Vô Thường, lược dịch
Der Spiegel phỏng vấn cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Vào tháng 12 năm 1979, trong dịp được
Tuần báo Đức Der Spiegel phỏng vấn, cựu Tổng thống Việt Nam Cộng Ḥa
Nguyễn Văn Thiệu đă phản bác về những liên quan đến chiến tranh Việt
Nam trong tập hồi kư của cựu Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Henry
Kissinger.
*
Spiegel: Thưa ông Thiệu, trong suốt 5 năm từ 1968 đến 1973, Hoa Kỳ
đă nổ lực đàm phán ḥa b́nh cho Việt Nam. Là Trưởng đàm phán của Mỹ,
Henry Kissinger đă mô tả chi tiết trong hồi kư của ḿnh về ông, với
tư cách là Tổng thống Nam Việt Nam, đă phá hoại những nỗ lực của ông
ta như thế nào nhằm mang ḥa b́nh cho cuộc chiến kéo dài nhiều năm,
tổn thất hàng triệu nhân mạng và như muốn “bóp nát trái tim Hoa Kỳ”
như lời của Kissinger nói. Tại sao ông lại cản trở như vậy?
Ông Thiệu: Điều đó hoàn toàn vô lư. Nếu như tôi ngăn cản th́ đă
không thể có chuyện dàn xếp ḥa b́nh trong năm 1973. Tuy nhiên, như
mọi người đă biết, đó không phải là một nền ḥa b́nh tốt đẹp khi
chứng kiến những hậu quả xảy ra tại Việt Nam. Kissinger đại diện cho
chính sách và lợi ích của Chính phủ Hoa Kỳ. Với tư cách là Tổng
thống Việt Nam, tôi có nhiệm vụ bảo vệ những lợi ích sống c̣n của
đất nước tôi.
Tôi đă nhiều lần chỉ ra cho Tổng thống Nixon và Tiến sĩ Kissinger
rằng giũ bỏ vài vị thế không mấy quan trọng tại một quốc gia nhỏ bé
như Việt Nam có thể không có nhiều ư nghĩa đối với một cường quốc
như Hoa Kỳ, nhưng đối với chúng tôi đó là vấn để giữa sự sống và cái
chết của toàn bộ một đất nước.
Spiegel: Kissinger không phủ nhận rằng cuối cùng ông cũng đă đồng ư dàn xếp ḥa b́nh. Nhưng ông ta nói lư do chính khiến phải mất nhiều thời gian v́ ông đă cản trở quyết liệt và lư do thực chất ông không bao giờ phản đối các đề xuất của Mỹ v́ ông tính toán rằng tất cả những đề xuất đó sẽ bị Hà Nội bác bỏ.
Ông Thiệu: Không đúng như vậy. Chỉ mất thêm hơn 2 hoặc 3 ngày hay 2 hoặc 3 tháng để chấm dứt cuộc chiến đă diễn ra gần 30 năm. Tôi nhận ra cuôc chiến này là cuộc chiến dài nhất trong lịch sử của Hoa Kỳ, trong đó họ là người đă viện trợ cho chúng tôi. Có thể v́ vậy mà người Mỹ tỏ ra vội vàng như thế. Tuy nhiên, chúng tôi cần một nền ḥa b́nh vững chắc.
Spiegel: Kissinger ám chỉ rằng ông không thật sự muốn có một giàn xếp ḥa b́nh và hy vọng Bắc Việt cũng sẽ ngoan cố giống như ông. V́ vậy, ông ấy quả quyết dù ông đă đồng ư nhiều đề xuất của phía Mỹ nhưng không bao giờ muốn phải tuân thủ những đề xuất đó, v́ trong bất cứ trường hợp nào ông không tin là thỏa thuận sẽ đạt được. Ông có lừa bịp trong đàm phán với hy vọng ông sẽ không bao giờ phải nói rơ hết ư định của ḿnh?
Ông Thiệu: Không. Một quốc gia phải chịu đựng nhiều như thế trong
suốt hơn 30 năm không thể nào bị kết tội là muốn kéo dài cuộc chiến.
Kissinger muốn tiến hành nhanh để lính Mỹ có thể rút quân và tù binh
Mỹ được phóng thích. Và có thể v́ Chính phủ Mỹ muốn vội vă thoát ra,
“cắt và chạy”.
Họ có thể thoát khỏi cuộc chiến. Chúng tôi phải ở lại Nam Việt Nam.
Chúng tôi có đủ mọi quyền để đ̣i hỏi một sự giàn xếp ḥa b́nh toàn
diện, không phải chỉ là một nền ḥa b́nh trong 2 hoặc 3 năm rồi sau
đó lại thêm một cuộc chiến 30 năm khác.
Spiegel: Vậy tại sao ông dự tính trước Hoa Kỳ theo như Kissinger báo cáo, bằng việc tự ḿnh đề xuất Hoa Kỳ rút quân tại cuộc họp ở Midway tại Thái B́nh Dương vào tháng 6 năm 1969?
Ông Thiệu: Thậm chí trước cuộc họp ở Midway, việc Hoa Kỳ có ư định rút quân là không có ǵ bí mật. Tôi muốn nhắc cho anh nhớ rằng tin tức về kế hoạch rút một số lượng quân Mỹ đă loan tải trên toàn thế giới trước cuộc họp Midway. Tại sao? Tôi cho đó là v́ Chính phủ Mỹ muốn thăm ḍ dư luận, tiết lộ thông in cho báo chí và đưa chúng tôi vào sự việc đă rồi.
Spiegel: Như thế ông đă hiểu rơ được sự việc?
Ông Thiệu: Vâng đúng vậy. Cuộc họp Midway nhằm hai mục đích. Nó mang đến cho hai tân tổng thống một cơ hội để hiểu về nhau và đàm phán về vấn đề Việt Nam. Điểm thứ hai đă vạch rỏ trong nghị tŕnh đó là kế hoạch rút quân Mỹ đầu tiên. Tôi không hề ảo tưởng và tôi nắm bắt được t́nh h́nh. Không có ǵ phải lo lắng và tôi cảm thấy rất tự tin.
Spiegel: Khi đề xuất việc rút quân, ông có thật sự nghĩ rằng ông có thể tự tiến hành chiến tranh và cuối cùng giành thắng lợi trong cuộc chiến - một cuộc chiến tranh mà hơn 540.000 quân Mỹ và bộ máy quân sự hùng mạnh của Hoa Kỳ đă không thể thắng nổi? Thật khó để tin vào điều đó.
Ông Thiệu: Không. Thật ra tôi không phải là người đề xuất. Tôi chỉ đơn giản là chấp thuận. Tôi đồng ư đợt rút quân Mỹ đầu tiên v́ Tổng thống Nixon đă nói với tôi rằng ông ấy có một số vấn đề quốc nội và việc rút quân chỉ hoàn toàn mang tính tượng trưng. Ông ta phải có ư kiến công chúng và Quốc hội phía sau. Nhưng tôi cũng nói với ông ấy rằng ông ta phải chắc chắn Hà Nội không xem đợt rút quân đầu tiên như là một dấu hiệu yếu kém của Hoa Kỳ.
Spiegel: Và ông không nghĩ đó là khởi đầu của việc rút quân toàn bộ?
Ông Thiệu: Không. Tôi có thể h́nh dung đó có thể là bước đầu tiên
trong biện pháp giảm quân số. Tôi không thể nào tưởng tượng nổi Hoa
Kỳ sẽ vứt hết tất cả và bỏ rơi Nam Việt Nam. Tôi đă đề xuất với Tổng
thống Nixon rằng việc cắt giảm nên được tiến hành từng bước, đến khi
khả năng chiến đấu và sự cũng cố quân đội Nam Việt Nam cho phép Việt
Nam có thể đứng trên đôi chân của chính ḿnh, tùy thuộc vào viện trợ
kinh tế và quân sự.
Quan trọng hơn, tôi đă kiến nghị ông ta có thể yêu cầu Hà Nội đổi
lại cũng có hành động tương tự. Người Mỹ hoàn toàn đồng ư với tôi
về….
Spiegel: ….và rút quân tượng trưng?
Ông Thiệu: Tôi nhận ra cuộc chiến Việt Nam cũng gây ra những vấn
đề bên trong nước Mỹ. Và Tổng thống Nixon nói ông cần một cử chỉ
tượng trưng để giải quyết vấn đề đó.
Khi tôi ở Hán Thành và Đài Loan một tuần trước đó, tôi đă nói với
Tổng thống Park Chung Hee và Tổng thống Tưởng Giới Thạch rằng tôi hy
vọng việc rút quân mà tôi bàn bạc với Tổng thống Nixon trong cuộc
đàm phán tại Midway chỉ mang tính tượng trưng. Nhưng tôi đă chỉ ra
rằng chúng tôi không thể ngăn ngừa việc Hoa Kỳ rút toàn bộ quân nếu
họ muốn. V́ vậy sẽ là khôn ngoan hơn khi yêu cầu Mỹ rút quân từng
bước và cùng lúc đó cung cấp viện trợ để chúng tôi xây dựng một quân
đội Nam Việt Nam vững mạnh và hiện đại để thay thế người Mỹ. Tôi
không bao giờ yêu cầu quân đội Mỹ ở lại Việt Nam măi măi.
Spiegel: Quân Mỹ đă đặt tại Nam Hàn và Tây Đức.
Ông Thiệu: Nhưng chúng tôi là những người rất tự trọng. Chúng tôi đă nói với họ chúng tôi cần viện trợ và vũ khí nhưng chúng tôi có đầy nhiệt huyết trong huyết quản và thừa binh lính.
Spiegel: Ông mô tả thế nào về t́nh cảnh của ḿnh khi đó? chỉ vài tháng trước đó, Bộ trưởng Quốc pḥng Hoa Kỳ, Melvin Laird đă đề ra “Việt Nam hoá”. Người Mỹ trước đó đă nói về cuộc chiến “phi Mỹ hóa”. Không phải chỉ tên gọi này thôi cũng đă nói rơ ràng là Hoa Kỳ có ư định rút quân một cách nhanh chóng?
Ông Thiệu: Khi ông Nixon đến Sài G̣n vào tháng 7 năm 1969, ông ta nhắc lại rằng ông cần có công chúng Mỹ phía sau. Tôi hiểu vị thế của ông ta. Nhưng ông ấy không bao giờ lư giải rút quân có nghĩa là cắt giảm nghị tŕnh có hệ thống và theo sáng kiến của Mỹ. Ông ấy chỉ nói về những khó khăn trong nước tại Mỹ và đề nghị tôi giúp. Ông nói “giúp chúng tôi để giúp các anh”. Tôi trả lời “Tôi sẽ giúp các ông để có thể giúp chúng tôi”. Tại cuộc họp chúng tôi lại bàn về vấn đề rút quân từng phần.
Spiegel: Nhưng không đặt ra lịch tŕnh?
Ông Thiệu: Không. Và Ông Nixon lại hứa là bất kỳ đợt rút quân nào cũng sẽ tương xứng với những biện pháp tương tự của phía Bắc Việt và sẽ phù hợp với khả năng pḥng thủ của Nam Việt Nam cũng như đi kèm với những viện trợ thêm về quân sự và kinh tế cho Nam Việt Nam.
Spiegel: Tại thời điểm đó ông có nhận ra Hoa Kỳ đă sẵn sàng đơn phương rút quân nếu cần thiết?
Ông Thiệu: Có, tôi có nghi ngờ điều đó. Nhưng khi đó tôi vẫn rất tự tin và tin tưởng vào đồng minh lớn của chúng tôi.
Spiegel: Có thể ông đúng khi nhận định như vậy. Rỏ ràng trong
cuốn sách của Kissinger chính quyền Nixon không thể “chiến thắng một
cách dễ dàng một chiến dịch có liên can đến hai chính quyền, năm
quốc gia đồng minh và ba mươi mốt ngàn người chết như thể chúng ta
chuyển một đài truyền h́nh”.
Người Mỹ rỏ ràng muốn thoát ra khỏi Việt Nam bằng đàm phán. Họ không
muốn đơn phương rút quân trừ khi họ buộc phải làm điều đó. Ông có
đưa ra bất kỳ yêu cầu nào về các cuộc đàm phán giữa Washington và Hà
Nội?
Ông Thiệu: Chiến tranh đă quá đủ với chúng tôi và chúng tôi quyết định chấm dứt cuộc chiến bằng đàm phán. Chúng tôi yêu cầu những lực lượng đă xâm chiếm đất nước phải rút quân. Tất cả chỉ có vậy.
Spiegel: Ông oán trách sự sụp đổ của Nam Việt Nam trong năm 1975
chủ yếu được quy cho thực tế rằng quân đội Bắc Việt được phép ở lại
miền Nam thậm chí sau khi Hiệp định Ḥa b́nh Paris đă kư kết. Ông
khẳng định ông chỉ bỏ qua sự hiện hiện của Bắc Việt trong khi hiệp
định đang đàm phán và họ phải rút quân khi đàm phán kết thúc.
Nhưng Kissinger khẳng định trong cuốn sách của ḿnh ông không hề đưa
ra phản đối với đề xuất của Mỹ về vấn đề này cho đến tháng 10 năm
1972.
Ông Thiệu: Đó là lời dối trá vô giáo dục nhất từ phía Kissinger
khi nói tôi đồng ư cho quân Bắc Việt lưu lại miền nam. Nếu tôi đồng
ư ngay từ đầu như Kissinger đă nói, th́ tôi đă không phản đối kịch
liệt khi ông ta cho tôi xem bản dự thảo hiệp định trong đó không hề
chứa đựng bất kỳ điều khoản nào về vấn đề rút quân của Bắc Việt.
Đó là điểm quan trọng nhất mà tôi đă đấu tranh trong suốt quá tŕnh
đàm phán hoà b́nh. Từ đầu đến cuối, tôi yêu cầu Kissinger buộc Hà
Nội rút quân và giải thích cho ông ta rằng sẽ chẳng có hiệp định nào
hết trừ khi Bắc Việt thực thi điều đó.
Sau nhiều ngày tranh luận quyết liệt, Kissinger cuối cùng thú nhận
với tôi: “Thưa ngài Tổng thống, điều đó không thể thực hiện được.
Nếu được tôi đă làm. Vấn đề đă được đặt ra cách đấy 3 năm nhưng Liên
Xô sẽ không chấp nhận”. Sau đó tôi nhận ra Chính phủ Hoa Kỳ đă
nhượng bộ yêu cầu của Liên Xô và đó là điều làm tôi thất vọng nhất.
Spiegel: Có thể Liên Xô không có lựa chọn khác v́ Bắc Việt phủ nhận xem Nam Việt Nam như là một ngoại quốc và thậm chí có khi họ phủ nhận Bắc Việt có quân đội thường trực tại Nam Việt Nam.
Ông Thiệu: Chúng tôi đă ở trong chiến tranh hơn 20 năm và chúng tôi biết không bao giờ tin vào những ǵ Nga Xô và Bắc Việt nói. Bắc Việt có quân đội tại Lào, Campuchia và Nam Việt Nam. Tôi nghĩ thậm chí một người mù cũng có thể nh́n thấy điều đó. Để chấm dứt chiến tranh, chúng ta phải nh́n vào thực tế chứ không phải nghe những ǵ kẻ thù đang nói.
Spiegel: Ông có đặt ra những điểm này với Kissinger?
Ông Thiệu: Tất nhiên và cả với Tướng Haig. Tôi hỏi ông ta: “Tướng Haig, ông là một vị tướng và tôi cũng là một vị tướng. Vậy ông có biết một hiệp định ḥa b́nh nào trong lịch sử lại cho phép lực lượng kẻ thù lưu lại trên đất nước mà họ đă xâm chiếm?” Tôi hỏi ông ta: “Liệu ông có cho quân Liên Xô đóng trên lănh thổ Mỹ và nói rằng ông đă đạt được dàn xếp ḥa b́nh với Liên Xô?”
Spiegel: Ông ấy nói thế nào?
Ông Thiệu: Ông ta không nói ǵ cả. Làm sao ông ta có thể nói ǵ - điều đó thật phi lư. Ông ta nói ǵ đây?
Spiegel: Kissinger đă đưa ra câu trả lời trong cuốn sách của ḿnh. Ông ấy nói Bắc Việt sẽ không thực hiện rút quân v́ Hà Nội sẽ không nhượng bộ trên bàn đàm phán những ǵ họ không bị buộc phải từ bỏ trên chiến trường. Nhưng ông ta nói thêm Hiệp định Ḥa b́nh Paris chứa đựng một điều khoản nghiêm cấm bất kỳ việc xâm lấn thêm nào và kế luận “điều này sẽ làm cho lực lượng Bắc Việt tại miền nam hao ṃn làm tiêu hao sinh lực một cách tự nhiên”.
Ông Thiệu: Khi đàm phán với Cộng Sản, tôi cảm giác như Chính phủ
Hoa Kỳ và cụ thể là Tiến sĩ Kissinger hoàn toàn không biết ǵ về
những trải nghiệm không mấy ngọt ngào của Pháp với Cộng Sản vào năm
1954 hoặc từ cuộc chiến Triều Tiên. Họ không biết ǵ về những cuộc
hội đàm với Lào và Campuchia. Họ không biết làm thế nào để đối phó
với Cộng Sản và làm thế nào để lư giải chiến lược và chiến thuật của
họ.
Do đó chúng ta trở lại vấn đề làm sao Tiến sĩ Kissinger, người đại
diện cho một nước lớn và khoe khoang rằng ông ta là thương thuyết
gia tài ba nhất, lại có thể tin rằng quân Bắc Việt sẽ không xâm
chiếm Nam Việt Nam. Làm sao ông ta có thể tin như vậy?
Liệu ông ta có thể canh gác trên tất cả chốt biên pḥng dọc biên
giới của Campuchia, Lào và Nam Việt Nam. Thậm chí nếu chúng tôi có
một triệu lính canh gác quốc tế, chúng tôi cũng không thể chứng minh
là không hề có sự xâm chiếm nào. Làm sao ông ta có thể tin vào những
ǵ Bắc Việt nói. Ông ta có thể tin vào Cộng Sản nhưng chúng tôi th́
không. Đó là v́ sao tôi khăng khăng yêu cầu Bắc Việt rút quân. Nếu
Bắc Việt thật sự muốn có ḥa b́nh, tại sao họ muốn ở lại?
Spiegel: Kissinger nói ǵ về điều đó?
Ông Thiệu: Ông ta có thể nói ǵ đây? Điều mà ông ta và Chính phủ Hoa Kỳ thật sự muốn là rút quân càng sớm càng tốt và đảm bảo tù binh Mỹ được phóng thích. Họ nói với chúng tôi họ muốn một giải pháp danh dự, nhưng họ thật sự muốn giải quyết mọi việc và thoát ra càng nhanh càng tốt mà không bị người dân Việt Nam và phần c̣n lại của thế giới lên án v́ đă bỏ rơi chúng tôi trong cơn hoạn nạn. Đó là vấn đề của họ.
Spiegel: Kissinger viết ngay sau cuộc tiến công mùa xuân của Bắc Việt năm 1972, vai tṛ có vẻ như đă bị đảo ngược. Bắc Việt bất ngờ muốn nối lại đàm phán trong khi Nam Việt Nam lại muốn chiến đấu đến khi giành thắng lợi cuối cùng.
Ông Thiệu: Hoàn toàn vô lư! Tiến sĩ Kissinger hiểu thế nào là chiến thắng? Bắc Việt đă gây ra chiến tranh tại Nam Việt Nam. Chúng tôi muốn họ rút quân. Đó gọi là chiến thắng sao? Tôi không bao giờ yêu cầu người của Bắc Việt được xem là tù binh chiến tranh tại Nam Việt Nam. Tôi không bao giờ đ̣i hỏi Bắc Việt trả bồi thường chiến tranh. Tôi không bao giờ đ̣i hỏi Bắc Việt nhượng bộ lănh thổ. Tôi không bao giờ yêu cầu có ghế trong chính phủ tại Hà Nội. Vậy Kissinger hiểu chiến thắng và chiến thắng toàn diện là ǵ?
Spiegel: Về vấn đề rút quân của Bắc Việt, theo Kissinger ngày 31 tháng 5 năm 1971 là một ngày quan trọng. Đó là thời điểm trong các cuộc đàm phán bí mật, Hoa Kỳ đă từ bỏ yêu cầu hai bên cùng rút quân. Tiến sĩ Kissinger nói ít nhất ba lần trong cuốn sách rằng ông đă được thông báo trước và ông đă đồng ư.
Ông Thiệu: Tôi không bao giờ đồng ư việc đơn phương rút quân. Sau
cuộc họp Midway, tôi luôn luôn yêu cầu rút quân từng phần và cả hai
bên cùng rút quân. Mỹ đă thay đổi lập trường và sử dụng chiến thuật
thông thường nhằm ép buộc chúng tôi để chiếm lấy và đặt thanh gươm
Damocles lên đầu chúng tôi, trích dẫn dư luận Mỹ với những nhận xét
như: “Bây giờ ông đang có một h́nh ảnh rất xấu tại Mỹ!” hoặc “Quốc
hội sẽ cắt giảm viện trợ.”… Họ sử dụng lại chiến thuật cũ, tiết lộ
cho báo chí và đặt chúng tôi vào việc đă rồi.
Nếu tôi từ chối dư luận sẽ quay sang chống đối tôi: “Ông ta đ̣i hỏi
quá nhiều, ông ta sẽ không bao giờ để Mỹ rút quân, ông ta sẽ không
bao giờ để tù binh Mỹ trở về nhà”. V́ vậy tôi phải nhượng bộ. Không
tự nguyện nhưng miễn cưỡng. Làm sao tôi có thể phản đối khi họ sẽ
nói ngay rằng: “viện trợ sẽ bị cắt nếu ông không tuân theo”.
Spiegel: Kissinger nói ông luôn được tham vấn trước về tất cả mọi quyết định của Hoa Kỳ, dưới bất kỳ h́nh thức nào.
Ông Thiệu: Đúng, họ có bàn bạc với tôi, nhưng tất nhiên họ không muốn nghe tôi nói “không” đối các quyết định phục vụ cho lợi ích của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, trong hầu hết trường hợp áp lực đem lại cho họ hầu hết những ǵ họ muốn.
Spiegel: Kissinger giờ đây chỉ trích một cách cay đắng về cuộc tiến công Lào năm 1971. Ông ấy nói ông cho rằng cuộc tiến công mùa khô là rất cấp thiết. Vậy ư tưởng ban đầu là của ai?
Ông Thiệu: Đó là ư tưởng của họ. Trước đó rất lâu chúng tôi đă từng muốn tiến hành cuộc tấn công, nhưng chúng tôi không thể thực hiện một ḿnh. Bây giờ Hoa Kỳ đề xuất nên chúng tôi vui vẻ đồng ư để chấm dứt cuộc chiến nhanh hơn. Đó là một chiến dịch liên quân Việt-Mỹ với các nhiệm vụ qui định rất rơ ràng: quân đội Nam Việt Nam có nhiệm vụ tiến hành chiến dịch tại Lào và lính Mỹ sẽ hỗ trợ tiếp tế bên ngoài Việt Nam, từ biên giới đến nơi giao chiến.
Spiegel: Tại sao? V́ quốc hội Mỹ rơ ràng đă cấm đoán quân Mỹ xâm nhập lănh thổ Lào?
Ông Thiệu: Tôi tin là vậy. Nhưng cũng bởi v́ chúng tôi không có phương tiện tiếp tế cho binh lính và quan trọng nhất là chuyên chở thương binh ra ngoài. Điều đó chỉ có thể tiến hành bằng trực thăng và Hoa Kỳ là bên duy nhất có đầy đủ trực thăng. Không có trực thăng, chúng tôi không bao giờ đồng ư tiến hành chiến dịch tại Lào.
Spiegel: Kissinger nói binh lính của ông gặp vấn đề khi đưa ra yêu cầu không quân hỗ trợ v́ các đơn vị Việt Nam gần như không có những chuyên viên kiểm soát mặt đất được huấn luyện có thể nói được tiếng Anh.
Ông Thiệu: Hoàn toàn không có vấn đề ǵ đối với việc hỗ trợ của không quân. Chúng tôi không hề lo lắng nếu thỉnh thoảng không có không quân hỗ trợ, chúng tôi đă có pháo binh. Vấn đề là người Mỹ đă mất nhiều phi công trực thăng trong ba ngày đầu tiên của chiến dịch. V́ thế họ không sẵn sàng cất cánh theo lịch tŕnh và với số lượng cần thiết. Điều đó đă trở thành một vấn đề lớn đối với quân đội Nam Việt Nam.
Spiegel: Có phải tinh thần binh lính đă suy sụp?
Ông Thiệu: Chúng tôi không thể chuyên chở binh lính tử trận và thương binh ra ngoài. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến tinh thần mà c̣n cả đến việc tiến hành chiến dịch.
Spiegel: Kissinger đưa ra một lư do khác giải thích tại sao chiến dịch thất bại. Ông ta nói ông đă ra lệnh cho binh sĩ của ḿnh phải thận trọng khi di chuyển về phía tây và ra lệnh chấm dứt chiến dịch toàn bộ ngay khi chịu tổn thất 3.000 binh lính. Kissinger cho rằng người Mỹ sẽ không bao giờ chấp thuận kế hoạch có hạn chế này và đă được thông báo đến cho họ.
Ông Thiệu: Đối với một quân nhân, ư tưởng đặt ra một giới hạn về số thương vong trước là rất vô lư. Tiến sĩ Kissinger phải là một người rất giàu trí tưởng tượng khi nói như thế. Chúng tôi chỉ có thể di chuyển về phía tây xa đến mức mà trực thăng di tản có thể bay đến. Kissinger nói chúng tôi rút quân mà không hề thông báo cho phía Mỹ. Làm sao chúng tôi có thể triệt thoái hơn 10.000 quân mà không hề thông báo cho người Mỹ?
Spiegel: Vậy là ông đă thông báo cho họ biết?
Ông Thiệu: Ồ, tất nhiên. Và hăy để tôi kể cho anh nghe một câu chuyện. Khi đó tờ Time hay Newsweek ǵ đó đă đăng tải bức h́nh một binh sĩ Nam Việt Nam đang cố bám vào bộ phận hạ cánh của một chiếc trực thăng với chú thích “kẻ hèn nhát”. Tôi chỉ cười. Tôi thấy điều đó thật kinh khủng. Không thể nào ngăn cản một binh sĩ bị bỏ rơi khỏi những hành động như thế. Nhưng tờ báo đă nhục mạ binh lính Nam Việt Nam như là những kẻ hèn nhát và cùng lúc đó hoàn toàn che dấu một sự thật là phi công trực thăng Hoa Kỳ không có tinh thần chiến đấu trong chiến dịch này.
Spiegel: Một điểm cốt lỏi trong sự tranh căi giữa Nam Việt Nam và Hoa Kỳ là vấn đề ngừng bắn. Theo Kissinger, Chính phủ Mỹ đă quyết định đề xuất một cuộc ngưng bắn trên chiến tuyến hiện hữu ngay đầu mùa hè năm 1970. Kissinger nói ông không những đồng ư mà c̣n chấp thuận đề xuất đó.
Ông Thiệu: Đúng vậy. Tôi cũng cho rằng ngưng bắn là một bước đầu tiên rất quan trọng để hoàn thành những nghĩa vụ của một thoả thuận hoà b́nh. Nhưng về vấn đề là ngay lặp tức - tôi nhắc lại một cuộc ngưng bắn ngay lặp tức - th́ tôi không bao giờ đồng ư với Kissinger. Tôi nói chúng ta phải xem xét điều đó một cách cẩn trọng. Không thể tuyên bố ngưng bắn cho đến khi đă có những suy xét cẩn thận về việc ai sẽ là người giám sát cuộc ngưng bắn và điều ǵ sẽ xảy ra trong trường hợp có vi phạm, binh lính sẽ đóng ở đâu…
Spiegel: Kissinger viết: “Chúng tôi vẫn nghĩ rằng chúng tôi đang cùng làm việc với Thiệu”. Người Mỹ không hiểu rằng ông đang áp dụng “chiến thuật lăng tránh của người Việt Nam đối với người nước ngoài”.
Ông Thiệu: Điều đó không bao giờ xảy ra với một nước nhỏ như chúng tôi, một nước nợ gần như tất cả mọi thứ của đồng minh lớn và vẫn đang yêu cầu viện trợ lâu dài, lại có thể chơi tṛ bịp bợm.
Spiegel: Nhưng ông phải nghĩ rằng cuộc chiến cuối cùng cũng thất bại khi Mỹ rút quân và Bắc Việt được phép duy tŕ quân đội tại Nam Việt Nam?
Ông Thiệu: Không hẳn như vậy, nếu chúng tôi tiếp tục nhận được
viện trợ từ Hoa Kỳ và Chính phủ Hoa Kỳ giữ lời hứa khi chúng tôi kư
vào bản hiệp định. Thậm chí khi kư kết hiệp định, tôi vẫn nghĩ đó
chỉ là một drôle de paix - một nền ḥa b́nh giả mạo.
Nhưng chúng tôi vẫn tin chúng tôi có thể chống cự lại bất kỳ sự xâm
lăng nào của Bắc Việt nếu họ vi phạm các điều khoản của dàn xếp ḥa
b́nh. Chúng tôi có hai lư do để tin tưởng: thứ nhất, chúng tôi có
một bảo đảm bằng văn bản từ Tổng thống Nixon rằng Mỹ sẽ đáp trả bằng
tất cả lực lượng nếu thoả thuận bị vi phạm.
Spiegel: Mặc dù ông ta không bao giờ nói là đáp trả như thế nào.
Ông Thiệu: Thứ hai, chúng tôi được nhận đầy đủ viện trợ kinh tế và quân sự đến khi nào chúng tôi cần để chống lại sự xâm lăng của Bắc Việt. Liệu Chính phủ Mỹ có giữ đúng lời hứa đó? Cuộc chiến có thể tiếp tục nhưng Bắc Việt sẽ không thể lật đổ Nam Việt Nam.
Spiegel: Ông và Kissinger ít nhiều đồng ư về điểm này. Ông ta viết, toàn bộ chiến lược có thể thành công nếu Hoa Kỳ ở vào vị thế có thể hành động với tất cả những vi phạm giàn xếp hoà b́nh của Bắc Việt và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho Nam Việt Nam. Cái ǵ đă sai? Kissinger đổ lỗi cho vụ Watergate và sự xói ṃn của chính quyền hành pháp. Ông có thật sự nghĩ vụ Watergate phải chịu trách nhiệm cho sự thất bại?
Ông Thiệu: Xin lỗi nhưng tôi không phải là một người Mỹ. Tôi không có trách nhiệm phải dọn dẹp trước hàng rào của họ. Nhưng nếu họ giữ lời hứa, đó sẽ là một cản trở tốt nhất đối với những sự xâm lăng thêm của Bắc Việt và có thể kết thúc chiến tranh.
Spiegel: Nếu Mỹ giữ lời hứa, ông có nghĩ bản hiệp định có thể dẫn đến một kết quả thành công toàn diện?
Ông Thiệu: Tôi tin có thể sẽ là như vậy.
Spiegel: Vậy về tổng thể, Hiệp định Paris không phải quá tệ?
Ông Thiệu: Đó chắc chắn không phải là một thỏa thuận tốt đẹp đối với chúng tôi. Đó là một thảo thuận giả tạo. Nhưng đó là phương kế cuối cùng. Anh phải hiểu là chúng tôi chỉ kư kết, như tôi đă nói, bởi v́ chúng tôi có đảm bảo từ phía Chính phủ Hoa Kỳ và Hiệp định được bảo đảm bởi 12 quốc gia và Liên Hiệp Quốc.
Spiegel: Kissinger đưa ra b́nh luận một cách chua cay trong cuốn sách của ḿnh về nhiều chính trị gia lớn. Nhưng ông ta có vẻ giành nhiều sự miệt thị đối với ông. Mặc dù ông ta ngưỡng mộ sự “thông minh”, “ḷng dũng cảm” và “nền tảng văn hoá” của ông. Ông ta chăm chú đến “sự điều hành tàn bạo”, “xấc láo”, “sự ích kỷ độc ác” và “thủ đoạn gần như điên cuồng” của ông khi làm việc với người Mỹ. Ông nói ǵ về những gán ghép này trong hồi kư của Kissinger?
Ông Thiệu: Tốt hơn là tôi không trả lời. Tôi thà không nói ǵ về ông ta. Ông ấy có thể nghĩ bất cứ điều ǵ ông ta thích về tôi, tốt hoặc xấu. Tôi thích nói về những ǵ đă thật sự xảy ra giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam hơn.
Spiegel: Phải chăng ông đă đem đến cho ông ta một lư do nào đó để viết về ông theo một cách coi thường như thế này?
Ông Thiệu: Có thể ông ta ngạc nhiên v́ phải làm việc với một
người quá thông minh và tài giỏi. Cũng có thể có vài điều phải làm
với tính phức cảm tự tôn của một người quá tự phụ. Có thể ông ta
không thể tin rằng một người đối thoại Việt Nam lại b́nh đẳng với
một người tự cho rằng ḿnh rất quan trọng.
Để tôi kể anh nghe một chuyện khác, tôi cảm thấy thật buồn cười tại
đảo Midway v́ tôi không thể nào tưởng tượng nỗi những người như thế
lại cực kỳ đê tiện. Trong dịp đó, ông Nixon, ông Kissinger, phụ tá
của tôi và tôi họp tại nhà của một sỹ quan hải quân Mỹ. Có ba cái
ghế thấp và một cái cao hơn. Ông Nixon đă ngồi ở ghế cao hơn.
Spiegel: Giống như phim “Nhà độc tài vĩ đại”của Chaplin? Trong đó, Hitler đă ngồi ở một cái ghế cao để ông ta có thể nh́n xuống Mussolini đang ngồi tại nghế thấp hơn.
Ông Thiệu: Nhưng tôi đă t́m một cái ghế khác cao ngang bằng cho tôi trong giờ nghỉ để cùng cấp với Nixon. Sau cuộc họp Midway, tôi nghe từ vài người bạn Mỹ của tôi rằng Kissinger không bao giờ trông đợi Tổng thống Thiệu trở thành một người như ông ta.
Spiegel: Kinssinger phàn nàn trong cuốn sách của ḿnh rằng ông đă đối đăi với ông ta thật tệ hại trong cách cư xử cá nhân của ḿnh, rằng ông đă bỏ cuộc hẹn lướt ván, Nixon thậm chí c̣n nói thêm, theo Kissinger, ông ta nói ông là “một thằng chó đẻ” và nói: “tàn bạo là b́nh thường, … sẽ không bao giờ được nh́n thấy, nếu… không đi cùng”.
Ông Thiệu: Xin lỗi nhưng tôi không có ǵ để nói về điều đó. Tôi
được giáo dục đầy đủ và tôi từ chối trả lời những lời b́nh phẩm mất
lịch sự và khiếm nhă như vậy.
Nếu tôi không tiếp đăi Tiến sĩ Kissinger và Đại sứ Bunker, đó đơn
giản là v́ chúng tôi chưa đạt đến một điểm để có thể tiếp tục thảo
luận với họ. Họ mất 4 năm vậy tại sao buộc tôi phải trả lời trong
một giờ. Nếu người Mỹ có thể bỏ ra thời gian th́ tại sao tôi lại
không thể? Chúng tôi có thể phù hợp với họ nếu chúng tôi là những
người ba phải, cái ǵ cũng đồng ư. Nhưng tôi không phải là một người
ba phải và người miền nam không phải là một quốc gia của những người
ba phải, Quốc hội chúng tôi không phải là một Quốc hội của những
người ba phải. Tôi phải bàn bạc với họ.
Spiegel: Tiến sĩ Kissinger viết rằng thái độ của ông đối với ông ta về cơ bản được xác định là “căm thù một cách độc địa”
Ông Thiệu: Không. Tôi chỉ bảo vệ lợi ích của đất nước tôi. Chắc chắn là có những cuộc tranh luận nảy lửa nhưng thái độ của tôi luôn luôn kiềm chế bởi động cơ yêu nước.
Spiegel: Kissinger viết ông có vài điều kiện để đạt được “vị thế gần như là không thể” trong đó ông tự nhận thấy. Ông có nhận ra dấu hiệu nào của điều kiện đó?
Ông Thiệu: Không. Tất cả những ǵ tôi nhận thấy là áp lực từ Chính phủ Mỹ.
Spiegel: Kissinger viết ông không bao giờ tham gia vào một cuộc đàm phán dựa trên khái niệm. Ông ấy nói ông “đấu tranh theo cách của người Việt Nam: gián tiếp, giản lượt, bằng phương pháp nhằm làm cạn kiệt hơn là làm sáng tỏ, luôn luôn chăm chọc nhưng không bao giờ giải quyết vấn đề thực tế”
Ông Thiệu: Hăy đặt anh vào vị trí của tôi. Tôi đồng ư ngay từ đầu
rằng Chính phủ Mỹ nên tham gia đàm phán bí mật với Hà Nội. Kissinger
nói tôi sẽ luôn luôn được thông báo. Đúng, tôi đă được thông báo.
Tôi được nghe những ǵ ông ta chọn để nói với tôi. Nhưng tôi tin
đồng minh của tôi sẽ không bao giờ lừa gạt tôi, dàn xếp thỏa thuận
trên đầu tôi và bí mật bán đất nước tôi.
Nhưng, anh có thể tưởng tượng được không, chỉ bốn ngày trước khi ông
ta ra Bắc Việt vào tháng 10 năm 1972, ông ta đưa tôi bản dự thảo
hiệp định sẽ được kư tắt tại Paris bằng tiếng Anh? Chúng tôi phải
thẩm tra bản thảo bằng tiếng Anh từng điểm một.
Và bản thảo không phải được đưa ra bởi Nam Việt Nam và Hoa Kỳ mà là
bởi Bắc Việt và Hoa Kỳ. Anh có tưởng tượng nỗi điều đó không? Theo
logic thông thường Nam Việt Nam và Hoa Kỳ phải thỏa thuận về những
điều kiện của dàn xếp ḥa b́nh trước và sau đó Kissinger quay lại
với chúng tôi nếu Bắc Việt đưa ra bất kỳ đề xuất trái ngược nào.
Nhưng ông ta đă không làm như thế.
Thay vào đó, ông ta soạn thảo những điều khoản của hiệp định chung
với Bắc Việt và đưa cho tôi xem bằng tiếng Anh. Hiệp định hoà b́nh
sẽ quyết định số phận chúng tôi. Anh có tưởng tượng được tôi cảm
thấy như thế nào khi chúng tôi thậm chí không thể nh́n thấy nguyên
bản bằng chính ngôn ngữ của chúng tôi?
Spiegel: Nhưng cuối cùng ông cũng nhận được bản tiếng Việt?
Ông Thiệu: Chúng tôi khăng khăng đ̣i hỏi, đ̣i hỏi và đ̣i hỏi và cuối cùng ông ta đồng ư, dù tất nhiên là miễn cưỡng. Và chúng tôi đă phát hiện ra nhiều cạm bẫy. Tôi hỏi Tiến sĩ Kissinger và Đại sứ Bunker “Ai đưa ra bản tiếng Việt?” Họ trả lời “một người Mỹ rất giỏi từ trường Đại học Ngôn ngữ học Quốc tế tại Hoa Kỳ cộng tác với Bắc Việt”. Nhưng không người Mỹ nào có thể hiểu và viết tiếng Việt tốt hơn một người Việt Nam. Và không người Mỹ nào có thể làm việc với Cộng Sản Việt Nam bằng tiếng Việt giỏi hơn chúng tôi. Liệu đó có phải là cách ứng xử danh dự và ngay thẳng của phía đồng minh?
Spiegel: Các giới chức cấp cao tại Mỹ nói đă từng nghĩ rằng tất cả những ǵ mà Kissinger theo đuổi là một khoảng thời gian hợp lư giữa việc rút quân Mỹ và sự sụp đổ cuối cùng của Sài G̣n. Kissinger nói trong cuốn sách của ḿnh là điều đó không đúng. Ông nghĩ thế nào?
Ông Thiệu: Bất kể người Mỹ nói ǵ, tôi tin rằng mục đích cuối cùng của Chính phủ Mỹ là một chính phủ liên hiệp tại Nam Việt Nam.
Spiegel: Kissinger đưa ra nhiều bằng chứng cho thấy điều đó không đúng.
Ông Thiệu: Người Mỹ cố gắng ép buộc chúng tôi đồng ư bản hiệp định. Nếu chúng tôi đồng ư, họ có thể hănh diện là đă giải quyết mọi việc bằng một “thoả thuận danh dự”. Họ có thể nói với dân chúng tại nhà rằng: “Chúng tôi đang rút quân, chúng tôi đảm bảo tù binh sẽ được phóng thích”. Và có thể nói với phần c̣n lại của thế giới rằng: “Chúng tôi đă mang lại hoà b́nh cho Nam Việt Nam. Bây giờ th́ tuỳ thuộc vào người dân Nam Việt Nam. Nếu chính phủ liên hiệp có bị Cộng Sản chi phối th́ đó là vấn đề của họ. Chúng tôi đă đạt được một giải pháp danh dự.”
Spiegel: Kissinger viết: “Chúng tôi có một nguyên tắc trong đàm phán đó là người Mỹ không phản bội những người bạn của ḿnh”.
Ông Thiệu: Thôi được, vậy hăy nh́n vào vị thế hiện nay tại Nam Việt Nam, Campuchia và tất cả Đông Dương. Khi chúng tôi đàm phán thỏa thuận ḥa b́nh với những đại diện của Chính phủ Mỹ, chúng tôi thường có cảm giác họ không chỉ chơi tṛ xỏ lá mà họ c̣n thật sự là người đáng bị lên án trong hành động.
Spiegel: Ông có bao giờ cảm thấy biết ơn về những ǵ mà người Mỹ đă giúp đỡ cho đất nước ông? Kissinger nói trong cuốn sách của ḿnh: “đáng giá cao về những ǵ được giúp đỡ không phải là một đặc điểm của người Việt Nam”.
Ông Thiệu: [Cười] Về những ǵ mà Kissinger viết trong sách, tôi nghĩ chỉ có người với một tinh thần bị méo mó mới có thể nghĩ như vậy, chỉ có thể xảy ra với một người có tính khí không b́nh thường. Ông ta ám chỉ trong cuốn sách của ḿnh rằng ông ta sợ người Việt Nam sẽ trả thù những người Mỹ c̣n ở lại sau khi Washington đă bỏ rơi chúng tôi. Bây giờ và không bao giờ chúng tôi làm điều đó.
Spiegel: Cá nhân ông có cảm thấy biết ơn ǵ không?
Ông Thiệu: Tôi có thể nói một cách thành thật rằng nếu Chính phủ
Mỹ không phản bội chúng tôi và không đâm sau lưng chúng tôi, người
dân Việt Nam sẽ cảm thấy rất biết ơn. Sau khi chúng tôi có một cuộc
bàn luận căng thẳng với Kissinger về từ ngữ của hiệp định ḥa b́nh,
vài thành viên của chính phủ tôi nói rằng sẽ là một ngày may mắn cho
chúng tôi nếu Kissinger làm cho Nam Việt Nam bằng như những ǵ mà
ông ta đă làm cho Bắc Việt. Tôi nói với họ nếu ông ta đàm phán một
nền hoà b́nh đích thực với Bắc Việt, ông ta sẽ có cho riêng ḿnh một
đài kỷ niệm tại Nam Việt Nam giống như tượng của tướng McArthur tại
Nam Hàn. Tiếc thay mọi chuyện đă không diễn ra như vậy.
Về hậu quả của ḥa b́nh, tôi nghĩ tốt nhất là để tự người Mỹ phán
quyết về những ǵ mà Kissinger đă làm cho Nam Việt Nam: những trại
tập trung, nạn đói kém, hành hạ tra tấn, hàng ngàn thuyền nhân mất
tích trên Thái B́nh Dương và nạn diệt chủng c̣n khủng khiếp và được
tiến hành có hệ thống hơn cả nạn diệt chủng tại Campuchia. Kissinger
không có lư do ǵ để tự hào về nền ḥa b́nh mà ông ta đă mang đến.
Đó là mồ chôn của ḥa b́nh.
SPIEGEL: Cảm ơn ông Thiệu đă giành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
Der Spiegel
Vô Thường, lược dịch
Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây
biểu chương...
Lễ nghi
quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu,
huy hiệu... QLVNCH
Tiến
tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về
Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6
Gươm lạc giữa rừng hoa
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ
Sắc lệnh về
quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ
quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !
140
chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại
VN
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Tổng Thống Abraham Lincoln
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo
vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng
Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc
Luận về Tậm Lư
Chính Trị
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?
Một tài liệu 42 năm cũ
Dựng
Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi
Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974
Những điều nên biết về
Medicare 2016
Remember C-Rations?
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Tướng lănh VNCH
Bài phỏng
vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột
tháng 3, 1975
Đại Tá
Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần
Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975
tại Sài G̣n
Chuyện của một
ngôi trường
Luận về khoa bảng
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền
Phiếm luận
về mộng mơ qua văn chương và triết học
Chính sách
thuế khóa
Cách viết hoa
trong tiếng Việt
Đoàn
thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa
ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa
Việt Nam
Tiếng Việt ba miền -
Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?
TT
Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?
HCM đă âm mưu
bán nước từ năm 1924
Vài nét
về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải
chiến Midway
Adm
Chester Nimitz
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc
hành quân Lam Sơn 719
Những trận đánh đi vào quân sử
Nguyên nhân xụp
đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng
Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh
chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh
Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng
Nguyên do chính khiến VN bất tử
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và
huyền thoại
Vài nét hoạt
động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến
VNCH
Trung
Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72,
TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng
12 năm 1965
Nhảy Dù và
Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử:
Mậu thân Huế
Trận KAMPONG
TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v
Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn
Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ
QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát
Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân
VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc
Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về
thành nội Tết Mậu Thân
Một ngày với Đô Đốc
Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh
anh dũng và trung thành với Tổ Quốc
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần -
Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối
tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng
Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết
hiên ngang
Chuyến công tác cuối
cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá
BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người
chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà
Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh
một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của
Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn
thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị
bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng
sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi
trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường
BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh
hùng
Lịch sử h́nh thành
QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận
Vong
Người lính
VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người
lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù
bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh
chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính
VNCH
Sự thật về cái chết
của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số
quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những
chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn
Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1,
Phần 2,
Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ
1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn
Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên
Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
QLVNCH
Những người trở về
với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam,
Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ
lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức -
1974
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc
Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù
CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước
Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội
chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối
của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc
Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành
Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú
Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di
sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền
ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc
Kinh