ra vậy thôi, coi như đó là một kỹ niệm đau buồn không
nên nhắc tới......
HELSINKI , BA THÁNG SAU....
Sự việc và con người đi qua quá nhanh.
Nước Việt Nam vừa bị bức tử không bao lâu, hồn linh của quốc gia nầy
rất tiếc không c̣n ở đây để đưa tay lịch sự chận cây bút của các vị
nguyên thủ của 37 quốc gia lại, khi họ kư vào một hiệp ước an ninh
quốc tế tại Helselki.
Trong tập tài liệu dày 160 trang, mà có người ṭ ṃ đă tính thử ra
giá của mỗi chữ là 400.000 quan Pháp, người ta quy định là "các nước
đă kư vào hiệp ước nầy phải cam kết tôn trọng nền an ninh và ḥa
b́nh của nhau, không được xen vào những việc nội bộ của các nước
khác, không xâm phạm biên giới của nhau mà phải giải quyết mọi tranh
chấp qua đường lối ngoại giao."
Liên Xô đă kư vào hiệp ước nầy. Hoa Kỳ và Pháp cũng đă kư vào hiệp
ước nầy. Cả ba quốc gia nầy, ba tháng trước đây đă là đồng lỏa với
nhau. Qua viện trợ chiến cụ vũ khí đạn dược, qua sự phản bội hèn hạ,
họ đă đưa cả một quốc gia và cả mấy chục triệu người đi vào sự chết
chóc đau khổ. Chính họ đă kư tên bảo đăm cho việc thi hành Hiệp Định
Paris 1973 về ngừng bắn và tái lập ḥa b́nh ở Việt Nam, và cũng
chính họ đă im lặng không nói lên một tiếng nào, làm nhục nhă những
ǵ mà họ đẵ kư tên bảo đăm.
Liên Xô th́ xoa tay vui vẻ: họ đă đạt được thành quả gần đây nhất,
chiến thắng Sài G̣n. Hậu phương của họ đă quá vững vàng giúp họ điều
kiện tiếp tục đi tới xa hơn nữa. Các nước khác th́ cười thích chí
với những vị thiên thần đen của họ, những người đă "hứa" cho họ "ḥa
b́nh" ! Họ đă thơa măn lắm rồi với tất cả sự ngây thơ đầy tội lỗi
của họ, nhưng liệu họ có c̣n là những người lính bảo vệ nền ḥa b́nh
cho các nước anh em của họ nữa hay không ?
Những người Việt Nam c̣n ở lại bên kia phương trời th́ chỉ có hai
con đường: một là phải cố chịu đựng, hai là phải chịu chết mà thôi.
Không c̣n một ăo tưởng nào nữa, chắc chắn là phải như vậy rồi !
Trong ṿng sáu tháng, một năm, hai năm....tất cả, phải, tất cả dân
chúng bên đó hoặc sẽ là cộng sản, hoặc sẽ vào các trại tù lao động
khổ sai dài hạn, các "trại tập trung cải tạo", (một mỹ từ hèn hạ mà
cộng sản dùng để che dấu bỉ ổi sự đau thương thống khổ của người
tù), hoặc sẽ vào "bưng biền" đang được tổ chức, hoặc sẽ chết... Như
một người bạn già của tôi bên đó đă viết cho tôi:
- "Trong t́nh h́nh nầy th́ bọn trẻ sẽ có thể quen dần được, họ c̣n
biết làm sao hơn: "tính trẻ bồng bột thường dễ bị khích động, và c̣n
có thể ham vui chạy theo nhất thời nữa.... cho đến một lúc nào đó sẽ
tự ḿnh giết chết cuộc đời ḿnh v́ một lư tưởng mà cộng sản đang cố
nhồi nhét áp đặt cho họ. Hay cũng có thể một ngày nào đó họ sẽ nổi
dậy v́ thấy được h́nh bóng sau cùng của một thời thật sự hạnh phúc
xa xưa đă bị cộng sản phá tan đập nát. C̣n bọn người có tuổi như
chúng tôi th́ không sao chấp nhận được, khi phải chịu cúi đầu tự hạ
ḿnh để được sống nhục nhă. Chúng tôi phải chịu sống cực sống khổ để
c̣n cầu nguyện xinTử Thần rước ḿnh đi càng sớm càng tốt, sớm giải
thoát chúng tôi khỏi cơn ác mộng nầy. Tôi là một người Phật giáo, mà
tôi phải cầu nguyện Chúa Jésus của người Thiên Chúa giáo các anh,
một Vị Thiên Chúa duy nhất có thể hiểu cho chúng tôi, v́ muốn cứu bá
tánh vạn dân nên Người đă chấp nhận một cái chết trong sự nhục nhă
đau thương như của chúng tôi. Nhưng cũng có thể hương vị của sự Tự
Do c̣n chưa "chết" hẳn, sẽ tạo ra được một vài hùng khí mới mà người
ta đă có thấy phảng phất được đâu đây..."
Đối với những người đă chạy được ra khỏi nơi đây, những người đă
được ở ngoại quốc từ trước rồi, hay những người vào giờ phút chót
lên được trực thăng hoặc hạm đội Hoa Kỳ... họ sẽ phiêu bạt đến một
nơi vô định nào đó thôi, một nơi mà họ thường hay bị xô đuổi ra khi
họ t́m cách đổ bộ vào hơn là "được" vui vẻ tiếp nhận . Họ không đ̣i
hỏi ǵ cao xa mà chỉ cầu xin cho họ không v́ đói hay v́ buồn khổ mà
chết, để rồi sau đó với hai bàn tay trắng, với một trái tim c̣n đang
mang quá nhiều thương tích, với một nổi buồn vô tận, họ sẽ ngây thơ
khờ khạo xin người ta ban cho họ một ơn huệ, một ước nguyện cuối
cùng là được có một quê hương thứ hai.
Đối với người Pháp, họ là h́nh ảnh sống của một sự ăn năn hối lỗi
của chúng ta. Nhưng với một năng lực cứng rắn không dễ ǵ bị găy đổ,
với một sức sống kỳ diệu, một đức tánh hằng c̣n của người dân Việt,
cuối cùng họ sẽ đứng dậy một ngày đẹp trời nào đó như những cây sậy
sau cơn gió bảo mà thôi. Phải chăng đôi khi người Pháp chúng ta cũng
nên nghe họ để cho lương tâm chúng ta được nhẹ đi phần nào. Nhưng mà
với một nhân phẩm thiên phú, họ sẽ sống chia sớt với nhau trong sự
nghèo đói mà không van xin một sự thương xót nào của bất cứ ai, họ
sẽ vượt qua được khó khăn và hội nhập dễ dàng với xă hội chúng ta,
cho con cái học hành đến nơi đến chốn, và thế hệ con cháu của họ sẽ
có một chỗ đứng tốt trong mọi tầng lớp xă hội của chúng ta, và những
chỗ cao nhất nữa là khác. Đó là những ǵ họ đă làm, những người
trong một niềm tuyệt vọng đă xin nước Pháp chúng ta cho họ được tỵ
nạn năm 1954-55. Đó là một bài học mà chúng ta phải cám ơn họ.
Rồi đây chắc cũng phải có một vài người sẽ trở lại Việt Nam . V́ đă
có một vài điện tín được cho gởi đi, dĩ nhiên để cho biết tin tức
gia đ́nh, nhưng đoạn chót của điện tín phải có kèm theo một câu của
chánh quyền cộng sản: "Về ngay đi, gia đ́nh đang mong đợi". V́ có
biết bao thảm cảnh của sự chia tay. Có thảm cảnh của một chú bạn trẻ
khi tôi mang về cho anh ta một tấm ảnh nhỏ có h́nh của vợ và ba đứa
con nhỏ kháu khĩnh của anh, anh ta lăn ra khóc lóc, rồi xin lỗi, rồi
nói: "Thôi rồi không bao giờ nữa rồi, không bao giờ tôi c̣n gặp lại
vợ con tôi nữa rồi, không bao giờ....không bao giờ nữa rồi...." Và
cũng là một thảm cảnh gia đ́nh bị ly tán, nhất là đối với các bà mẹ,
những người chỉ có một t́nh thương con ngập tràn trong tạng phủ, họ
không bao giờ chấp nhận phải xa rời khỏi những đứa con thân yêu của
họ: "Không, không, tôi không cần biết chánh trị là cái ǵ hết, tôi
cũng không sợ phải sống khổ sở v́ chuyện đó, tôi chỉ không muốn sống
xa các con tôi thôi .." Và như thế là sẽ có vài người bị t́nh cảm
chi phối trở về với sự thống khổ...
(Lời chú thích thêm của dịch giả: Tác giả tiên liệu quá đúng. Có
những người đă v́ người thân mà trở về. Nhưng thay v́ được sống đoàn
tụ với vợ đẹp con ngoan th́ lại được công an cộng sản đưa đi sống
đoàn tụ ngay tức khắc với anh chị em tù nhân chánh trị trong các
trại tù hắc ám xa xôi ở Miền Bắc, có nhiều người đă phải chịu đau
khổ, nhẫn nhục "gở đủ từ 15 đến 20 cuốn lịch" đầy mồ hôi và nước
mắt, v́ cộng sản khẳng định là những người nầy là t́nh báo CIA của
đế quốc Mỹ cho trở lộn về Việt Nam công
tác. Điển h́nh là những anh em quay về với tàu Việt Nam Thương Tín
từ đảo Guam.)
Trong ṿng mười năm, hai mươi năm nữa, xuyên qua một sơ hở nào đó
của chế độ, hay một kẻ hở nào đó của "bức màng ch́" (nguyên tác)
đang bao trùm nước Việt Nam từ nay, người ta chắc chắn sẽ được nghe
những tiếng rên nức nở, những tiếng thét kinh hoàng, những hơi thở
hấp hối, và những tiếng thở dài âu lo năo nuột, giống hệt như tại
các nước cộng sản có chế độ độc tài khác trên thế giới ngày nay.
Nhưng mà lúc đó th́ c̣n có ai động ḷng thương xót ai nữa đâu? Người
ta không thể làm ǵ hơn được, v́ người ta c̣n có rất nhiều sự việc
khác quan trọng hơn đang làm cho người ta bối rối hơn. Như vậy sẽ
đ̣i hỏi một số dân tộc phải tự lo liệu lấy ḿnh. Để đối phó với một
hoàn cảnh đau thương thống khổ tương tự th́ chỉ có quyền lực và một
sự cẩn mật cảnh giác mới mong cứu văn được mà thôi, một điều mà cho
đến giờ nầy những người có trách nhiệm chưa ai nhận thấy được.
Đối với những người Pháp nào vừa lần lượt chạy thoát khỏi địa ngục ở
Đông Dương, chúng ta sẽ gặp họ, sẽ thấy là họ đang âm thầm phẩn uất
v́ thái độ thờ ơ lạnh nhạt của số đông người Pháp chúng ta, và rất
oán hận những người Pháp khác đă từ chối không cần biết đến thảm
cảnh của họ, không biết ǵ gọi là bổn phận và không giúp đở được cho
họ một tí ǵ.
Những người nầy c̣n giữ măi trong ḷng họ một sự nhớ nhung tha thiết
đối với quốc gia Việt Nam xa xôi bị bỏ rơi kia, coi như một sự "nhớ
nhà" thật sự mà chỉ có họ mới hiểu nổi mà thôi.
C̣n những quân nhân Pháp nữa, những người lính già nua đă từng chịu
tang cho một số không ít quốc gia mà họ bắt buộc phải có một t́nh
thương, những quốc gia mà nước Pháp đă trao cho họ nhiệm vụ phải bảo
vệ, nhưng rồi họ cũng bị bắt buộc phải rời khỏi các nơi nầy. Nổi
buồn phiền của họ càng ngày càng tăng v́ những kinh nghiệm của họ
trở thành vô ích, những kinh nghiệm mà không bao giờ được một ai
muốn nghe tới, trong khi đó th́ những cuộc vui chơi không ngừng cứ
tự nhiên được tiếp tục ngay trước mắt họ (cũng có thể người ta muốn
mượn cái say để khỏi phải nghe phải thấy). Họ biết, họ biết rơ là
bánh xe lịch sử khắc nghiệt sẽ cứ thản nhiên lăn tới, và nó đă bắt
đầu lăn rồi, đó cũng là một điều rất là hợp lư vậy.
Nhưng họ cũng biết - và họ rất đau khổ mà tin tưởng như vậy - biết
là thế giới ngày nay chỉ c̣n trông chờ ở nước Pháp, không phải v́
nước Pháp chúng ta có một sức mạnh vật chất, mà v́ họ kỳ vọng sức
mạnh đạo đức của quốc gia nầy, một ngày nào đó sẽ được đánh thức
dậy. V́ thế cho nên những người chiến binh già nầy vẫn c̣n giữ măi
trong trái tim cằn cổi của ḿnh h́nh ảnh của đất nước Việt Nam, một
nước Việt Nam mà họ rất thương yêu, một nước Việt Nam "đă chết" mất
rồi !!!!!!!! (xin hiểu là VNCH)
Xin giả biệt nước Việt Nam thân yêu ! Chúng ta không bao giờ gặp lại
nhau được nữa rồi ! Ôi Việt Nam ! Chúng tôi sẽ giữ măi h́nh bóng của
Việt Nam trong ḷng, giữ măi hương vị ngọt ngào của hai chữ Tự Do mà
Việt Nam đă gieo sâu vào ḷng chúng tôi khi chúng tôi c̣n v́ Việt
Nam mà tranh đấu cho Tự Do và Hy Vọng.....
TIN GIỜ CHÓT
Vào tháng 9/1975, sáu tháng sau khi quân Bắc Việt chiếm Sài G̣n, th́
có vài trăm người Pháp được rời khỏi Việt Nam, do có sự vận động can
thiệp của chánh phủ Pháp. Một chiếc phi cơ Caravelle của hảng hàng
không UTA làm con thoi chở họ đi từ Tân sơn Nhứt đến Bangkok , nhưng
lúc nào phi cơ nầy cũng c̣n quá nhiều chỗ trống. Mỗi chuyến bay chỉ
có khoản 15 người Pháp được phép lên phi cơ mà thôi, c̣n th́ hành
khách là những người Ấn, Mă Lai hay là Tàu. Phải có nhiều cuộc vận
động và những lời khai báo thật tỉ mỉ trước, bắt buộc phải có trong
ṿng 18 tiếng đồng hồ trước khi phi cơ cất cánh, bấy nhiêu đó thôi
cũng đủ để giới hạn số hành khách mà giấy phép xuất cảnh đă có sẳn.
Dĩ nhiên phải chứng minh là không có thiếu thuế trong ṿng 3 năm
(!), phải kư giấy xác nhận nợ, v́ c̣n chưa trả lương cho công nhân
hay người giúp việc cho ḿnh, dù lư do không thể trả được là v́ ngân
hàng bị chánh quyền đóng cửa.
Các chuyến bay con thoi giữa Sài G̣n và Bangkok sau đó bị đ́nh chỉ.
Ṭa Đại Sứ Pháp vẫn chưa có người nào chánh thức là thực nhiệm, và
người xử lư thường vụ được chỉ định từ nhiệm sở Hànội, vẫn chưa được
phép của chánh phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa cho vào Sài G̣n.
Ṭa Đại Sứ Pháp cấp cho mỗi người Pháp c̣n kẹt tại Sài G̣n, coi như
ứng trước để mà sống, mỗi ngày 10.000 đồng. Người ta sẽ thấy là số
tiền nầy thật là quá ít ỏi, khi người ta biết được vật giá ở đây
tiếp tục leo thang vùn vụt như thế nào, một hộp sửa giá 7.000 đồng,
một lít xăng từ 16.000 đến 18.000 đồng... Các loại dược phẩm đă bắt
đầu thiếu hụt mặc dầu đă có một vài kiện thuốc được gởi đến từ
Bangkok, và bệnh viện Grall đầy ấp bệnh nhân, nhưng toàn là bộ đội
Miền Bắc.
Vẫn chỉ có một tờ báo duy nhất tại Sài G̣n, tờ "Sài G̣n Giải Phóng".
cơ quan tuyên truyền chánh thức của Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời
Miền Nam Việt Nam .
Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời (GRP) dường như vẫn cứ ở vị trí "lâm
thời", không có một tổ chức chánh trị hay hành chánh nào được coi là
một thực thể hành pháp tại Miền Nam Việt Nam . Không có ǵ được coi
là đă giải quyết dứt khoát giữa Miền Nam và Miền Bắc, có nhóm th́
chủ trương thống nhất ngay càng nhanh càng tốt, có nhóm th́ chủ
trương hai chánh phủ ở hai Miền và thống nhất vào một thời điểm
thuận lợi khác, và ngay trong Chánh Phủ Lâm Thời vẫn chưa hết các va
chạm và bất đồng chánh kiến.
Các hoạt động kinh tế bị đ́nh trệ. Các xí nghiệp hăng xưởng th́
không có nguyên liệu nên ngưng hoạt động. Tuy nhiên thợ thầy và công
nhân đều phải có mặt hằng ngày, và các chủ hăng xưởng đều bị coi như
phải chịu trách nhiệm về việc không trả lương bổng cho họ, mà lư do
là v́ không có khả năng đào ở đâu cho ra được tiền.
Đời sống hằng ngày của mọi người trở nên hết sức khó khăn, do đó
phát sanh ra quá nhiều hành động trộm cướp, bất chấp những sự trừng
phạt hết sức độc ác làm cho những người chứng kiến phải nhắm mắt ghê
rợn. Người ta hành quyết thủ phạm ngay tức khắc và ngay tại phạm
trường.
Công tác kiểm soát được tiến hành thật gắt gao và chặt chẻ, tất cả
dân chúng đều bị ghép thành từng tổ một, từ gia đ́nh đến khóm,
phường, ấp, xả. Họ chỉ phát biểu theo lệnh, theo người hướng dẫn,
hoặc theo biểu ngữ về giáo điều và kinh tế mác xít.
Các sinh viên và giáo sư đều phải đi ra đồng, và người ta c̣n cho
biết trường hợp của một vị bác sĩ giải phẩu có tiếng tăm bị bắt đi
đào kinh dẫn thủy nhập điền, để biết được giá trị của lao động.
Những trại tù được thành lập dưới danh xưng là "trại học tập cải
tạo" và người ta không biết được những người bị bắt đi "học tập" như
vậy sẽ được đưa đi đâu và đến chừng nào mới được về. Hầu hết vợ con
của những người nầy không biết được chồng, cha, con, và người thân
của họ bị dẫn đi đâu, và họ rất sợ điều bất hạnh sẽ xảy ra cho những
người nầy.
Những vụ tự tử cứ tiếp tục với một nhịp độ như cũ, người ta có thể
ước lượng khoản 20 mỗi ngày. Có nhiều gia đ́nh chọn cái chết tập thể
bằng sợi dây tḥng lọng v́ sợi dây th́ rẽ tiền và dễ t́m hơn.
Người ta chưa nghe rơ được mức độ thanh trừng hay thanh toán nhau v́
tư thù, ngoại trừ ở các tỉnh quận, nơi đó "ṭa án nhân dân" đă có
việc làm từ lâu rồi. Không cần nói chúng ta cũng biết là những người
Pháp thoát khỏi nơi quản thúc nầy mà về đến nước Pháp rồi th́ phải
biết giữ sự im lặng tối đa v́ rất sợ một sự trả thù đối với những
người đang c̣n kẹt lại chưa đi ra khỏi Việt Nam được.
Nhơn viên phi hành đoàn của chiếc phi cơ Caravelle rất là tức giận
v́ những biện pháp khó khăn cho chuyến bay và điều kiện hạ cánh đáp
xuống phi đạo. Dĩ nhiên là tất cả đều không được phép vào phi cảng,
đừng nói chi đi ra phố. Nhưng điều nầy cũng không ngăn chận được
những người có đủ mọi cách để đến gần họ v́ lư do công vụ, hoặc để
nhờ họ cho một chỗ trốn trên phi cơ, điều quá khó v́ kiểm soát viên
cấm nhặt, hoặc để nhờ chuyển thơ về gia đ́nh thân nhân, phương tiện
duy nhất để thông tin ra ngoài. Do đó mà phi hành đoàn nầy được
chứng kiến nhiều cảnh khóc than và nhiều màn đau khổ không thể tả
nổi của người dân.
Chánh phủ Pháp có ư định đáng khen trong việc giải tỏa những người
Pháp ra khỏi nơi mà cả bản thân lẩn tài sản của họ đang bị cầm giữ
như là con tin thật sự vậy, nhưng trái lại h́nh như không đúng với
những lời tuyên bố rất hào phóng của Tổng Thống Pháp, chánh phủ chỉ
cấp nhỏ giọt một số chiếu khán nhập cảnh và giấy phép cư trú cho
những người tỵ nạn Việt Nam mà thôi. Đi tỵ nạn tiếp theo người Việt
Nam là những người Cam Bốt cũng trong t́nh trạng khốn khổ tương tự,
và sau đó là người Lào, những người nạn nhân sau cùng của "chiến
thắng cách mạng". Nếu chiếu theo hiệp ước 1953 sát nhập Lào vào Liên
Hiệp Pháp th́ người Lào vẫn được phép vào nước Pháp mà không cần
phải có chiếu khán nhập cảnh. Mĩa mai thay cũng do đó mà người Lào
không nhận được bất cứ một sự giúp đở nào cả, và những tiếng kêu cứu
của họ không có được một tiếng vang đáp lại.
T́nh trạng của những người tỵ nạn Việt Nam , Cam Bốt và Lào tại Thái
Lan trở nên rất là bi đát. Chánh phủ Thái Lan có vẻ sợ, nên muốn cho
những người tỵ nạn nầy phải rời khỏi đất Thái và hăm dọa là sẽ trả
họ về các quốc gia gốc của họ. Trong khi chờ đợi th́ những người tỵ
nạn nầy bị nhốt trong các trại mà chánh phủ Thái không có cung cấp
cho họ lương thực hay thuốc men tối thiểu cần thiết cho đời sống của
con người.
Dường như là chánh phủ Pháp không muốn làm ǵ phật ḷng Hànội, Phnom
Penh và Vientiane để có thể đưa hết người Pháp ở Đông Dương về nước.
Và như vậy là coi như có một sự đổi chác thật sự rồi ! Thật là trái
với nguyên tắc nhơn đạo mà nước Pháp chúng ta từ lâu đă từng rất
hảnh diện và tự hào.
Nhưng mà c̣n có những ai nữa đâu để có thể động ḷng v́ những chuyện
thương tâm nầy ? và c̣n có những ai nghĩ đến một ngày nào đó trường
hợp tương tự sẽ đến với chúng ta, hay con cháu chúng ta ? Chuyện đó
đang từ từ đến với chúng ta đó ! và h́nh như nó đă gần lắm rồi, đến
gần người Pháp chúng ta lắm rồi !
Bài học Việt Nam có ǵ bổ ích được cho người Pháp chúng ta hay không
đây?
(TRÍCH một bức thư của Ông Bac Cam Quy, Cựu Chủ
Tịch Liên Bang Thái)
Liên bang Thái xưa kia nằm ở vùng thượng du Bắc Việt, Bắc giáp vớI
Trung Quốc, Đông giáp sông Hồng, Tây giáp với Lào, và Nam giáp với
tỉnh Ḥa B́nh, gồm có những người dân Thái đen và Thái trắng.
Người dân Thái là những người sống rất thanh b́nh, hiền hậu yêu ḥa
b́nh nhưng cũng không ngần ngại chiến đấu nếu nền độc lập của quê
hương nếu bị đe dọa. Họ rất thật thà, ngay thẳng, trung thực, can
đăm, siêng năng mẩn cán, hay giúp đở mọi người và có tinh thần xă
hội. Từ lúc chánh phủ Việt Nam dân chủ cộng ḥa của Bắc Việt chiếm
mất quê hương, và vốn dĩ đă không ưa ǵ người Việt, dân chúng Thái
trở thành những con người chống cộng dử dằn nhất.
Trước khi người Pháp đặt chân lên bán đăo Đông Dương năm 1888 tiểu
vương quốc Thái ít nhiều vẫn có triều cống vua Lào (Luang Prabang và
đôi khi cũng có những phái đoàn giao hảo đến Triều đ́nh Hué. Từ năm
1888 đến 1945 tiểu vương quốc nầy được đặt dưới quyền bảo hộ của
Pháp. Từ 1945 đến 1947 gười dân Thái bị nhiều đợt xăm lăng, Nhật rồi
Trung Quốc và sau cùng là Việt Minh. Đến đây th́ hậu quả quá nặng
nề: gia đ́nh ly tán, và quê hương bị tàn phá hoàn toàn.
Từ năm 1947 đến 1954, với sự trở lại của người Pháp, Liên bang Thái
được thành lập (Fédération Thai), tự trị, nằm trong quốc gia Việt
Nam của Hoàng Đế Bảo Đại. Thanh b́nh đă trở lại, trật tự được lập
lại khắp nơi. Nhưng sự thanh b́nh nầy không được bao lâu th́ cộng
sản Việt Nam bắt đầu xăm chiếm xứ Thái, (từ năm 1950) và cuộc chiến
dữ dội bắt đầu. Làn sóng di cư cũng bắt đầu. Các quan chức cao cấp
và gia đ́nh họ được tản cư ra Hànội và tiếp theo đó là gia đ́nh các
quân nhân. Rồi năm 1954 Điện Biên thất thủ, rồi Hiệp Ước Genève...và
rồi xứ tự trị Thái bị cộng sản chiếm toàn bộ, bị sát nhập đương
nhiên vào lănh thổ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa.
Để thoát thân khỏi cộng sản, một số người Thái (một phần ngàn của
những người c̣n ở lại) chạy sang tỵ nạn bên Lào, và là những người
Thái đầu tiên đến tỉnh XiengKhoang để rồi đến định cư sau đó tại
Vientiane.
Để xoa dịu dân tộc Thái, cộng sản Việt Nam phải chịu giữ nguyên xứ
Thái kèm theo danh từ "tự trị", với danh xưng là "Vùng Tự Trị
Thái-Mèo" sau nầy lại đổi thành "Vùng Tự Trị Tây Bắc".
Sau đây là một đoạn "trích" từ một lá thư của Ông Bac Cam Quy:
"Chúng tôi đă chọn Lào làm quê hương thứ hai để sang định cư v́ lư
do chủng tộc, lịch sử, ngôn ngữ và phong tục tập quán. Những điểm
tương đồng tự nhiên như vậy cộng thêm t́nh bạn bè thân thích từ lâu
giữa người Thái và người Lào đă giúp chúng tôi hội nhập dễ dàng vào
đời sống tại vương quốc Lào, hàn gắng vết thương đau và làm lại cuộc
đời của chúng tôi. Tinh thần hiếu khách và sự ân cần chăm sóc của
chánh phủ Vương Quốc Lào đă giúp chúng tôi mỗi người đều có công ăn
việc làm dễ dàng và xây dựng lại mái nhà ấm cúng cho gia đ́nh. Về
cuộc sống tại đây, chúng tôi làm việc trong đủ mọi ngành nghề. Người
nầy là công chức trong chánh quyền, hay sĩ quan trong quân đội,
người kia th́ giúp việc trong các tổ chức của ngoại quốc (ṭa đại
sứ, Liên Hiệp Quốc, USAI D, USOM v.v..).
Có nhiều người là kỹ sư, bác sĩ, hoặc trong ngành kinh tế, giáo dục,
hoặc là kế toán viên, đă tự viên, thợ máy, trồng tỉa v.v... Với thời
gian th́ sự phân biệt chủng tộc phai mờ lần và chúng tôi đều được
nhập quốc tịch Lào hết. Sở dĩ việc nhập quốc tịch không được tiến
hành mau hơn, là v́ các chánh phủ vương quốc Lào muốn t́m một phương
thức pháp lư đúng đắn hơn, để cho chúng tôi hưởng nhiều quyền lợi
hơn và dĩ nhiên đở tốn kém hơn. Nhưng cho dù việc nhập quốc tịch có
chậm hay có mau hơn th́ nó cũng không có ảnh hưởng ǵ đến đời sống
hằng ngày của chúng tôi cả. Giới trẻ của chúng tôi th́ vẫn được ra
ngoại quốc tiếp tục bậc cao học và đại học. Công chức và cán bộ các
cấp trong quân đội cũng có đầy đủ quyền hạn và trách nhiệm như các
bạn người Lào của họ. Nói tóm lại là chúng tôi có đầy đủ mọi điều
kiện để có được một đời sống thanh b́nh và hạnh phúc.
Trước khi Hiệp Ước Vientiane 1973 được kư kết, dẫn đến sự thành lập
một chánh phủ quốc gia liên hiệp Lào, th́ chúng tôi chưa bao giờ
nghĩ tới là đời sống của chúng tôi lại một lần nữa bị xáo trộn.
Bất ngờ t́nh h́nh chánh trị ở Lào diễn tiến quá nhanh sau khi Sài
G̣n và PhnomPenh thất thủ, làm cho đời sống chúng tôi bị chuyển đổi
một cách tàn nhẫn và làm sụp đổ hoàn toàn giấc mộng yên lành của
chúng tôi. Kể từ ngày 9/5/75 tất cả những cơ cấu chánh trị, hành
chánh và xă hội ở vương quốc Lào đều bị đăo ngược hoàn toàn, làm cho
chúng tôi nhận thức rơ ràng được đời sống của chúng tôi không c̣n
chút ǵ gọi là vững vàng nữa, cũng như t́nh trạng an ninh của chúng
tôi trở nên hết sức bấp bênh. Đùng một cái chúng tôi trở thành những
người ngoại quốc với tất cả những khó khăn và nguy hiểm sẽ gặp phải.
Trong ṿng hơn 20 năm định cư ở Lào, tất cả người Thái chúng tôi đều
có được một mái nhà êm ấm, người nào cũng có công ăn việc làm, mỗi
gia đ́nh đều có một mảnh đất canh tác...tóm lại chúng tôi đều có đầy
đủ điều kiện để xây dựng một tương lai đầy hạnh phúc.
Chúng tôi tự hỏi tại sao chúng tôi lại phải bỏ tất cả những ǵ chúng
tôi đă tạo dựng được bằng mồ hôi và nước mắt của ḿnh để lên đường
đi tỵ nạn thêm một lần nữa ?
Lư do thứ nhất , lư do chính và cũng là lư do quan trọng khiến chúng
tôi phải cấp tốc rời nhanh khỏi vương quốc Lào đó là cộng sản đă
đồng loạt và ồ ạt tiến chiếm toàn bộ bán đăo Đông Dương. Khác hơn ở
Việt Nam và Cam Bốt, chiến cuộc tại Lào coi như được chấm dứt sau
khi Hiệp ước Vientiane 1973 được kư kết, tiếng súng không c̣n nữa
làm cho một số quan sát viên tưởng rằng cuối cùng th́ ḥa b́nh cũng
đă được văn hồi, và chế độ vẫn c̣n là một chế độ tự do. Nhưng tiến
tŕnh cộng sản hóa cả nước đang được tiến hành, và chúng ta phải
thấy được chiến thuật ngụy trang của cộng sản rất là xảo quyệt và
rất là tinh vi. Chúng ta đừng bao giờ nghe những ǵ họ nói hay những
ǵ họ nhờ những người khác phổ biến thay cho họ, mà chúng ta phải
nh́n kỹ xem những ǵ họ làm. Đây là những bằng cớ cụ thể và mới
nhất: từ ngày 9/5/1973 nhiều cuộc chống đối đủ loại, nhiều cuộc mít
tinh biểu t́nh đ̣i lật đổ, nhiều hành động tố giác không bằng chứng,
tất cả đều được tổ chức công khai và liên tục nhằm mục đích loại trừ
sĩ quan ra khỏi quân đội, loại trừ công chức quốc gia đủ mọi cấp mọi
ngành ra khỏi các bộ, từ ông bộ trưởng cho tới anh viên chức xả ấp
mộc mạc trong làng. Các sĩ quan công chức nào bị loại th́ được lôi
ra xử ngay tại các ṭa án nhân dân, nơi đó họ phải nặn óc tưởng
tượng ra các "nợ máu đối với nhân dân" mà họ phải khai báo. Người ta
chưa bao giờ nghe thấy được những hành dộng loại nầy trong bất cứ
một quốc gia nào trên thế giới tự do.
Lư do thứ hai thúc đấy chúng tôi phải chạy cho khỏi bọn cộng sản đó
là chúng tôi rất sợ bị bọn họ bắt lại. Bởi v́ chúng tôi đă từng
chiến đấu quyết liệt với bọn họ, lúc chúng tôi c̣n ở quê nhà cũng
như lúc chúng tôi đến định cư ở Lào. Trước sau ǵ trong con mắt của
cộng sản, chúng tôi vẫn là kẻ thù muôn đời của bọn họ, và họ thề
phải tận diệt chúng tôi. Bởi v́ trong chế độ cộng sản, ṭa án nhân
dân truy xét tội nhân hồi tố tới ba đời lư lịch. Nói cách khác, nếu
chúng tôi khư khư quyết ở lại Lào, th́ sớm muộn ǵ tất cả chúng tôi
cũng sẽ tùy theo trường hợp mà bị phân tán ra hết, đi tù, bị hành
quyết, hay bị hành hạ cho đến chết mới thôi.
Lư do thứ ba thúc đấy chúng tôi phải rời khỏi đất Lào, chúng tôi
cũng đă có nói qua rồi, đó là phần lớn chúng tôi chưa được nh́n nhận
như một công dân Lào thật sự. Là những người không có quê hương và
chống cộng, sống trong một thể chế vô nhân đạo không được ai che
chở, th́ làm sao chúng tôi có thể tồn tại được để mà sống ???? Con
đường duy nhất mà chúng tôi có thể cho là tốt nhất để chúng tôi chọn
là t́m một quốc gia nào có thể đón nhận chúng tôi, hiểu rơ hoàn cảnh
chúng tôi và che chở cho chúng tôi. V́ lẽ đó mà chúng tôi phải vượt
sông Cửu Long để đến đất Thái Lan.
Cuối cùng rồi chúng tôi thấy có quá nhiều lư do đă thúc giục chúng
tôi phải chạy nhanh khỏi bọn cộng sản, và thật sự thà là chúng tôi
chọn cái nghèo mà được tự do trong một thể chế hoàn toàn tự do và
nhân đạo c̣n hơn là sống như một anh hùng đầy huy chương trong một
thể chế độc tài cộng sản.
Chúng tôi đă được cho vào một trại tỵ nạn hơn ba tháng nay rồi, trại
nầy hiện đang đầy nghẹt, và điều kiện sống của chúng tôi càng ngày
càng đi xuống, hiện trạng về sức khỏe thật là bi đát, nhất là trong
mùa mưa lũ nầy. Cọng thêm nổi lo sợ bị trả thù, nên t́nh h́nh an
nguy của chúng tôi thật là tương đối thôi v́ trại của chúng tôi nằm
sát biên giới Thái-Lào.
Trước một t́nh h́nh cùng quẩn như thế, chúng tôi đă nhiều lần kêu
gọi khẩn cấp đến vị đại diện Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc ở Bangkok
để xin cứu trợ và giúp đở về an ninh. Nhưng than ôi, những tiếng kêu
báo nguy gần như tuyệt vọng của chúng tôi luôn luôn đụng phải một
vách tường "không thông cảm", không có một giọt cứu trợ nào được gởi
đến để giúp đở chúng tôi, và họ cũng chưa chấp nhận cho chúng tôi
được quy chế tỵ nạn.
Mặt khác, từ khoản giữa tháng 7/75, nhà cầm quyền TháiLan luôn miệng
thúc ép chúng tôi, không muốn chúng tôi có mặt trên đất Thái Lan v́
lư do chánh trị và ngoại giao, những lư do cũng dễ hiểu thôi. Và bốn
ngày sau, ngày 18/7/75 một viên chức cao cấp thuộc Bộ Nội Vụ Thái
Lan đại diện chánh phủ Thái đi cùng với vị Phó Tỉnh Trưởng tỉnh Nông
Khai, đến ngay trại chúng tôi, và bằng ngôn từ cứng rắn, dữ tợn, họ
chánh thức thông báo cho chúng tôi quyết định của chánh phủ Thái là
không muốn thấy sự có mặt của chúng tôi trên đất Thái Lan, đồng thời
họ nghiên cứu phương cách thật tế nhất, nhanh gọn nhất để tống xuất
chúng tôi về Lào.
Đứng trước một t́nh thế hết sức khó khăn như vậy, chúng tôi không
biết phải hướng về ai để kêu cứu, chúng tôi đành phải gởi một tiếng
kêu tuyệt vọng, bi thảm, đến nước Pháp, một quốc gia mà chúng tôi
cảm thấy luôn luôn c̣n được khắng khít ràng
buộc..........................................."
Tiếng kêu cứu đó cho đến nay vẫn chưa có hồi âm.....
Mấy ngày nay, có nhiều người Pháp từ Miền Nam
Việt Nam về đến Pháp. Cho tới giờ nầy th́ họ đang c̣n ở đây. Báo chí
truyền thanh truyền h́nh đă rộng răi loan tin về họ. Những người
Pháp hồi hương nầy có mang theo nhiều tin tức của quốc gia mà họ vừa
được cho rời khỏi không lâu. Và thực sự đây là những tin tức duy
nhất mà chỉ có họ mới có thể có được, v́ chánh quyền mới tại Sài G̣n
không cho phép bất cứ ai gởi bất cứ tin tức nào ra ngoài.
Và đây là một vài tin tức lượm lặt được từ những người Pháp vừa rời
Sài G̣n ngày 15/8/1975 . Những tin tức nầy bổ túc và xác nhận những
ǵ đă được một số báo chí ở đây đăng tải:
1. ĐỨC GIÁM MỤC SEITZ BỊ TRỤC XUẤT
Đức Giám Mục Seitz, cai quản Giáo Khu KonTum cùng với 6 Linh Mục
truyền giáo và 3 bà nữ tu sĩ thuộc giáo khu đều bị trục xuất.
Giáo khu Kon Tum nằm trong một vùng thuộc Cao Nguyên Trung Phần, dân
chúng vùng nầy được gọi là "người thượng" thuộc dân tộc thiểu số,
cho đến sau 1954 mới có thêm người kinh di cư từ Miền Bắc và miền
thượng du Bắc Việt vào định cư.
Vùng Cao Nguyên nầy là nơi đă xảy ra nhiều trận đánh lớn trong những
năm qua. Sau cuộc tấn công qui mô mùa xuân năm 1972, chỉ c̣n những
thành phố và các trục lộ nối liền các thành phố nầy là vẫn nằm trong
ṿng kiểm soát của chánh phủ Việt Nam Cộng Ḥa. Vùng phía bắc tỉnh
KonTum và các khu rừng trong vùng Cao Nguyên đều bị Việt Cộng kiểm
soát.
Phần giáo sĩ th́ có hơn 20 linh mục người Pháp, khoản 40 giáo sĩ
ViệtNam, và một số nữ tu sĩ trong đó có khoản 80 "bà sơ" người
thượng làm việc rất đắc lực trong giáo khu nầy. Đức Ông Seitz đă đặt
biệt dồn hết nỗ lựcvào công tác phát triển cho dân chúng người
thượng v́ đă từ bao nhiêu lâu họ gần như bị bỏ quên trong cuộc sống
hằng ngày, thường không được người Kinh coi trọng.
Việc rao giảng Phúc Âm được coi như nhiệm vụ hàng đầu. Lần lần các
cha người Việt chấp nhận một cuộc sống du mục bên cạnh dân chúng
người thượng. Nhiều giáo đường do người Việt Nam dựng lên rất là
sống động trên toàn giáo khu nầy.
Vài ngày sau cuộc tổng tấn công của Bắc Việt 10/3/1975, theo lệnh
của Tổng Thống Thiệu, lực lượng của chánh phủ VNCH rút hết ra khỏi
vùng Cao Nguyên, trong đó có hai tỉnh KonTum và Pleiku của giáo khu.
Sau đó đă có một sự di tản ồ ạt của gần hết dân chúng vùng Cao Nguên
(người Việt) cốt sao chạy cho khỏi bọn xăm lăng cộng sản.
Ngày 25/3/75, khi hay tin có hai người bác sĩ (một người Mỹ và một
người Tân Tây Lan) phục vụ tại bệnh viện Kontum, bị cộng sản bắt dẫn
đi, Đức Ông Seitz liền chỉ định và đưa vị trợ giám mục lên thay thế
Ngài. Ông đă xử dụng quyền hạn mà Ṭa Thánh La Mă đă cho phép từ lâu
đối với các giáo khu nào đang gặp khó khăn đe dọa.
Vào đầu tháng 7/75 th́ Đức Ông và các linh mục người Pháp bị quản
thúc tại Ṭa Giám Mục. Chánh quyền mới lên, nói đúng hơn là các "bộ
đội" từ Miền Bắc vào, phổ biến những tuyên ngôn và luật lệ cũ từ
thời Hồ Chí Minh, xác nhận sự tự do hành đạo.
Thật ra ở Pháp bây giờ chúng ta đă nghe biết là trong một số tỉnh
nhất là tỉnh Kontum, các linh mục người Việt Nam đă gặp rất nhiều
khó khăn khi họ muốn được trở về giáo đường của ḿnh, hay để quản
trị các giáo đường: các ban quân quản địa phương không cấp phép cho
họ được đi từ làng nầy qua làng khác một cách dễ dàng. Lư do nêu ra
là t́nh h́nh an ninh các trục giao thông chưa được tái lập đúng mức.
Đức Ông Seitz và các hàng giáo sĩ của Ngài, từ lâu đă thấy trước sau
ǵ quân đội Miền Bắc cũng chiếm tỉnh KonTum, nên lúc nào cũng sẳn
sàng chấp nhận sự kiện nầy và hậu quả của nó, miễn là c̣n giữ được
sự sinh hoạt của hội Thánh trong giáo khu của Ngài. Theo dư luận
chung của Ṭa Giám Mục và của phần đông các linh mục, th́ chỉ cần
tránh đừng để có thái độ từ khước, hay chống đối, mà phải giả bộ ngu
ngơ đối với chánh quyền dân sự mới (trên thật tế vẫn c̣n là "quân
sự"), và theo những hướng dẫn của Giáo Hội La Mă, như vậy sẽ có khả
năng để các giáo đường tham gia vào nỗ lực chung của quốc gia, nhằm
nâng cao đời sống, tiến bộ của xă hội, tŕnh độ giáo dục v.v...
trong phạm vi căn bản của tín ngưỡng.
Do vậy mà sau đó Đức Ông và vị Trợ Giám Mục của Ngài đă thử liên lạc
với Ban Quân Quản để xin được gặp chánh quyền hiện tại. Một thời
gian sau đó th́ hai vị được họ gọi đến ủy ban.
Với gương mặt lạnh như đồng, chủ tịch ủy ban tiếp hai người, và vừa
vào đề đă "chơi" ngay:
- "Các ông đă viết cho chúng tôi những điều không thể nào chấp nhận
được, khi các ông nói "hợp tác" với chúng tôi. Các ông nói "hợp tác"
có nghĩa là các ông tự cho các ông là những người ngang hàng với
chúng tôi. Đâu có được! không thể chấp nhận được ! Ở đây chúng tôi
là "xếp", các ông cũng như những người khác, các ông chỉ có tuân
theo lệnh mà thôi."
Và mọi việc đến đây coi như chấm dứt. Hai vị Giám Mục nghĩ rằng ḿnh
chưa làm hết sức ḿnh để hội nhập với t́nh h́nh mới. Để biết phải
làm ǵ với t́nh h́nh nầy, ư nghĩa của t́nh h́nh nầy cả hai bên đều
không bên nào nhận xét giống bên nào. Và hai Ngài bàn thảo với các
linh mục tiếp tục nỗ lực t́m mọi cách để được "nói chuyện lại" với
ủy ban.[tác giả chua thêm trong dấu ngoặc: ở đây tôi muốn dùng danh
từ "nói đi nói lại" (rengaine), "lặp đi lặp lại", mà Giáo Hội phương
Tây của chúng ta thường xử dụng. Nhưng ở Việt Nam th́ không phải chỉ
có "ăn nói ba hoa" là đủ, mà phải bằng mọi cách, làm hết sức ḿnh để
cho các nhà thờ không bị lu mờ, giữ được sự có mặt thường xuyên của
Giáo Hội trong sinh hoạt dân chúng hằng ngày.)
Sau khi suy tính rất chính chắn, hai vị Giám Mục quyết định xin được
hội kiến với vị tỉnh trưởng, để tŕnh lên một câu hỏi chính xác và
khẩn cấp: đó là vấn đề bệnh viện KonTum. Trước kia bệnh viện được
Giáo Khu trách nhiệm coi sóc, mà giờ th́ coi như vô tổ chức và không
có thuốc men trị liệu. Sau khi hai vị bác sĩ bị bắt đưa đi nơi khác
rồi th́ các nữ tu sĩ người thượng đă cố gắng hết sức ḿnh đăm trách
đủ mọi việc kể cả giải phẩu, và đă thành công. Cũng như tại bệnh
viện cùi ở Tuy Ḥa, mọi y vụ tại bệnh viện Kon Tum đều do các nữ tu
sĩ điều hành. Sau đó một bác sĩ Việt Nam từ Hànội được đưa tới nhận
nhiệm vụ, nhưng ai cũng thấy ngay là ông không có một chút khả năng
nào hay một kinh nghiệm nào về y khoa cả.(và đó không phải trường
hợp duy nhất thấy được ở Miền Nam Việt Nam hiện nay).
Qua bao nhiêu ngày chờ đợi, sáng ngày chúa nhật 10/8/75 hai vị Giám
Mục nhận được giấy trả lời: buổi gặp gở được ấn định vào 13 giờ cùng
ngày, chúa nhật 10/8/75 . Hai vị trả lời lại là không thể đến kịp
vào 13 giờ như đă ấn định v́ lư do bất khả kháng, nhưng hai vị xin
được đến từ 15 giờ trở lên v́ không c̣n thời gian để tŕ hoản buổi
tiếp xúc được nữa. Người ta cho biết ngay trong buổi sáng hôm đó là
buổi hẹn được dời lại ngày hôm sau, 11/8/75 .
Chánh quyền tiếp hai vị Giám Mục rất nồng hậu, luôn luôn tươi
cười..với tất cả những ǵ gọi là lễ phép của người Việt Nam khi họ
tiếp khách, nhất là khách quư, trà nước đủ lễ.....Rồi sau đó họ đi
vào vấn đề mà hai vị Giám Mục muốn nêu lên. Câu trả lời của họ là:
"Rất tốt, chúng tôi sẽ nghiên cứu kỹ vấn đề." Các ủy viên chánh trị
(chủ tịch ủy ban hành chánh tỉnh và hai người nữa, nếu nhớ không
lầm) hỏi hai vị Giám Mục c̣n vấn đề nào cần nêu lên nữa hay không.
Hai Ngài cũng có nêu lên vài vấn đề (các tu sĩ đi lại khó khăn, kể
cả các linh mục Việt Nam cũng vậy v.v...) Cũng lại một câu trả lời
tương tự: chờ nghiên cứu. Sau đó ủy ban hỏi thêm hai Ngài có ư định
tổ chức lễ "Thánh Mẫu Thăng Thiên" vào ngày 15/8 hay không ? Hai
Ngài trả lời là vào mùa mưa như vầy không cho phép tổ chức ǵ hơn
được, các nhà thờ chỉ tổ chức trong phạm vi họ đạo của ḿnh mà thôi,
v́ đă có lệ như vậy hằng năm vào mùa mưa như vầy rồi.
Một câu hỏi khác được ông chủ tịch ủy ban nêu lên: "Các vị có nghĩ
là chúng ta có nên có một buổi họp chung giữa các giáo sĩ và các nữ
tu sĩ với chúng tôi để cùng nhau ta xem xét mọi vấn đề hay không?".
Hai Ngài thấy không c̣n ǵ bằng nên vui vẻ chấp nhận đề nghị nầy
ngay. Chiều tối hôm thứ hai đó người ta cho hay là buổi họp mặt sẽ
diễn ra ngày mai thứ ba 12 tháng 8, chia ra làm 3 nhóm: các linh mục
Việt Nam , các nữ tu sĩ Việt Nam kinh và thượng, các linh mục và các
nữ tu sĩ ngoại quốc (có nghĩa là Pháp). Giờ họp: 8 giờ, ngày 12/8/75
.
Từ 6.30 sáng ngày 12 tháng 8, có xe lại đón Đức Ông Seitz và cả 6 vị
linh mục Pháp đến pḥng họp. Các linh mục cho biết là c̣n quá sớm để
đi hội, các linh mục c̣n phải làm lễ buổi sáng xong mới đi được.
Ngay sau khi làm lễ xong họ lên xe.
Vừa bước lên xe, Đức Ông Seitz nhận thấy có hai anh bộ đội cầm súng
ngồi phía sau xe. Ngài tự nhũ thầm: " Xong rồi !". Đă từ lâu tất cả
đều biết là việc nầy sẽ xảy ra trong một ngày nào đó mà thôi.
Chiếc xe không đi đúng con đường dẫn đến nơi đă được quy định cho
buổi họp, mà lại đưa các linh mục đến một đồn quân sự cũ cách KonTum
12 cây số trên con đường đi PleiKu.Trong thời gian chờ đợi hơi lâu,
họ cho dọn bữa ăn sáng cho các linh mục, sau đó một người có trách
nhiệm bước ra kêu tên điểm danh từ linh mục một, và trao cho mỗi
người một "lệnh trục xuất" viết tay, thi hành ngay trong ṿng 74
tiếng đồng hồ ! Người ta ghi rơ là tất cả đều được đưa ngay tới phi
cảng Sài G̣n. Các linh mục yêu cầu được về nhà thờ để lấy một ít vật
dụng cá nhơn mang theo. Người ta từ chối ngay nhưng cho phép mỗi
linh mục được ghi trên một mảnh giấy danh sách các món cần lấy và
cần mang theo.
Vào khoản 11 giờ th́ được lệnh khởi hành. Ba nữ tu sĩ Pháp (Saint
Vincent de Paul) và hai vị bác sĩ bị bắt đi hôm trước (đă có nói ở
trên) được đưa tới để cùng đi. Tất cả được chia ra đi làm 2 xe,
chiếc xe sau là xe nhỏ dành cho các nữ tu sĩ, 2 bác sĩ và vài vị
linh mục. (xin ghi nhận ở đây là 2 bác sĩ nói trên bị bắt đưa đi một
trại tù lao động khổ sai cho đến nay, cách KonTum 3o cây số, chớ
không phải được đưa đi một bệnh viện lớn quan trọng hơn bệnh viện
KonTum như tôi đă thật thà nghĩ như vậy, khi vào cuối tháng 5/75 ở
Sài G̣n tôi nghe tin họ bị đưa đi khỏi bệnh viện Kontum. -Lời chua
thêm của tác giả-)
Cuộc hành tŕnh từ KonTum đến Sài G̣n kéo dài trong 3 ngày (1100 cây
số). Những trạm nghỉ trên đoạn đường dài nầy đă được dự trù và tổ
chức trước cả rồi. Đêm đầu tiên các giáo sĩ được đưa vào nghỉ trong
ty cảnh sát tỉnh B́nh Định, đêm thứ hai tại văn pḥng của tỉnh Ba
Ng̣i (Camranh). Việc ăn uống và chỗ nghỉ ngơi tuy b́nh thường nhưng
cũng được đầy đủ.
Trên đường di chuyển, các Linh mục không thể nào làm lễ được. Tất cả
đều được người ta bố trí để không cho dân chúng biết hay để ư ǵ đến
chuyến đi nầy. Có một lần, lợi dụng lúc xe ngừng nghỉ Đức Ông Seitz
bước xuống xe và lững thững đi dạo dọc theo trục lộ, vừa đi vừa lần
chuỗi vừa đọc kinh, rất tự nhiên. Trưởng đoàn xe lật đật chạy lại và
mời Ngài lên xe.
- "Như vậy tôi là tù hay sao?" Ngài hỏi lại ngay.
- "Mời Ngài lên xe cho, xin Ngài hiểu giùm t́nh cảnh của tôi."
trưởng đoàn xe trả lời.... .
Đến chiều ngày thứ ba 14/8/1975 th́ tới Sài G̣n, đoàn xe ngừng tại
khách sạn Caravelle, khách sạn lớn nhất thành phố. Tất cả được đưa
lên lầu một và bị cấm không được xuống tầng trệt và cấm gọi điện
thoại. Ngoài hành lang th́ có bộ đội đứng gát thường trực. Nhưng
cũng phải nh́n nhận là trước đó, cũng như trên đường di chuyển hay
lúc ở Sài G̣n, không thấy có một hành động vũ lực nào đối với các
linh mục và các nữ tu sĩ, những người bị trục xuất.
Vào lúc 9 giờ tối, người ta phát cho các tu sĩ mỗi người một "đơn
xin xuất cảnh", một mẫu đơn quây "ronéo" mà mọi người đều phải điền
vào để xin chiếu khán xuất cảnh. Tất cả đều từ chối không chịu kư
vào đơn nầy. Căi qua căi lại thật sôi nổi, cuối cùng Đức Ông Seitz
tuyên bố sẳn sàng kư vào một bản văn "chấp nhận lệnh trục xuất khỏi
Việt Nam", ngoài ra c̣n đ̣i hỏi phải được liên lạc với đại diện ṭa
đại sứ hay lănh sự quán Pháp, với gịng truyền giáo địa phương và
với Ṭa Khâm Sứ Vatican. Người ta chỉ hứa xem lại chớ không trả lời
dứt khoát.
Ngày hôm sau, 15/8/75 , vào lúc 8 giờ sáng, người ta chấp thuận cho
tùy ư sửa chữa bản văn đề nghị hôm qua. Và như thế là các linh mục
kư tên vào bản văn do Đức Giám Mục Seitz đề nghị "đồng ư chấp nhận
quyết định trục xuất" họ ra khỏi Việt Nam. Và họ tiếp tục đề nghị
cho phép liên lạc với một đại diện của nước Pháp, với gịng truyền
giáo địa phương, hay ṭa Khâm Sứ, th́ được hứa là sẽ cho gặp trước
giờ khởi hành.
Vào lúc 10 giờ 30, trong lúc đang dùng cơm trưa tại khách sạn
Caravelle th́ vị Lănh Sự Pháp không hiểu được thông báo bằng cách
nào, điện thoại được cho Đức Giám Mục Seitz để bảo đăm với Ngài là
một đại diện của nước Pháp sẽ có mặt tại phi trường trước giờ bay.
Vào khoản 12 giờ trưa đoàn xe chở tất cả ra phi trường. Vị Phó Lănh
Sự Pháp và 2 Linh Mục thuộc gịng truyền giáo đă có mặt để chào tiển
những người ra đi. Người ta đợi đến phút chót trước khi phi cơ cất
cánh mới đưa các linh mục và các nữ tu sĩ lên chiếc Caravelle của
Hàng Không Lào, hàng không duy nhất trong hiện tại đăm trách chuyên
chở những người ngoại quốc rời khỏi Việt Nam .
Đứng dưới chân cầu thang bắt lên cửa phi cơ, anh bộ đội Bắc Việt có
trách nhiệm đưa các tu sĩ từ KonTum đến Sài G̣n, mặt mày sáng rỡ,
tươi cười rất cởi mở đưa tay vui vẻ vẫy chào tiễn từng người hành
khách lên phi cơ...dĩ nhiên chỉ nhằm mục đích để cho đồng bọn và
những người làm tin của họ chụp ảnh !
Chúng ta thử đoán xem coi v́ những lư do nào mà có những trường hợp
trục xuất như thế.
Sự việc đă hiển nhiên như vậy rồi th́ những người ngoại quốc c̣n lại
ở Việt Nam phải dự trù trước là có một ngày nào đó họ cũng sẽ bị
tống xuất ra khỏi Việt Nam, đây chỉ là vấn đề thời gian mà thôi, có
thể vào tháng nào hay năm nào đó không chừng. Các linh mục người
Pháp cuối cùng đă rời khỏi Miền Bắc Việt Nam vào năm 1960, nghĩa là
6 năm sau khi chánh phủ cộng sản vào Hànội, nhưng tại sao chỉ mới
chiếm xong Miền Nam có 4 tháng mà các linh mục và tu sĩ ở KonTum lại
bị cộng sản trục xuất ? Các linh mục bị trục xuất đưa ra hai lư do:
1)- Họ là những nhân chứng quá trở ngại cho cộng sản: Mặc dầu bị
quản thúc trong Ṭa Giám Mục, họ cũng có được rất nhiều tin tức. V́
họ hoàn toàn sống ḥa đồng với dân chúng, được dân chúng tin yêu,
nhất là trẻ em, nên họ biết rơ một cách không khó khăn ǵ về đời
sống của mọi người trong khắp vùng Cao Nguyên nầy dần dà bị thay đổi
như thế nào từ sau ngày Miền Nam Việt Nam bị Bắc Việt cưỡng chiếm.
2)- Họ không thể nào hội nhập được với thể chế mới, một thể chế của
những người cộng sản vô thần.
3)-người ta cũng có thể thêm vào 2 lư do trên một sự kiện nữa: đó là
v́ các linh mục là những người đă đặc biệt giúp đở tận t́nh "đồng
bào thượng", họ sẽ là nơi nương tựa che chở cuối cùng của những
người thuộc dân tộc thiểu số nầy trước một mưu toan diệt chủng mà
bọn cộng sản Việt Nam có thể đang dụng ư cho tiến hành. Những tin
tức sau cùng từ những người dân "thượng" h́nh như có ám chỉ là chánh
quyền cộng sản có ư đồ muốn tiêu diệt hết các dân tộc thiểu số Miền
Cao Nguyên.
2. MỘT VÀI NÉT VỀ T̀NH H̀NH HIỆN TẠI Ở MIỀN NAM VIỆT NAM
Tin tức đến được trong những ngày gần đây đă cho thấy là đă có một
sự cách ly từ từ ở khắp mọi nơi. Tại các tỉnh th́ đă có cái mà người
ta gọi là "ngăn sông cấm chợ". Tại Sài G̣n th́ dĩ nhiên sự việc tiến
hành có chậm hơn.
Ở các tỉnh khi muốn đi ra khỏi nơi cư ngụ đến làng khác hay đến quận
tỉnh th́ phải xin giấy phép. Các giấy phép nầy đôi khi phải xin lâu
mới có được, v́ phải có thời gian để nghiên cứu và điều tra nếu
cần.(tại Sài G̣n vào cuối tháng 5/75 cũng y như vậy cho các trường
hợp xin thay đổi chỗ ở)
Có những trại tù lao động được thành lập để chánh quyền đưa những
người bị t́nh nghi là có tư tưởng hay hành động chống đối chế độ
mới. Lao động bắt buộc 11 giờ một ngày, cơm th́ chỉ cho ăn vừa đủ để
sống mà thôi. Trong vùng Kontum, hệ thống nhà tù lao động được tổ
chức cho mỗi khu vực hành chánh. Đức Giám Mục Seitz đă từng nói gần
đây: "Dư luận quốc tế có lúc đă báo động về các trại tù chánh trị
của V NCH , mà không một ai chứng minh được là đúng hay sai. Nhưng
bây giờ người ta mới nhận thức được rơ ràng là ở Miền Nam Việt Nam
đang h́nh thành một quần đăo Goulag, đúng là một quần đăo Goulag
Việt Nam ".
Về việc nầy th́ báo chí Tây Phương đều im lặng không nói lên được
một câu nào. (Tôi ước mong rằng những vị nữ tu sĩ như bà Francoise
Vandermeersh và dĩ nhiên vài bà khác nữa, hảy lên tiếng xem sao, dù
là chỉ bằng một phần tối thiểu của những nỗ lực mà cách đây hai năm
mấy bà đă tốn hao công sức để chê trách nhà tù của Việt Nam Cộng
Ḥa. Hảy nói lên đi ! nói lên đi, để cho thế giới thấy được những ǵ
đă xảy ra sau những bức tường thép đă che kín nước Việt Nam , cách
ly nước Việt Nam với thế giới bên ngoài ! Dưới chế độ chánh trị mới
nầy, đâu có phải chuyện dễ làm khi mấy bà muốn xin được một chiếu
khán nhập cảnh ? dù chỉ trong thời hạn một tháng thôi, đừng nói chi
đến chuyện muốn đi khắp nơi tùy ư ḿnh, đi thăm viếng một số trại tù
hoặc đi thăm gia đ́nh của những người tù nhân chánh trị, một chuyện
không có ǵ là khó khăn cả dưới chế độ Việt Nam Cộng Ḥa, một chuyện
rất dễ dàng mà mấy bà đă lạm dụng quá trớn và đầy ác ư mấy năm trước
đây!)
Đồng bào miền thượng trong vùng KonTum mấy năm trước đây đă lần lần
định cư được trong những khu vực ổn định và trù phú hơn trước, th́
nay họ bị bắt buộc phải "hồi cư", bị đưa về nguyên quán. Dĩ nhiên
các linh mục hay tu sĩ nào lo cho đời sống và cho sự phát triển của
họ đều không thể đi theo họ được. Được biết là từ 1/5/75 cho đến nay
đă có 40% số tử vong trong số đồng bào nầy. Con số tử vong nầy có
hơi cao, do có sự thay đổi đột ngột về thời tiết (từ những vùng có
cao độ 150 thước đến vùng có cao độ 800 hay 900 thước), do phải trở
về những vùng không được sạch sẻ, do thiếu thuốc men và không có
được giúp đở ǵ về y tế, do thiếu dinh dưỡng hoặc không có ǵ để ăn
v́ họ chưa có trồng trọt được ǵ hay v́ không t́m được thức ăn trong
rừng, nơi mà họ đang bị bắt buộc phải về sống răi rác trong đó. Rơ
ràng đây là một hành động có tính cách diệt chủng đang được người ta
cho tiến hành.
T́nh h́nh mỗi tỉnh mỗi khác tùy theo người chỉ huy ở địa phương.
Riêng tại KonTum, nói về chủng viện, th́ Đức Giám Mục và vị Trợ Giám
Mục của Ngài đă dựa theo tuyên ngôn của Hồ chí Minh, nói rằng tất cả
trường học đều được quốc hữu hóa, nhưng những trường đào tạo tu sĩ
của tôn giáo nào th́ tôn giáo đó vẫn c̣n chịu trách nhiệm, nên hai
Ngài quyết định cho mở lại chủng viện gọi là "trường dạy môn thần
học". Trong số 50 chủng sinh tŕnh diện tại Kontum để sẽ vào học lại
ở chủng viện Dalat, Đànẵng hay Hué. 30 người bị chánh quyền bắt trở
về làng của họ để điền cho xong các giấy tờ hành chánh cần thiết,
nên chỉ c̣n lại 20 chủng sinh mà thôi. Do vậy mà không có ai bảo
được là chế độ cộng sản đóng cửa các chủng viện.
Tại Sài G̣n, những người ngoại quốc muốn xin đi ra ngoài th́ thủ tục
càng ngày càng thêm nhiêu khê. Hành lư mang theo trên phi cơ (20
Kílô) bị khám xét từ món tuy là phải khai báo trước ba ngày. Một
giáo sư cho tôi biết là cho đến các mảnh giấy viết tay ghi "nốt" của
ông cũng đều bị xét xem kỹ, từng chữ một, từ mảnh giấy một. Giáo sư
và vợ ông ta trên nguyên tắc được 40 kílô hành lư (20 Kg x 2), ít
nhất trên thế giới văn minh nầy ở đâu cũng vậy, nhưng ở Sài G̣n th́
phải có riêng mỗi người 20 kí không được tính chung (như 17 + 23 là
không được.). Có nhiều món bị tịch thu hay trưng dụng, kể cả xe ô tô
mà sở hữu chủ là những người sắp ra đi. Nhưng cũng có một vài trường
hợp mà người ta cho phép được gởi theo sau đó, bằng tàu thủy, có
Trời mà biết được sẽ được gởi đi và đến lúc nào, v́ cho tới giờ nầy
chưa có một dấu hiệu nào cho thấy sẽ có một sự chuyên chở hàng hóa
bằng đường biển đến các nước không cộng sản.
Tại Sài G̣n, xe phóng thanh chạy khắp các đường phố, đọc khẩu hiệu
tuyên truyền ầm ỉ, thỉnh thoảng xen vào các bài hát nặc mùi đấu
tranh hay gây căm thù, như là: "giết chết bọn Mỹ, giết hết kẻ thù
của cộng sản, bất kể già trẻ bé lớn...."
Dân chúng dĩ nhiên bị bắt buộc phải đi dự các buổi nói chuyện được
tổ chức cho từng loại, từng thành phần, không đi không được, thời
gian đôi lúc kéo dài nhiều giờ mỗi ngày. Tại một vài thành phố,
người ta nghe hét lên suốt ngày những bài diễn văn tào lao không đâu
ra đâu, nặc mùi lư thuyết không thực tế. Tôi nghĩ rằng những người
Tây Phương nào c̣n kẹt lại Việt Nam đến giờ nầy chắc sẽ phải kiên
nhẫn lắm mới chịu đựng nổi không khí ồn ào vô bổ nầy.
Tất cả những điều sau đây sẽ bổ túc cho nhận xét đúng đắng về thực
trạng:
Guồng máy kềm kẹp của cộng sản càng ngày càng siết chặt, dân chúng
Miền Nam Việt Nam đang sống trong một không khí nặng nề gần như
nghẹt thở.
Đây là một vài tin tức chính xác ghi nhận được đến giờ nầy:
Sự kiện quân đội Bắc Việt xăm chiếm Miền Nam Việt Nam, áp đặt cho
dân chúng một tà thuyết cộng sản ngoại lai, nh́n bề ngoài th́ không
thấy có ǵ gọi là chướng ngại, là chống đối rơ rệt, nhưng do Bắc
Việt đă bố trí quá nhiều tṛ xăo quyệt nhằm mục đích tối hậu là siết
cổ người dân trong tương lai, khôn mà không ngoan, nên đă tạo ra một
không khí nghi kỵ, sợ sệt ngay từ giờ phút đầu trong dân chúng, giờ
phút mà cộng sản tự cho là "giờ phút đồng bào Miền Nam được họ giải
phóng".
Tại Sài G̣n, người nào đă ít nhiều có làm việc cho Mỹ, dù là trong
một cơ hội nào đó thôi đều bị đuổi ra khỏi nhà, (không cần biết gia
đ́nh họ sẽ sống ra sao và ở đâu), dĩ nhiên nhà của họ bị tịch thu
tức khắc, đương nhiên trở thành "tài sản của nhân dân".
Rất nhiều người đem bày bán ngoài lề đường phố những ǵ họ có thể
bán đựợc để có ít tiền sanh sống qua ngày, trong t́nh thế bắt buộc
phải t́m "bát cơm cứu đói cho gia đ́nh" mà phải bán đổ bán tháo,
những món hàng "thượng vàng hạ cám" nầy qua tay vài người rồi cũng
theo xe bộ đội ra hết Miền Bắc Việt.
Biểu t́nh trong ba ngày liền "đ̣i cho biết tin tức chồng con": Những
bà vợ có chồng bị đưa đi gọi là "học tập cải tạo" trong ṿng 10 ngày
như thông cáo chánh thức đă ấn định, nay đă trên hai tháng rồi mà
không có tin tức ǵ của chồng con, không biết đi học tập ở đâu, sống
hay chết v..v..có nơi lại có thông cáo cho biết là họ đă chết, không
nói rơ chi tiết....do đó họ biểu t́nh ngồi lỳ tại ṭa thị chính Sài
G̣n, dĩ nhiên là không có kết quả ǵ.
Có sự kiện trái ngược là những người công giáo lại có đức tin mạnh
mẽ hơn trước. Chúng tôi đi vào một nhà nguyện mới trong một khu mộ.
Một người phát biểu: "Tôi thấy có nhiều nghị lực hơn nữa cho đức tin
của chúng ta."
HỠI TẤT CẢ NHỮNG BẠN ĐỌC THÂN YÊU,
Các bạn nào đă từng có đóng góp giúp đỡ cho Nhà Thờ ở Việt Nam , và
vẫn c̣n tiếp tục cầu nguyện cho những người bạn Việt Nam của chúng
ta, các bạn sẽ c̣n rất lưu tâm đến những tin tức nói trên. Trong
những tuần lễ gần đây báo chí đây đó đă bắt đầu loan nhiều tin tức
chính xác không bị bóp méo nữa, sau bao nhiêu năm cung cấp cho người
Pháp chúng ta một cái nh́n hoàn toàn sai lạc về những ǵ đă xảy ra
tại Việt Nam (không hiểu có nguyên nhân bí mật nào ?).
Những tin tức vụn vặt vừa nêu trên rất đáng được tin cậy v́ lẽ xuất
phát từ chính những công dân Pháp vừa mới hồi hương, từ nước Việt
Nam về đây....
Chúng ta hăy tiếp tục CẦU NGUYỆN, VÀ CẦU NGUYỆN NHIỀU HƠN NỮA !
Chúng ta hăy nhớ tới những NGƯỜI TỴ NẠN VIỆT NAM TẠI NƯỚC PHÁP!
Xin cám ơn Chúa đă cho con cơ hội giúp đỡ được một số người tỵ nạn
Việt Nam. Sau cùng, sự thận trọng bắt buộc tôi không nên phổ biến
thêm nhiều tin tức khác nữa.
Paris , ngày 25 tháng 8 năm 1975.
Vanuxem
Vừa qua tập san ĐA HIEU, cơ quan ngôn luận của
Tổng Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam có
trích đăng một bài từ báo Đất Mẹ có tựa đề là
"Những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Ḥa".
Bài nầy chỉ là một đoạn ngắn trích từ bản dịch tóm lược của quyển
"Sài G̣n et moi", mà tác giả là ông Jean Marie Mérillon, cựu đại sứ
Pháp tại Sài G̣n năm 1975. Quyển sách nầy rất có giá trị về mặt lịch
sử, từng được các báo Việt Nam tại Pháp đăng bản tóm lược vào thập
niên 80. Chúng tôi xin tạm thời ghép bài nầy vào bản dịch "Việt Nam
Cộng Ḥa Bị Bức Tử ", phỏng dịch từ quyển "La Mort du Việt Nam" của
đại tướng Vanuxem, như một phụ bản đặc biệt. Một vài đoạn cũng có
liên quan đến tướng Vanuxem, nhưng quan trọng hơn đây là một đoạn
hồi kư rất đặc biệt của một nhân chứng lịch sử trong những tháng đen
tối nhất của Việt Nam Cộng Ḥa, người đă đóng góp công sức cho một
giải pháp với hy vọng cứu văn được Miền Nam Việt Nam tạm thời khỏi
rơi vào tay Bắc Việt, nhưng rất tiếc là không thành công v́ nhiều lư
do ngoài ư muốn của ông.
(Quyển "Saigon Et Moi" được giới thiệu ngày 23/3/1985 tại khách sạn
La Fayette, quận 6, Paris. Trong hàng cử tọa ngày hôm đó có một số
nhân vật quan trọng lúc bấy giờ như cựu Tổng Thống Giscard d'
Estaing, thị trưởng Jacques Chirac, Ông Pierre Mesmer v.v... nhưng
sau đó h́nh như tác giả không được phép của Bộ Ngoại Giao (hay của
chánh phủ Pháp) nên không có thể phổ biến quyển sách nầy ra thị
trường. Và cho đến giờ nầy không c̣n ai t́m thấy tung tích quyển
sách nầy nữa ở bất cứ thư viện nào bên Pháp, kể cả Thư Viện Quốc Gia
Pháp ở Paris, cũng như sau nầy chính Ông Mérillon đă đính chánh ông
không phải là tác giả của quyển "Saigon Et Moi" hay bất cứ quyển nào
khác viết về Việt Nam. Tuy nhiên các báo Việt Nam tại Pháp lúc bấy
giờ đều có đăng bản tóm lược của quyển sách nầy, mà bản tóm lược của
ông Vũ Hải Hồ tại Paris là một.
Hy vọng một ngày nào đó nếu có duyên may t́m được quyển sách quư
"Sài G̣n et Moi" th́ chúng tôi sẽ xin tiếp tục dịch để cống hiến cho
quư vị độc giả. Bây giờ th́ xin giới thiệu quư vị phụ bản đặc biệt
nầy, trích từ tập san ĐA HIỆU).
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA VIỆT NAM CỘNG H̉A NGƯỜI ĐI KHÔNG MUỐN
LƯU LẠI BẰNG CHỨNG
Đă đến lúc Đại Sứ Martin phải nói thật với tôi: Nước Mỹ cần phải làm
ǵ vào những ngày sấp tới khi Phan Rang thất thủ? Và Mỹ cần xác minh
thái độ đối với Dương văn Minh mới hôm qua vừa đ̣i Nguyễn văn Thiệu
từ chức .
Ông Martin đă lưỡng lự rất nhiều rồi mới nói cho nước Pháp hay rằng
Hoa Kỳ sẽ bỏ rơi Miền Nam . C̣n nước Pháp th́ muốn cố giữ Miền Nam
bằng một chánh phủ trung lập giả định, biết rằng đó chưa hẳn là một
liều thuốc hồi sinh cho toàn thể chánh phủ Việt Nam Cộng Ḥa một
cách công hiệu, nhưng chẳng c̣n phương thức cấp cứu nào phù hợp với
t́nh thế lúc đó.
TỐI 18/4/75 :
Qua điện thoại, lần thứ nhất Ông Martin mới nói ra ư định của Hoa
Kỳ. Đối với chính trường nước Mỹ th́ chiến tranh Việt Nam đă chấm
dứt sau Hiệp Định Paris năm1973. Vấn đề c̣n lại là giải thể Hoa Kỳ
tại Đông Dương.
Ông Martin muốn nhờ tôi làm trung gian chuyển đạt ư muốn của Mỹ cho
phía Việt Cộng. Tôi bèn trả lời:
- "Điều mà ông yêu cầu, tôi sẽ thơa măn cho ông 5 tiếng nữa nếu
không có ǵ trở ngại trong việc liên lạc. Tuy nhiên tôi phải phúc
tŕnh lên chánh phủ của tôi, vậy ông Đại Sứ gởi cho tôi một công hàm
ủy thác làm việc nầy."
- "Không thể được" người ta không muốn lưu lại bằng chứng.
- "Như thế từ giờ phút nầy nước Pháp sẽ đăm nhận vai tṛ ḥa b́nh
cho Việt Nam theo chủ thuyết của Pháp."
- "Chúng tôi cám ơn nước Pháp. Với tư cách cá nhơn tôi hoàn toàn
chống lại chủ trương của Hoa Kỳ dành trọn quyền thắng trận cho Việt
Cộng."
Sau đó chúng tôi chuyển sang phần tâm sự gia đ́nh, hỏi thăm sức khỏe
bà Đại Sứ v.v... Đại Sứ Martin cho biết nước Mỹ quá chán ngấy những
vụ đăo chánh trước kia nên để cho ông Thiệu từ chức rồi ra đi hơn là
đăo chánh. Vai tṛ của Nguyễn cao Kỳ không c̣n cần thiết sau khi Hoa
Kỳ đă tặng phần thắng cho Việt Cộng.
Ngày 30/4, trước 3 tiếng đồng hồ hạ cờ Hoa Kỳ sau 20 năm bay trên
ṿm trời Việt Nam, Đại Sứ Martin gọi điên thoại vấn an, chúc tôi ở
lại xứ sở nầy tiếp tục sứ mạng ḥa b́nh, đồng thời khuyến khích tôi
"c̣n nước c̣n tát."
Công việc đầu tiên của tôi là liên lạc với Phan Hiền trong trại
Davis (Tân sơn Nhất) cho biết chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam
Việt Nam của Huỳnh tấn Phát muốn ấn định rơ thời hạn Mỹ rút quân
khỏi Việt Nam . Phan Hiền bèn hỏi lại tôi là nên ấn định vào ngày
nào? Sự giàn xếp người Mỹ ra đi cũng làm phiền phức tôi không ít.
Ông trưởng pḥng CIA xúi ông Tổng Giám Đốc Liên Đoàn Lao Công Việt
Nam kiếm khoảng 20.000 người mặc quần áo nông dân biểu t́nh trước
Ṭa Đại Sứ Mỹ đ̣i Mỹ phải ở lại giúp Việt Nam.
Ông Trần quốc Bửu hứa sẽ làm được, nhưng rồi chẳng thấy biểu t́nh
chi cả. CIA chưa muốn đi vội, có vẻ muốn ở lại để tổ chức phá rối
cộng sản như họ đă từng làm ở ngoài Bắc sau Hiệp định Genève 1954.
Trưởng pḥng thương mại Mỹ xin gia hạn đến tháng 6 để giúp các hảng
thầu,ngân hàng, các nhà kinh doanh di tản các dụng cụ xí nghiệp, cơ
xưởng máy móc về Mỹ. Nhưng rồi Đại Sứ Martin nhận được lệnh của Ṭa
Bạch Ốc là người Mỹ và tất cả những ǵ liên hệ đến Mỹ phải rời khỏi
Việt Nam chậm lắm là cuối tháng 4/75.
Đại tướng Pháp Vanuxem chạy chỗ nầy chỗ kia với thiện chí cố vấn cho
ông Thiệu phản công, nhưng vô ích. Tôi được thông báo Mỹ đă sắp xếp
ngày đi cho ông Thiệu đâu vào đó cả rồi. Tướng Vanuxem, người từng
chỉ huy ông Thiệu, than thở với tôi: "Thiệu "lủy" không nghe "moa",
đánh giặc theo kiểu Mỹ sẽ thua không c̣n một mảnh đất để thương
thuyết với Việt Cộng."
Ngày 18 tháng 4 chúng tôi xác nhận ngày di tản của Hoa Kỳ với Phan
Hiền.
Trước khi lập chánh phủ giả định, tôi xét phản ứng của Nga Sô và
Trung Cộng. Nước nhiệt thành đầu tiên là Trung Cộng. Thủ Tướng Chu
ân Lai điện cho Bộ Ngoại Giao Pháp là sẵn sàng hợp tác với Pháp để
xây dựng một chánh thể trung lập tại Miền Nam nếu có thành phần
MTGPMNVN tham dự.
Tại Hà Nội, cuộc vận động với Đại Sứ Nga được xem là mấu chốt của
vấn đề. Nhưng Đại Sứ Nga, ông Malichev từ chối, nói rằng: "Chủ quyền
xây dựng chính thể Việt Nam do đăng cộng sản Bắc Việt quyết định.
Ngoài t́nh hữu nghị cũng như các sự giúp đỡ Việt Nam, Nga chẳng có
quyền hạn ǵ cả." Lời tuyên bố đó giống như một kẻ ăn trộm nho bị
bắt quả tang rành rành mà vẫn cứ chối bai bải là ḿnh chỉ đi dạo mát
trong vườn nho mà thôi. Chẳng là v́ chúng tôi có đủ tin tức t́nh báo
nói rơ có 5 vị tướng lănh Nga có mặt trong Bộ Chỉ Huy chiến dịch Hồ
chí Minh tại chiến trường Long Khánh. Không lẽ các vị ấy chỉ ngồi
uống trà nói chuyện chơi với Văn tiến Dũng hay sao ?
Toàn thể các nước Đông Nam Á lo ngại một nước Việt Nam độc lập dù
dưới một chánh thể nào trong tương lai. Đối với họ, Việt Nam măi măi
có chiến tranh bao giờ cũng có lợi hơn một Việt Nam ḥa b́nh thống
nhất. Theo quan điểm đó, khối Đông Nam Á tán thành Việt Nam được
đ́nh chiến trong trung lập hơn là thống nhất trong độc lập. Quan
niệm nầy lan rộng cả Á Châu, đặc biệt là Nhật Bản, nước Nhật sẽ hết
ḿnh đóng góp cho Đông Dương trung lập. Duy có Nam Dương cực lực
phản đối. Nam Dương chưa nguôi mối thù Trung Cộng đạo diễn cuộc đăo
chánh hụt năm 1965, nên bác bỏ giải pháp đ́nh chiến tại Việt Nam có
Trung Cộng tham dự.
(Măi đến năm 1978, tướng Suharto có gởi cho tôi một bức thơ tỏ ư hối
tiếc là lúc đó chánh phủ ông đă có nhận xét sai lầm về những ư kiến
của chúng tôi).
Mao th́ ghét cay ghét đắng Lê Duẫn thân Nga, thành thử những điều
kiện Bắc Kinh đặt ra là phải hạ bệ đảng viên thân Nga, cầm chân quân
Bắc Việt để dành cho MTGPMN tiến vô Sài G̣n.
Thực ra nền trung lập đối với chúng tôi chỉ coi như tạm thời ngăn
cản ḍng nước lũ, cho Việt Nam Cộng Ḥa tạm dung thân.
Lời giao ước chánh trị khác hẳn với lời giao ước ngoại giao. Bắc
Kinh chỉ giao ước bằng miệng là sẽ t́m cách cản trở Bắc Việt chậm
nuốt Miền Nam , biện pháp quân sự coi như yếu tố cần phải có. (Rất
tiếc chờ măi đến năm 1978 Trung Cộng mới dùng biện pháp nầy để dằn
mặt Việt Nam).
Phần chúng tôi là phải đáp lời hứa là thành lập chánh phủ liên hiệp
gồm 3 thành phần: Quốc gia, Đối lập, và MTGPMN. Chu Ân Lai đưa ra
một danh sách: Trương như Tảng, Nguyễn thị B́nh, Đinh bá Thi, thiếu
tướng Lê quang Ba, trung tướng Trần văn Trà, ngỏ hầu làm lực lượng
nồng cốt thân Tàu trong chánh phủ ḥa hợp ḥa giải dân tộc Việt Nam.
Điều kiện họ đưa ra thoạt nh́n th́ không thấy có ǵ trở ngại, nhưng
thực hiện lại vô cùng khó khăn. V́ những người nầy không có thực lực
hay quyền hành ǵ cả. Toàn thể quyền ḥa hay chiến đều do Lê Duẫn
nắm cả. Trên Lê Duẫn một bực là Mạc tư Khoa. "Dường như đă từ lâu
phe quốc gia lẫn phe cộng sản Việt Nam đều đă không có quyết định ǵ
về số phận đất nước của họ"
Móc nối với Trung Cộng thỏa thuận đâu vào đó cả rồi, sáng ngày 22/4
tôi mời phái đoàn Dương văn Minh vào ṭa Đại Sứ tiếp xúc với chúng
tôi. Phái đoàn nầy có nhiều nhân vật đang tập sự làm chánh trị,
những kẻ chuyên sống nhờ xác chết của đồng bào họ: Huỳnh tấn Mẫm,
Hoàng phủ Ngọc Tường, Ngô bá Thành, Ni sư Huỳnh Liên, Lư quư Chung,
Vũ văn Mẫu, Hồ ngọc Cứ v.v... Tôi thấy ông Dương văn Minh đă liên
lạc quá vội với một thành phần vô ích. Những khuôn mặt nầy Bắc Việt
chưa biết họ, c̣n hao công giúp Bắc Việt th́ chỉ có việc chưởi tầm
bậy chế độ Việt Nam Cộng Ḥa.
Tôi đi ngay vào vấn đề hỏi chung trước mặt mọi người là: "Chúng tôi
hết sức ủng hộ người Việt Nam thành lập một chánh phủ ḥa hợp ḥa
giải dân tộc. Vậy trong những ngày sấp tới có những cuộc thương
thuyết xảy ra, quí vị có đồng ư nhận quí vị là đại biểu các khuynh
hướng chánh trị ở Miền Nam không ? Chiến tranh đang đến hồi dứt
khoát phải có kẻ thua người thắng. Hảy cho chúng tôi biết, chánh phủ
quí vị tới đây sẽ thua hay Việt Nam Cộng Ḥa thua, hoặc MTGPMN thua
? "
Huỳng tấn Mẫm cướp lời Dương văn Minh nói trước:
- "Thưa ông Đại Sứ Pháp, cuộc chiến nầy Mỹ đă thua, Tất cả người
Việt Nam chúng tôi thắng trận"
Căn cứ theo lời của Huỳnh tấn Mẫm, tôi đoán ngay hắn là một thứ bung
xung trước thời cuộc, háo danh, sẵn sàng làm tôi mọi cho bất cứ chế
độ nào chịu cấp phát tước quyền cho hắn. Nếu biết khôn và khách quan
nhận định th́ hắn phải nói như vầy: "Bọn phản chiến Mỹ thua trận, và
tất cả người Việt Nam thắng trận trong một nền ḥa b́nh rơi nước
mắt."
Bà ni sư Huỳnh Liên nói nhiều lắm. Bà kể lể "tín đồ Phật Giáo bị kềm
kẹp từ 20 năm qua, nếu cộng sản thắng th́ đó là lời cầu nguyện của
hàng triệu phật tử Việt Nam "
Luật sư kiêm chánh trị gia Vũ văn Mẫu có vẻ già dặn hơn. Ông đặt
tiếng "nếu" ở mỗi mệnh đề để thảo luận. "Nếu" chính phủ tương lai mà
trong đó có ông làm thủ tướng th́ viễn ảnh ḥa b́nh sẽ nằm trong tầm
tay dân tộc Việt Nam v.v.." Ông cũng ngỏ lời cam ơn tôi dàn xếp thời
cuộc để lập ván bài trung lập tại Việt Nam .
Đây là buổi thăm ḍ quan niệm, nhưng những con cờ quốc tế đă gởi cho
tôi từ trước không có Huỳnh tấn Mẫm, Ngô bá Thành, Huỳnh Liên, Vũ
văn Mẫu và Lư quư Chung. Tôi lễ phép mời họ ra về, ngoại trừ đại
tướng Dương văn Minh để thu xếp nhiều công việc khác.
Tiển ra tận thềm sứ quán, tôi có nói mấy lời để họ khỏi thất vọng
sau nầy :
- "Thưa quí vị, thiện chí thành lập tân chánh phủ, điều đó không ai
chối cải công lao của quí vị. Tuy nhiên thẩm quyền tối hậu giờ phút
nầy nằm trong tay Hànội. Nước Pháp chỉ làm một việc có tính cách
trung gian hơn là chủ động'
Mọi người trợn ngược tṛng mắt nh́n tôi hết sức ngạc nhiên. Ông Vũ
văn Mẫu nói nhỏ với tôi một câu bằng tiếng Latinh; "Tôi muốn đi Pháp
nếu tân chánh phủ không đuợc Hànội nh́n nhận."
Khi trở vào, Đại tướng Dương văn Minh ngồi đó chờ tôi, nét mặt sung
măn, tự hào là đă nắm vững thời cuộc. Vừa nghe chuông điện thoại
reo, tùy viên giao tế của chúng tôi giới thiệu người bên kia là Vơ
đông Giang. Đường dây điên thoại viễn liên nầy kêu qua ṭa Đại Sứ
Pháp ở Tân gia Ba rồi cũng dùng đường dây nầy chuyển về Bộ Ngoại
Giao Hànội. Tại Hànội họ sẽ móc đường dây tiếp vận vô Nam để tiếp
xúc với vị Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, v́ ông nầy muốn gập tôi
có chuyện gấp. Tôi đồng ư nhưng phải chờ hai tiếng đồng hồ nữa mới
bắt xong đường dây như thế.
KẾ HOẠCH THỨ NHẤT
Thành phần chánh phủ ḥa hợp ḥa giải dân tộc , đồng chủ tịch là hai
ông Dương văn Minh và Trần văn Trà. Ba phó chủ tịch là Vũ văn Mẫu,
Trịnh đ́nh Thảo và Cao văn Bổng. Tổng trưởng quốc pḥng Phạm văn
Phú. Tổng trưởng ngoại giao Nguyễn thị B́nh. Tổng trưởng tư pháp
Trương như Tảng. Tổng trưởng nội vụ Vũ quốc Thúc. Tổng trưởng kinh
tế Nguyễn văn Hảo. Tổng trưởng thương mại Lê quang Uyễn. Tổng trưởng
tài chánh Trần ngọc Liễng. Xen kẻ nhau nếu tổng trưởng quốc gia th́
Đổng lư văn pḥng là người của MTGPMN, và ngược lại. Hội đồng cố vấn
chánh phủ có: Nguyễn hữu Thọ, Huỳnh tấn Phát, Thích trí Quang, Lương
trọng Tường, Hồ tấn Khoa, Linh mục Chân Tín, Cựu thủ tướng Trần văn
Hữu.
Hai mươi bốn giờ sau khi công bố thành phần chánh phủ, nước Pháp sẽ
vận động các nước Âu Châu, Á Châu và các nước phi liên kết công nhận
tân chánh phủ ḥa giải Việt Nam, làm chậm lại bước tiến xe thiết
giáp Liên Xô mưu toan đè bẹp Sài G̣n.
KẾ HOẠCH THỨ HAI
- "Thưa Đại tướng, ông Nguyễn văn Thiệu để lại quân đội nầy c̣n bao
nhiêu người? Hoa Kỳ để lại vũ khí nếu dùng được ở mức độ pḥng thủ
th́ đuợc bao lâu ?
Đại tướng Dương văn Minh trả lời là ông chưa nắm vững quân số v́ hơn
chín năm ông không có dịp biết các bí mật quốc pḥng.
- "Thưa Đại tướng, đại tá tùy viên quân sự của chúng tôi sẽ phúc
tŕnh cho đại tướng biết sau. Theo chúng tôi, quân lực Việt Nam Cộng
Ḥa c̣n đủ khả năng chiến đấu thêm 10 tháng nữa, nếu các nhà quân sự
chịu thay đổi chiến thuật từ quy ước sang du kích chiến. Ngay từ bây
giờ Đại tướng c̣n 2 Quân đoàn. Phải dùng hai Quân đoàn nầy mặc cả
cho thế đứng của phía quốc gia. Tôi tung liền giải pháp trung lập
đồng thời tạo áp lực ngoại giao ngừng bắn 7 tiếng đồng hồ. Trong khi
đó Đại tướng kịp thời chỉnh đốn quân đội và chọn các tướng lănh có
khả năng trường kỳ phản công. Tôi tin tuởng Việt Nam Cộng Ḥa chưa
thể thua và đích thực Bắc Việt đang lúng túng chưa biết họ sẽ chiến
thắng bằng cách nào đây.
KẾ HOẠCH THỨ BA
Cùng lúc mời thành viên MTGPMN hợp tác trong chánh phủ trung lập,
Đại Tướng tuyên bố sẳn sàng bang giao với Trung Quốc và các nước
theo chủ nghĩa xă hội, dĩ nhiên trong đó có cả Liên Xô.
Trung Quốc sẽ chụp lấy cơ hội nầy để cử Đại Sứ đến Sài G̣n ngay sau
24 giờ cùng với tiền viện trợ 420 triệu Mỹ kim là tiền sẽ trao cho
Hànội mà nay trao cho chánh phủ ḥa hợp ḥa giải dân tộc. Kế hoạch
nầy đánh phủ đầu Hànội bằng cách đưa đứa con nuôi của họ là MTGPMN
lên nắm chính quyền (một lực lượng mà từ trước đến nay Hànội vẫn ra
ră trước dư luận là dân Miền Nam đứng lên chống Mỹ, chớ Hànội không
có dính dáng ǵ hết).
Đi từng bước, lần lượt tân chánh phủ sẽ lật lại từng trang giấy kư
ngưng bắn trong Hiệp Định Paris, giao cho Trung Quốc cưởng ép Hànội
vào bàn hội nghị nói chuyện ngưng bắn tức khắc.
Quả thật Trung Quốc muốn cứu sống MTGPMN để xây dựng ảnh hưởng của
ḿnh tại Đông Dương. Phe quốc gia cũng muốn cứu cấp Sài G̣n đừng lọt
vào tay cộng sản . Như vậy hai quan niệm cùng có một mục đích, c̣n
có thể dàn xếp được là tốt hơn cả, v́ đừng để cho bên nào thắng.
Tôi cũng thông báo cho ông Minh hay là tôi đă liên lạc với thành
viên MTGPMN. Hầu hết đều tán thành giải pháp giúp họ thoát khỏi ṿng
quỷ đạo của Bắc Việt. Họ chạy theo HàNội là muốn tiến thân sự nghiệp
chánh trị bằng con đường hợp tác với cộng sản, nếu giúp họ nắm được
chánh quyền Miền Nam th́ phương tiện dùng cộng sản Bắc Việt đă quá
lỗi thời.
Bà B́nh từ đầu đến cuối đă hợp tác chặt chẻ với chúng tôi. Thêm một
bằng chứng: 17 ngày sau khi Sài G̣n mất, bà B́nh c̣n tuyên bố trước
Liên Hiệp Quốc dụng ư tống khứ đạo quân Bắc Việt về bên kia Bến Hải:
"Miền Nam Việt Nam sẽ sinh hoạt trong điều kiện trung lập 5 năm
trước khi thống nhất hai miền Nam Bắc.". Các nhà phân tích thời cuộc
nói chỉ cần 5 tháng Miền Nam sống dưới chánh phủ trung lập thay v́
có diễm phúc 5 năm, có lẽ ḥa b́nh Việt Nam sẽ ở trong hoàn cảnh thơ
mộng tươi đẹp rồi. Bà B́nh bị thất sủng sau lời tuyên bố đó.
Nước Pháp sẽ trao 300 triệu quan chuyển tiếp từ chế độ Việt Nam Cộng
Ḥa giao cho tân chánh phủ để nuôi sống giải pháp trung lập. Chúng
tôi sẽ quyên góp các nước bạn đồng minh Âu Châu một ngân khoảng độ
290 triệu mỹ kim cho các chương tŕnh viện trợ kinh tế, văn hóa,
phát triển nông nghiệp, nhân đạo v.v...tổng cộng cũng gần bằng viện
trợ của Hoa Kỳ trước đây.
Bấy nhiêu đó cũng đủ nuôi dưỡng tạm thời chánh phủ Dương văn Minh
Trần văn Trà, để rồi người quốc gia tranh thủ với cộng sản duy tŕ
một Miền Nam không nhuộm đỏ màu cờ.
Đại tướng Dương văn Minh không nói chi nhiều, ông lắng nghe tôi
tŕnh bày cặn kẻ từng kế hoạch, và nói ông sẳn sàng thực hiện theo
quan điểm của chúng tôi. Ông chỉ nêu một câu hỏi duy nhất:
- "Dưới h́nh thức nào tôi thay thế cụ Trần văn Hương để thành lập
nội các để thương thuyết với phía bên kia?"
- "Thưa Đại tướng, cụ Trần văn Hương hôm qua vừa thảo luận với chúng
tôi là sẽ trao quyền chánh phủ Việt Nam Cộng Ḥa lại cho Đại tướng,
nếu Đại tướng có một kế hoạch không để mất Sài G̣n ."
Sự thực từ lúc ông Thiệu tuyên bố từ chức, ông Minh đă nhiều lần
thúc hối chúng tôi tiến dẫn ông nắm chánh quyền ngay lúc ấy. Chúng
tôi chưa nhận lời yêu cầu nầy. Chúng tôi chưa nhận lời yêu cầu đó v́
chưa tiếp xúc được với thành phần MTGPMN. Hơn nữa ông Minh ra lănh
đạo guồng máy quốc gia không mang điều mà thế giới mong đợi sau khi
Hoa Kỳ rút đi. Khi chúng tôi giới thiệu tướng Minh sẽ là nhân vật
cho ván bài trung lập của Pháp tại Việt Nam th́ cụ Trần văn Hương
sửng sốt và tỏ vẻ phiền trách: "Nước Pháp luôn luôn bẻ nho trái mùa!
Tưởng chọn ai chớ chọn Dương văn Minh, nó là học tṛ tôi, tôi biết
nó quá mà. Nó không phải là hạng người dùng trong lúc dầu sôi lửa
bỏng...
Tôi sẽ trao quyền lại cho nó nhưng nó phải hứa là đừng để Sài G̣n
thua cộng sản ." Có sự hiện diện của ông Trần chánh Thành là người
rất am tường thực chất cộng sản, chúng tôi giải thích với cụ là Bắc
Việt rất sợ MTGPMN đoạt phần chiến thắng, công khai ra mặt nắm chánh
quyền. Chúng ta nên nắm ngay nhược điểm của họ mà xoay chuyển t́nh
thế. Nếu để một nhân vật diều hâu lănh đạo, Bắc Việt sẽ viện cớ Việt
Nam Cộng Ḥa không muốn ḥa b́nh rồi thúc quân đánh mạnh trong lúc
quân đội chưa kịp văn hồi tư thế phản công. Tạm thời dùng công thức
ḥa hoăn thôi.
Cụ Trần văn Hương thông cảm kèm theo lời thở dài tỏ ra mất tin
tưởng. Kế hoạch của chúng tôi vô t́nh đă đè bẹp tin thần chống cộng
sắt đá của cụ. Theo cụ th́ giải pháp hữu hiệu là bỏ ngỏ Sài G̣n,
tổng động viên những vùng đất c̣n lại để tiếp tục đánh cộng sản.
Chọn giải pháp nầy sẽ đổ máu thêm, nhưng chiến tranh nào mà không đổ
máu, ít nhất Việt Nam Cộng Ḥa không thua một cách mất mặt.
Mười năm sau tôi thấy kế hoạch của cụ Trần văn Hương đúng. Nếu lúc
bấy giờ các nhà lănh đạo quân sự Miền Nam đừng bỏ chạy quá sớm, yểm
trợ cụ, th́ có thể gở gạc được thể diện người Quốc gia Miền Nam. Tôi
kính mến cụ già Trần văn Hương, Người Việt Nam nhận xét cụ bất tài,
già nua lẩm cẫm, song chúng tôi thấy cụ là một người Việt Nam trung
tín, sống chết cho lư tưởng, can đăm trước mọi t́nh huống.
Năm 1976, nghe cụ bị bệnh nặng, thiếu thốn phương tiện chữa trị,
chúng tôi yêu cầu Tổng lảnh sự Pháp ở Sài G̣n vận động với nhà cầm
quyền HàNội cho cụ sang Pháp chữa bệnh. HàNội c̣n cần Pháp làm giao
điểm tuyên truyền chủ nghĩa xă hội, sẽ không làm khó dễ trong việc
cấp giấy xuất cảnh, nhưng cụ từ chối, quyết định ở lại chết tại Việt
Nam . Chúng tôi vẫn nhớ lời cụ nói năm 1975: "Ông Đại Sứ à, tui đâu
có ngán Việt Cộng, nó muốn đánh tui đánh tới cùng. Tui chỉ sợ mất
nước, sống lưu đày ở xứ người ta. Nếu trời hại nước tui mất, tui xin
thề ở lại đây và mất theo nước ḿnh." Cụ Trần văn Hương đă giữ lời
hứa.
Đại tướng Dương văn Minh ra về, chúng tôi hẹn gặp lại nhau. Trong
lúc nầy, về phía Việt Nam Cộng Ḥa, chúng tôi không quên nhắc nhở
đại tướng Dương văn Minh gấp rút tổ chức lại quân đội, liên lạc
thường xuyên với tướng Nguyễn khoa Nam, khuyến khích vị tướng nầy
giữ vững các vị trí pḥng thủ để c̣n một mảnh đất làm địa bàn ăn nói
khi thương thuyết với phía bên kia. Ngay lúc đó tôi biết ông Dương
văn Minh cách đây hai ngày đă liên lạc với người em ruột là thiếu
tướng Dương văn Nhật, nhờ môi giới để nói chuyện thẳng với Bắc Việt.
V́ hấp tấp, nông cạn, ông tưởng em ông có đủ tư cách đại diện cộng
sản ngưng bắn tại Miền Nam . Từ chỗ móc nối sai lệch, t́nh thế đă xỏ
mũi ông đến chỗ phá nát bấy hết kế hoạch ḥa b́nh Việt Nam .
(GHI CHÚ của dịch giả DHN: Dương văn Nhật không phải là một thiếu
tướng mà chỉ là một thiếu tá thường, trực thuộc MTGPMN nên không
phải là một nhân vật quan trọng. Cộng sản đă cho về liên lạc thường
xuyên với Dương văn Minh trước đó như là một liên lạc viên xoàng để
săn tin mà thôi, và đă được lệnh kín đáo nằm luôn tại nhà Dương văn
Minh từ khi chúng tiến chiếm tỉnh Banméthuột. Có lẽ ông Dương văn
Minh muốn đưa em ông lên hàng tướng v́ lư do thể diện chăng? Sau
30/4/75 mới là trung tá)
LÊ ĐỨC THỌ THÓA MẠ TÔI
Chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia tự giới thiệu:
- "Chào ông Đại Sứ, tôi là B trưởng B2 đây.""
Tôi chào lại và rất ngạc nhiên không biết B trưởng B2 là nhân vật
nào. Thái độ thiếu lịch sự xă giao qua lời giới thiệu tên họ chức
phận bằng bí danh của đầu dây bên kia chứng tỏ họ coi thường chúng
tôi. Tôi gằn mạnh từng tiếng:
- "Nếu đầu dây bên kia muốn trao đổi câu chuyện với tôi th́ nên tỏ
ra lịch sự một chút. Khi tiếp xúc với một nhà ngoại giao th́ dù thù
hay bạn cũng vậy. Thưa ông B trưởng B2, chắc ông thừa hiểu ông đang
nói chuyện với Đại sứ nước Pháp, và bắt buộc tôi phải cúp nếu ông
không nói tên họ, chức phận. Nguyên tắc của ngành ngoại giao đối lập
với ngành gián điệp là không tiếp xúc với hạng người bí mật."
B2 xin lỗi tôi liền khi đó, bảo rằng ông ta sợ CIA phát hiện sự có
mặt của ông ở Miền Nam trong lúc hoàn cảnh chưa cho phép ông xuất
đầu lộ diện. Ông cũng rất phiền khi bị ép buộc nói tên họ:
- "Thưa ông Đại sứ, tôi là Lê đức Thọ, Tổng tư lệnh chiến dịch Hồ
chí Minh."
th́ ra Lê đức Thọ, con người khuynh đăo trong các cuộc ḥa đàm Paris
. Tiểu sử Thọ từ năm 1937 chúng tôi có đầy đủ trong tay, duy tôi
chưa gặp mặt nên không nhận được giọng nói qua điện thoại. Sau Tết
Mậu Thân, Pḥng nh́ Pháp đă có đủ tài liệu để biết Lê đức Thọ là
Tổng chỉ huy bộ máy chiến tranh tại Miền Nam . Y từ Nga trở về hồi
tháng giêng 1975, và đi thẳng vào Nam trực tiếp chỉ huy tổng tấn
công Sài G̣n. Mà Pḥng nh́ biết th́ CIA cũng biết. Tôi nói:
- "Chào ông Tổng tư lệnh, qua vai tṛ trung gian và với thiện chí
lớn lao nhất, nước Pháp hết ḷng đứng ra ḥa giải các phe tranh chấp
để sớm đạt được một nền ḥa b́nh tại Việt Nam. Ông Tổng tư lệnh có
cần gởi đến chúng tôi những quyết định ǵ từ phía Bắc Việt nhằm tức
khắc giải quyết chiến tranh không? Chúng tôi sẽ chào mừng quyết định
của quí vị.’
Thấy ḿnh là kẻ chiến thắng trong canh bạc về sáng, Lê đức Thọ tố xa
láng, không cần che đậy bề trái của sự thật nữa:
- " Quyết định của đăng cộng sản chúng tôi là đánh gục Mỹ, thống
nhất hai miền Nam Bắc, xây dựng nước Việt Nam theo con đường Mác xít
Lê nin nít".
- "Thưa ông Tổng tư lệnh, đó là mục đích. C̣n quyết định chấm dứt
cảnh cốt nhục tương tàn của người Việt, chưa thấy đăng cộng sản Việt
Nam nói tới ?"
Lê đức Thọ hùng hồn giảng thuyết (chỗ nầy ông Mérillon không cho
biết Lê đức Thọ nói bằng tiếng ǵ, v́ y nói tiếng Pháp c̣n kém lắm:
- "Thưa ông Đại sứ, tôi xin nói về chính danh và ư nghĩa cuộc chiến
đấu của chúng tôi. Sau khi đánh bại bọn đế quốc Pháp, đăng và nhân
dân chúng tôi tiếp tục sự nghiêp đánh bọn ngoại xăm đế quốc Mỹ. Cuộc
chiến đấu nầy từ lâu đă được nhân dân thống nhất thành một phong
trào chống Mỹ. Từ ngữ "cốt nhục tương tàn" tôi bảo đăm với ông đại
sứ là do bọn tay sai ngụy quyền Sài G̣n khơi lên để kêu gọi ḷng
thương hại của chúng tôi, chớ không phải lời oán than từ phía nhân
dân. Xác nhận như vậy để ông đại sứ thấy rằng chúng tôi chưa hề
chính thức hóa một nghị tŕnh ḥa giải nào với bất cứ đăng phái nào
tay sai trong Miền Nam với quyết định của chúng tôi là để thắng chớ
không phải để ḥa giải."
- "Thưa ông Tổng tư lệnh, trường hợp nầy th́ vị trí của MTGPMN ở
đâu?"
- "Nó sẽ đứng ở chỗ giải tán khi: một là Đại sứ Mỹ bị bắt, hai là
cuốn cờ bỏ chạy trước khi người cộng sản yêu nước tiếp thu Sài G̣n".
- "Nếu đúng như thế, M TGP MN không phải là một thực thể riêng biệt,
tách rời quyền lực HàNội đứng lên chống Mỹ từ 15 năm qua, và các ông
đă lừa gạt dư luận quốc tế."
- "Thưa ông Đại sứ, dư luận quốc tế hả ? Mà dư luận nào mới được
chớ? Nếu dư luận quốc tế thuộc khối tư bản th́ không xứng đáng để
phẩm b́nh. Đối với nước Pháp chúng tôi xem là bạn. Thưa ông Đại sứ,
chúng ta sẽ bang giao trong t́nh hữu nghị giửa hai nước."
- "Trung Quốc đang yêu cầu chúng tôi dàn xếp một cuộc đ́nh chiến tại
Việt Nam, ông nghĩ sao?
- "Trung Quốc thuộc bọn xét lại, đă biến thể và phản bội nghĩa vụ
giải phóng nhân loại qua chủ nghĩa Lênin. Mọi việc nhúng tay vào của
Trung Quốc chúng tôi xem đó là hành động thù nghịch. Riêng ông Đại
sứ, ngay bây giờ xin ông nhận lời cảnh cáo của chúng tôi. Nếu ông
Đại sứ c̣n tiếp tay với Trung Quốc và các thế lực ngoại bang khác
ngăn cản đà chiến thắng chống đế quốc Mỹ ở Miền Nam , th́ 24 giờ sau
khi tôi đặt chân vào Sài G̣n tôi sẽ trục xuất ông Đại sứ ra khỏi
Việt Nam."
- "Làm như vậy ông không ngại gây sự hiềm khích giữa hai nước sao?"
- "Không, Chánh trị và quyền lợi không chú ư tới những vấn đề nhỏ
nhặt giữa hai nước . Pháp c̣n quyền lợi tại Việt Nam . Pháp đừng nên
gây hấn với Việt Nam bằng giải pháp trung lập nầy nọ, cũng đừng nên
chen vào nội bộ của chúng tôi."
- "Thưa ông Tổng tư lệnh, ông nên nhớ Pháp ngày hôm nay không phải
là Pháp đô hộ ngày hôm qua. Pháp chẳng có quyền lợi ǵ nếu phải bang
giao với một nước Việt Nam cộng sản. Nếu ông cảnh cáo chúng tôi , bù
lại xin ông và đăng cộng sản Việt Nam tiếp nhận lời cảnh cáo của
chúng tôi là số tiền 300 triệu hằng năm viện trợ Miền Nam va 200
triệu viện trợ nhân đạo cho Bắc Việt sẽ không được chuyển giao nếu
giải pháp trung lập bị bác bỏ một cách vô nhân đạo."
Lê đức Thọ có vẻ căm tức, nhưng lần nầy v́ lịch sự, y nói vài lời
cáo lỗi rồi cúp điện thoại, đúng với ư muốn của tôi.
Thật ra chúng tôi cũng vẫn biết cuộc chiến tranh nầy do tập đoàn
HàNội quản lư từ đầu đến cuối, nhưng không trắc nghiệm được phản ứng
ngang tàng của họ mà đại biểu chánh thức là Lê đức Thọ, nhất định
nuốt Miền Nam bằng lá bài quân sự.
Sự kiện nầy đă khuyến khích tôi t́m kiếm những phương pháp cấp thời
chỉnh đốn lại quân đội Việt Nam Cộng Ḥa giữ vững pḥng tuyến để kéo
dài thời gian mặc cả.
Tôi rất ghét người cộng sản thiếu quân tử (đó là cái chắc!) khi họ
thắng trận. Lê đức Thọ là một điển h́nh năm 1964. Thọ đă từng xin
chúng tôi giúp y nói chuyện trực tiếp với Hoa Kỳ, chúng tôi không hề
từ chối. Bất cứ điều ǵ cần đến, nếu thỏa măn được th́ chúng tôi cho
ngay. Họ có mang ơn nước Pháp chớ nước Pháp chưa hề chịu ơn họ. Đến
khi nước Pháp muốn Việt Nam có ḥa b́nh trên nền tảng trung lập có
thành phần quốc gia tham dự, HàNội đă bạc ơn từ chối.
Khi xe tăng Nga vượt hàng rào Dinh Độc Lập lúc 11 giờ sáng th́ tới 3
giờ chiều Lê đức Thọ ngồi trên xe Falcon đến ṭa Đại Sứ Pháp xấc
xược đi thẳng vô pḥng tôi nói:
- "Mérillon, tôi đến đây tống cổ ông rời khỏi Sài G̣n trước 9 giờ
sáng mai "
Tôi gật đầu. Sáng hôm sau ngày 1-5-75 , Thọ c̣n hạ nhục tôi bằng
cách cho công an xét va li và bắt tôi phải ra HàNội trước khi về
Pháp. Tôi phản đối. Khi phi cơ cất cánh, tôi ra lệnh cho phi công
bay luôn sang Bangkok thay v́ ra HàNội .
Hành động sỉ nhục một Đại sứ, Lê đức Thọ và công an Việt Nam phải
trả một giá rất đắt. Tổng số ngân quỷ viện trợ nhân đạo hằng năm
nước Pháp quyết định để dành mua sinh mạng người Miền Nam Việt Nam
không hề cho HàNội một cắt nào suốt 10 năm sau.
Ngày 27 tháng 4/1975.
Chiều ngày 27/4/75, tôi nhận được tin rất phấn khởi: Tướng Trần văn
Trà bắn tin nhờ tôi cấp tốc thành lập chánh phủ trung lập và ông gởi
gấp hai nhân vật thân tín của ông vào chánh phủ, là bà Nguyễn thị
B́nh và ông Đinh bá Thi (ông này bị HàNội giết vài năm sau bằng tai
nạn xe hơi tại vùng Rừng Lá Phan Thiết, sau khi bị Hoa Kỳ trục xuất
về tội mua tài liệu t́nh báo kỹ thuật cho Liên Xô - Lời dịch giả).
Tùy viên quân sự của chúng tôi cũng xác nhận là 2 sư đoàn tập kết
của Trần văn Trà sẽ vào tiếp thu Sài G̣n, phỏng tay trên của đạo
quân Văn tiến Dũng.
CÁC TƯỚNG LĂNH Bị NHỐT TẠI BỘ TỔNG THAM MƯU
Chứng cớ mà Trần văn Trà lấn quyền HàNội trong mưu đồ Miền Nam tự
trị được thể hiện ngay sau ngày 30/4/75 . Trần văn Trà chạy nước
rút, tự ư thành lập Ủy Ban Quân Quản Sài G̣n Gia Định hầu làm bàn
đạp cho MTGPMN nhảy lên nắm chánh quyền trước khi Bắc Việt an bài
chế độ cộng sản. Chung một mục đích: Bắc Việt đoạt chánh quyền để
bành trướng chủ nghĩa cộng sản, c̣n MT GPM N cướp chánh quyền với
thâm ư tạo sự nghiếp danh vọng cá nhân. HàNội có Nga Sô làm điểm
tựa, có toan tính theo từng sách lược, c̣n MT là những chánh trị gia
thời cuộc có tính cách giai đoạn nên cuối cùng bị thua trắng tay, bị
cưỡng bức phải giải tán, cán bộ bị hạ từng công tác (hay thanh
trừng) trong thầm lặng.
Dựa theo quan niệm "c̣n nước c̣n tát", chúng tôi không bỏ lở một cơ
hội nào có thể duy tŕ nhịp thở của Việt Nam Cộng Ḥa đang hấp hối
vào giờ cuối của cuộc chiến. Lúc 9 giờ tối ngày 27/4/75 , chúng tôi
họp với các tướng lănh De Séguins, Pazzi, Bigeard, Langlais,
Vanuxem, Gilles, Pierre Bodet. Các tướng nầy đến Sài G̣n ngày 16/4
trong hảo ư phối hợp với các tướng lănh Việt Nam từng được Pháp đào
tạo trước kia để phản công lại Bắc Việt. Họ đến với tư cách cá nhân.
Qua lời xác nhận của tướng Gilles, chỉ huy quân đoàn nhảy dù Pháp
trong trận Điện biên Phủ, th́ thiếu tuớng Phạm văn Phú không phải
thuộc hàng tướng lănh bỏ lính khi thua trận và chạy dễ dàng như vậy.
Tướng Gilles yêu cầu tôi can thiệp với chánh phủ Việt Nam Cộng Ḥa
trả tự do cho tướng Phú lúc đó đang bị ông Thiệu nhốt chung với các
tướng lănh khác trong Bộ Tổng Tham Mưu. Ông Thiệu đă làm một việc
quá nguy hiểm. Đang lúc quân đội cần tướng mà tướng lănh bị tống
giam, như vậy là có ác ư đập tan nát Bộ Tham Mưu Hành Quân của Việt
Nam Cộng Ḥa.
Ngày 29/4, tướng Phú nằm trong bệnh viện Grall. Tôi điện thoại trấn
an ông, yêu cầu ông đừng bỏ đi sẽ tạo thêm t́nh trạng hỗn loạn hoang
mang cho binh sĩ. Ông húa sẽ không bỏ chạy, nếu không phản công giữ
được Sài G̣n th́ ông thề bỏ xác tại bệnh viện nầy. Tướng Phú đă giữ
lời hứa. Ông là một tướng lănh mà chúng tôi hết sức tin tưởng trong
ván bài trung lập sau Dương văn Minh. Tối 29/4, được tin Dương văn
Minh sẽ đầu hàng cộng sản vào sáng mai, ông đă dùng độc dược tự sát.
Các tướng lănh Pháp cũng đề nghị tôi thực hiện kế hoạch bỏ trống Sài
G̣n qua 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1.- Rút phân nữa quân gồm lực lượng tự vệ, an ninh, cảnh
sát, những binh đoàn nhảy dù, thủy quân lục chiến , biệt động quân,
và các binh chủng thuộc bộ binh, lén di chuyển lúc nửa đêm, sau lưng
cộng sản đi lên các tỉnh B́nh Dương, Tây Ninh, Phước Long, với nhiệm
vụ tái phối trí lực lượng và bồi dưỡng tinh thần binh sĩ.
Phân nữa kia, gồm Hải quân và Không quân di chuyển về miền Tây để
dùng cho các trận chiến sông ng̣i, cắt đường tiến của cộng sản tràn
xuống Quân khu 4 . Mời hai tướng Dương văn Minh và Trần văn Trà công
bố chánh phủ trung lập. Sài G̣n là vùng phi quân sự nơi chỉ nói
chuyện, thương thuyết bằng giải pháp chánh trị. Sài G̣n không có
quân, cộng sản không có cớ đễ tàn phá.
- Giai đoạn 2.- Phản công trên cơ sở du kích, chiếm lại lần hồi đất
đai đă mất và chờ quân viện mới. Thay thế chánh phủ trung lập bằng
một chánh phủ lưu vong Việt Nam Cộng Ḥa. Vai tṛ Dương văn Minh đến
đây coi như chấm dứt. Các tướng Phạm văn Phú, Nguyễn khoa Nam, Lê
nguyên Vỹ, Ngô quang Trưởng được xem là thành phần chủ lực cho chiến
trường tương lai.
Các tướng lănh hồi hưu Pháp quả quyết sẽ t́m được nguồn quân viện
chẳng mấy khó khăn, qua sự đóng góp của các cựu quân nhân Anh, Pháp,
Hoa Kỳ, Do Thái... nếu có lời kêu gọi của Hiệp Hội Cựu Quân Nhân Thế
Giới Tư Do.
Sáng ngày 28/4/75 , tôi chuyển hết kế hoạch nầy cho Dương văn Minh
và định tối 28 th́ sẽ hoàn tất kế hoạch.
KẾ HOẠCH CHƯA ĐƯỢC THỰC HIỆN?
Đại tá tùy viên quân sự của chúng tôi tŕnh bày tỉ mỉ về quân số của
đôi bên.
- Quân cộng sản Bắc Việt hiện đang bao vây Sài G̣n gồm các sư đoàn
304, 308, 312, 320, 322, 325 và 2 sư đoàn MTGPMN, 300 thiết giáp,
600 đại bác đủ loại. Tổng cộng quân số khoảng 70.000, tính cả lực
lượng trừ bị. Đúng như lời Trung Quốc thông báo, HàNội tung hết
quân, bỏ ngỏ HàNội . Giá lúc ấy Trung Quốc chỉ cần cho một vài sư
đoàn diễn binh trên biên giới Hoa Việt th́ lập tức HàNội sẽ tự ư
ngưng chiến và tán thành chánh phủ trung lập rất mau lẹ. Rất tiếc.
- Quân số Biệt khu Thủ đô có khả năng tác chiến, có vũ khí trong tay
ước được 100.000. Can cứ vào vũ khí đạn dược, hỏa lực nặng, tiếp
liệu, và tinh thần chấp nhận chiến đấu th́ Sài G̣n có thể pḥng thủ,
cầm cự được chừng 7 tháng.
Trong 7 tháng đó biết đâu t́nh h́nh lại chẳng thay đổi theo chiều
hướng khác? Chúng tôi đưa ra sự kiện nầy nhằm bác bỏ lập luận nói
rằng cộng sản Việt Nam sẽ thiêu hủy Sài G̣n với số quân gấp 5 lần.
Kinh nghiệm bọn Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh ngày 17 tháng 4/75, đă xảy
ra t́nh trạng chém giết hỗn loạn nguy hiểm đến sinh mạng Pháp kiều
và các phóng viên ngoại quốc, cần Ṭa Đại sứ Pháp che chở. V́ vậy
ngày 19/4/75 tôi đă yêu cầu Bộ Ngoại Giao Pháp tăng phái cho chúng
tôi một trung đội thủy quân lục chiến từ Nouvelle Calédonia đến Sài
G̣n để bảo vệ sứ quán. Lại yêu cầu các vị Lănh Sự ở Đà Nẵng, Cần
Thơ, Đà Lạt, Hué gấp rút kiểm tra lại tổng số Pháp kiều, và phải
tiếp tục ở lại nhiệm sở để trấn an dư luận.
Khi đó có 722 người là người Pháp chính gốc, 9500 người có quốc tịch
Pháp, 11.000 trẻ em lai Pháp sống tại các cơ quan từ thiện. Tất cả
21.000 người nầy sẽ được đưa về Pháp định cư. Tuy nhiên để cứu thêm
mạng người, chúng tôi sẽ gởi cho Hà Nội danh sách đăng kư cho hồi
hương thêm những người hồi tịch Pháp, cựu quân nhân tham dự bên cạnh
quân đội Pháp trong hai thế chiến, công chức thời Pháp và nhân viên
làm việc trong các cơ sở tư nhân Pháp trên lănh thổ Việt Nam. Mỗi
người hội đủ điều kiện như vừa quy định có thể kéo thêm gia đ́nh anh
em ruột thịt, con cháu dâu rể bên ngoại cũng như bên nội. Kết quả
chúng tôi đem về Pháp tất cả 80..000 người. Để mua thêm người cộng
tác với Pháp, mỗi năm chánh phủ Pháp phải trả cho cộng sản máy cày,
dược phẩm, các bộ phận bảo tŕ công ty nhà đèn, thủy cục, nông phẩm
v.v...
Chiều 28/4, tướng Pazzi xuống Cần Thơ gặp tướng Nguyễn khoa Nam .
Sau đó khi trở về tướng Pazzi cho biết miền Tây rất khả quan, chỉ có
quốc lộ 4 tạm thời bị cắt đứt. Tướng Nguyễn khoa Nam đă hai lần yêu
cầu ông Dương văn Minh cho phép ông đem quân giải tỏa Quốc lộ 4,
phản công.., nhưng Dương văn Minh dặn đi dặn lại mấy lần là đừng
phản công mạnh, tạm thời ở tư thế chờ, để ông t́m giải pháp chánh
trị tại Sài G̣n. Tướng Nam than thở với tướng Pazzi: "Nếu tôi đánh
mạnh là bất tuân thượng lệnh, nếu tôi đánh nhẹ th́ tinh thần binh sĩ
mất hết. Đến giờ nầy mà bức màng chánh trị c̣n bịt mắt quân đội. Ông
nói lại với tướng Minh giùm là nước tràn bờ mà không cho đắp đê ngăn
lại! Ông làm chứng giùm tôi: Quân đoàn 4 chúng tôi không thua. Chính
trị Sài G̣n đă trói tay chúng tôi bắt buộc chúng tôi phải thua."
Sáng ngày 30/4/75, sau khi nghe Dương văn Minh đọc bản "trao nước
cho giặc", tướng Nguyễn khoa Nam cùng nhiều tướng lănh liêm sĩ khác
đă chọn câu nói của Voltaire để giữ danh dự của người làm tướng;
"C̣n giữ được danh dự là chưa mất mát nhiều."
Trời đă vào đêm rồi. Đại bác, súng liên thanh nổ gần hơn. Làn sóng
người ngơ ngác t́m đường chạy trốn cộng sản nghẹt cứng cả thành phố.
Ông Đại tướng Dương văn Minh đâu? Tướng Trần văn Trà đâu? Tại sao
những người nầy không xuất hiện để thành lập chánh phủ liên hiệp?
Tôi tự hỏi như thế.
Tôi lo lắng, gọi điện thoại về nhà ông Dương văn Minh. Người trả lời
là trung tá Đẩu, chánh văn pḥng: "Dạ thưa ông Đại sứ, Đại tướng
chúng tôi hiện đi lên Xuân Lộc thương thuyết với người phía bên
kia."
Bỗng nhiên đầu óc tôi căng cứng từng mạch máu, tay chân bủn rủn. Ông
Minh lên Xuân Lộc có nghĩa là gặp trực tiếp thượng tướng Lê đức Anh,
phụ tá Văn tiến Dũng, nơi đây đang có mặt Lê đức Thọ. Tức là ông Đại
tướng đi thẳng với phe Bắc Việt. Ông Minh đi trên tư thế nào? Quân
không có, quan cũng không, chánh phủ chưa có ǵ hết. Như vậy chỉ là
đi đầu hàng Bắc Việt. Công việc nầy không cần đến một Đại tướng!
Trao cho một em bé đánh giầy 10 tuổi cũng làm được.
Cái hướng mà ông Minh cần đi là hướng Củ Chi, nơi thượng tướng Trần
văn Trà đang chờ... Chờ đến kiếp sau !
Những ǵ mà ông Minh hứa với chúng tôi đă như nước đổ lá khoai. Bao
nhiêu kế hoạch, bao nhiêu công tŕnh vận động, phút chốc ông Minh
làm tiêu tan hết. Lại c̣n dối gạt các tướng lănh yêu nước khác, gây
ra sự chậm trể phản công giờ chót, bởi đa số đều tưởng ông Đại tướng
có phép lạ, sáng chế được công thức ngưng bắn tại chỗ để phe quốc
gia không bị thua trong nhục nhă.
Thâm ư của ông Minh là muốn đầu hàng, sau đó ngồi ăn, hưởng cho đến
già.
(Lời dịch giả D.H.N.: Thật đúng như ông Mérillon đă nói, từ ngày
30/4/1975 cho đến ngày nay 1996, Dinh Hoa Lan của ông Minh không mất
một chiếc đủa, không mất một cành hoa, một bụi cỏ nào. Khi ông rời
Việt Nam để đi định cư ở Pháp với toàn bộ gia đ́nh, ông được tự do
mang theo bất cứ thứ ǵ ông muốn, từ những món đồ cổ đến những kỹ
vật, thượng vàng hạ cám... cộng sản phải dùng mấy xe vận tải đưa các
thùng tài sản của gia đ́nh ông xuống bến tàu cho ông. Dinh Hoa Lan ở
đường Testard, bất động sản riêng của ông được ông giao cho trung tá
Khử giữ ǵn và quản lư, đến giờ nầy không một tên cộng sản nào dám
đụng đến. Trung tá Khử hiện là chủ một vườn trồng lan tại Thủ Đức,
cuối thập niên 80 là tổng thơ kư của Hội Hoa Lan Việt Nam ).
Ngày 29/4/1975, 8.00 giờ tối, sau khi nhận lănh chức Tổng Thống do
cụ Trần văn Hương bàn giao lại, ông Minh điện thoại xin lỗi chúng
tôi, bày tỏ sự hối tiếc đă không hợp tác được với chánh phủ Pháp.
Cách duy nhất mà ông phải chọn là đầu hàng Bắc Việt mới mong cứu
sống được thủ đô Sài G̣n.
Tôi lạnh lùng trả lời một câu duy nhất:
- "Thưa Đại tướng, chúng tôi cũng rất lấy làm tiếc. Giờ cuối cùng
của chiến tranh Việt Nam cần có một người lănh đạo cương quyết, dám
dấn thân, nhưng chúng tôi lại đi chọn lầm một bại tướng."
Tôi cúp điện thoại ngay, và từ 10 năm qua tôi không hề và cũng không
muốn liên lạc với ông ta nữa.
NGÀY 1 THÁNG 5
Lúc phi cơ xoay qua một độ nghiêng, lấy hướng qua Bangkok , tôi nh́n
xuống Sài G̣n lần chót. Tự nhiên trong ḷng tôi dâng lên một niềm
ngậm ngùi thương tiếc tất cả những ǵ đang xảy ra dưới đất. Tôi như
người bại trận, hay nói cách khác, tôi xin được làm bạn với người
bại trận, một người bạn đă không chia xẽ mà c̣n bắt buộc Việt Nam
Cộng Ḥa phải gánh chịu hết tất cả ... trong những ngày sắp tới.
Việt Nam và tôi có rất nhiều kỷ niệm, có quá nhiều quan hệ mật thiết
suốt đời không phai lạt. Sống ở Việt Nam lâu năm, tôi cảm thấy
thương xứ sở nầy. Tội nghiệp cho họ, họ có thừa khả năng dựng nước,
nhưng cái quyền làm chủ quê hương đă bị các cường quốc chuyền tay
nhau định đoạt. Tôi xin lỗi người Việt Nam . Tôi đă làm hết sức ḿnh
nhưng không cứu văn được nền ḥa b́nh cho dân tộc Việt. Vĩnh biệt
Sài G̣n, Sài G̣n vẫn hồn nhiên với những mạch sống dạt dào ơn nghĩa,
một khi đă chọn bạn hữu thâm giao.
Năm 1979, Đại sứ Vơ văn Sung có thư mời tôi trở lại thăm Sài G̣n.
Tôi từ chối với lư do không quen với cái tên Hồ chí Minh. Sài G̣n đă
mất, tôi trở lại đó thăm ai? Ở đời có khéo lắm cũng chỉ gạt được
người ta lần thứ hai, làm sao lừa dối được người ta lần thứ ba?
Người cộng sản giả bộ ngây thơ (ở một khía cạnh nào đó) nên tưởng
nhân loại cũng đều ngây thơ như họ. Liên tục nói dối hàng bao nhiêu
năm, tưởng như vậy quần chúng sẽ nhập tâm tin là thật. Họ lầm. Nói
láo để tuyên truyền chỉ có lợi trong chốc lát, nhưng về lâu về dài
th́ chân lư của loài người sẽ đè bẹp họ. Ngày xưa Liên Xô đă xiết
chặt sai khiến họ, dùng Việt Nam làm phương tiện đóng góp cho Nga.
Họ có muốn thoát ly, có muốn nhờ Tây Phương tháo gở cho họ cũng
không được nữa, v́ đă từng phạm lỗi lớn là đă lường gạt Tây Phương..
Sau hết, chế độ Việt Nam Cộng Ḥa thua, nhưng thật ra người Việt Nam
chưa thua cộng sản . Trận chiến chưa chấm dứt vào ngày 30 tháng 4
năm 1975.
Mỗi năm, vợ chồng chúng tôi đều đi xuống Lourdes để kính lễ Đức Mẹ
Lộ Đức. Luôn luôn tôi nhắc nhở nhà tôi, chúng tôi cùng cầu nguyện
cho người Việt Nam đạt được nền ḥa b́nh theo sở nguyện của họ. Tôi
tin rằng Đức Chúa Trời và Đức Mẹ không bỏ rơi dân tộc Việt Nam .
Jean Marie MÉRILLON
Cựu Đại Sứ Pháp tại Việt Nam
HẾT
Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây
biểu chương...
Lễ nghi
quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu,
huy hiệu... QLVNCH
Tiến
tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về
Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6
Gươm lạc giữa rừng hoa
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ
Sắc lệnh về
quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ
quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !
140
chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại
VN
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Tổng Thống Abraham Lincoln
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo
vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng
Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc
Luận về Tậm Lư
Chính Trị
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?
Một tài liệu 42 năm cũ
Dựng
Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi
Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974
Những điều nên biết về
Medicare 2016
Remember C-Rations?
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Tướng lănh VNCH
Bài phỏng
vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột
tháng 3, 1975
Đại Tá
Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần
Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975
tại Sài G̣n
Chuyện của một
ngôi trường
Luận về khoa bảng
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền
Phiếm luận
về mộng mơ qua văn chương và triết học
Chính sách
thuế khóa
Cách viết hoa
trong tiếng Việt
Đoàn
thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa
ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa
Việt Nam
Tiếng Việt ba miền -
Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?
TT
Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?
HCM đă âm mưu
bán nước từ năm 1924
Vài nét
về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải
chiến Midway
Adm
Chester Nimitz
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc
hành quân Lam Sơn 719
Những trận đánh đi vào quân sử
Nguyên nhân xụp
đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng
Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh
chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh
Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng
Nguyên do chính khiến VN bất tử
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và
huyền thoại
Vài nét hoạt
động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến
VNCH
Trung
Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72,
TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng
12 năm 1965
Nhảy Dù và
Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử:
Mậu thân Huế
Trận KAMPONG
TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v
Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn
Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ
QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát
Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân
VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc
Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về
thành nội Tết Mậu Thân
Một ngày với Đô Đốc
Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh
anh dũng và trung thành với Tổ Quốc
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần -
Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối
tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng
Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết
hiên ngang
Chuyến công tác cuối
cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá
BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người
chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà
Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh
một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của
Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn
thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị
bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng
sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi
trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường
BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh
hùng
Lịch sử h́nh thành
QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận
Vong
Người lính
VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người
lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù
bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh
chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính
VNCH
Sự thật về cái chết
của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số
quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những
chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn
Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1,
Phần 2,
Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ
1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn
Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên
Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
QLVNCH
Những người trở về
với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam,
Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ
lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức -
1974
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc
Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù
CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước
Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội
chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối
của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc
Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành
Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú
Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di
sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền
ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc
Kinh