Đoàn Văn Toại
@DCVOnline
Khi cộng sản chiếm miền Bắc Việt Nam năm
1954, hàng triệu người đă lũ lượt di cư vào Nam.
Tôi đă tận tai nghe nhiều câu chuyện về sự đau khổ tột cùng của họ.
Nhưng cũng như nhiều người miền Nam lúc ấy, tôi đă không tin vào
những câu chuyện đó. Cả về sau này, tôi cũng đă không tin về những
câu chuyện được kể trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag
Archipelago) của văn hào Solzhenitsyn. Tôi không tin v́ cho rằng đó
là những luận điệu tuyên truyền chống Cộng. Nhưng vào năm 1979, tôi
đă cho xuất bản cuốn sách Việt Nam Ngục Tù của chính tôi. Liệu những
người đă từng nếm trải những kinh hoàng dưới chế độ cộng sản có bao
giờ thử thuyết phục những người không có cái kinh nghiệm này?
Kể từ năm 1945, năm tôi ra đời tại huyện Cái Vồn thuộc tỉnh Vĩnh
Long, một tỉnh lỵ cách Sài G̣n 160 km về hướng Nam, cho đến khi ngày
tôi rời Việt Nam vào tháng 5/1978, tôi chưa từng một ngày vui hưởng
hoà b́nh. Căn nhà gia đ́nh tôi đă bị đốt 3 lần trong cuộc kháng
chiến chống Pháp. Trong suốt cuộc đời niên thiếu, tôi đă phải theo
cha mẹ di tản từ làng này sang làng khác để tránh tên bay đạn lạc.
Cũng giống như những người Việt Nam yêu nước khác, cha mẹ tôi cũng
tham gia kháng chiến chống Pháp. Khi tôi lớn lên, tôi lại tận mắt
chứng kiến các nông dân đă bị các quan chức địa phương của chính
quyền Sài G̣n áp bức ra sao, và họ đă phải chịu những cuộc oanh tạc
tàn khốc của quân Pháp như thế nào. Tôi đă học trong lịch sử sự
chiến đấu kiên cường của dân tộc chống lại ách đô hộ ngàn năm của
giặc Tàu rồi đến các cuộc kháng chiến gian khổ chống ách thống trị
trăm năm của giặc Tây. Với hành trang đó, tôi và các bạn đồng lứa đă
lớn lên cũng với nỗi căm thù sự can thiệp của ngoại bang.
Vietnam, A portrait of its people at war
Nguồn: media.us.macmillan.com
Khi các sinh viên Sài G̣n bầu tôi vào chức Phó
Chủ tịch Hội Liên hiệp Sinh viên Sài G̣n vào năm 1969 và 1970, tôi
đă tham gia vào các hoạt động đ̣i hoà b́nh khác nhau, đă lănh đạo
sinh viên biểu t́nh chống chế độ Thiệu và sự dính líu của người Mỹ.
Tôi đă ấn hành nguyệt san Tự Quyết, và đă làm một cuộc du hành đến
California để thuyết tŕnh về các hoạt động phản chiến ở Đại học
Berkeley và Stanford vào tháng 1/1971. V́ các hoạt động đó, tôi đă
bị bắt và tống giam nhiều lần dưới chế độ Thiệu.
Vào thời điểm ấy, tôi tin rằng tôi đang thi hành sứ mệnh hoà b́nh và
độc lập cho đất nước tôi. Tôi cũng tin tưởng vào đề cương của
MTDTGPMN, một tổ chức đang lănh đạo cuộc kháng chiến cách mạng ở
miền Nam Việt Nam. Tôi căm ghét các nhà lănh đạo Sài G̣n, các người
như Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung
tướng Đặng Văn Quang ‒ những cựu chiến binh trong quân đội viễn
chinh Pháp. Đó là những người được Pháp tuyển mộ vào năm 1940 để
giúp chúng tiêu diệt các phần tử kháng chiến Việt Nam. Theo thời
gian, họ đă vươn lên thành những nhà lănh đạo, nhưng sự lănh đạo của
họ không thu được ḷng dân. Và chính v́ không có được ủng hộ của
người dân, nên họ phải dựa vào các thế lực nước ngoài.
Với tư cách một lănh tụ sinh viên, tôi cho rằng tôi phải hoàn thành
khát vọng của người dân Việt Nam về dân chủ, tự do và hoà b́nh.
Một cách ngây thơ, tôi nghĩ rằng chế độ Hà Nội ít nhất cũng là người
Việt Nam, trong khi người Mỹ chỉ là những kẻ xâm lược giống như
người Pháp trước đó. Như nhiều người trong phong trào đối lập tại
miền Nam lúc ấy, tôi tin rằng dù sao các đồng bào cộng sản miền Bắc
cũng sẽ dễ có sự tương nhượng và dễ nói chuyện hơn là người Mỹ. Hơn
thế nữa, tôi lại thấy choáng ngợp trước các thành tích hy sinh và
tận tâm của các lănh tụ cộng sản. Chẳng hạn, Tôn Đức Thắng, Phó Chủ
tịch Bắc Việt, đă bị nhốt đến 17 năm trong nhà tù của Pháp. Tôi cũng
bị hớp hồn trước bản đề cương chính trị được MTDTGPMN áp dụng, bao
gồm chính sách hoà giải dân tộc, không hề có sự trả thù, và chính
sách ngoại giao phi liên kết. Cuối cùng, tôi đă chịu ảnh hưởng của
các phong trào tiến bộ khắp thế giới và các nhà đại trí thức phương
Tây lúc ấy. Tôi đă có cảm tưởng rằng các lănh đạo phong trào phản
chiến ở Mỹ cuối thập niên 60 đầu 70 đă chia sẻ cùng niềm tin với
tôi.
Niềm tin ấy càng được củng cố hơn sau khi Hiệp định Paris kư kết vào
năm 1973 và sự sụp đổ của Đệ nhị Việt Nam Cộng ḥa năm sau đó. Khi
cuộc giải phóng đă hoàn tất, tôi chính là người đă khuyên bảo bạn bè
và thân nhân không nên di tản. “Tại sao các người lại bỏ đi?” tôi
hỏi, “Tại sao các người lại sợ cộng sản?” Tôi chấp nhân một viễn
cảnh khó khăn trong thời gian tái thiết quê hương nên đă quyết định
ở lại và tiếp tục làm việc với tư cách một quản trị viên một chi
nhánh của Ngân hàng Sá G̣n, nơi tôi đă làm việc hơn 4 năm, và là
nơi tôi viết các báo cáo mật về t́nh h́nh kinh tế Nam Việt Nam cho
MTDTGPMN (Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đă không bị chính quyền
Việt Nam Cộng ḥa động viên v́ là con một trong gia đ́nh. Tôi cũng
không gia nhập Việt Cộng v́ MTDTGPMN nghĩ rằng tôi sẽ phục vụ tốt
hơn trong vai tṛ báo cáo tài chính từ ngân hàng).
Sau khi Sài G̣n thất thủ được nhiều ngày, MTDTGPMN thành lập chính
quyền Cách mạng Lâm thời, mời tôi gia nhập một uỷ ban tài chính, một
nhóm bao gồm các trí thức có nhiệm vụ cố vấn cho chính quyền về các
vấn đề kinh tế. Tôi hăng hái tham gia, chấp nhận mức cắt giảm lương
đến 90%. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là giúp thảo ra một kế hoạch nhằm
tịch thu tất cả các tài sản tư nhân ở miền Nam Việt Nam. Tôi cảm
thấy sốc, và đề nghị chỉ nên thi hành điều đó với tài sản những
người từng cộng tác với chính quyền cũ và với những người đă làm
giàu nhờ chiến tranh, và sẽ phân phối lại theo một cách thức nào đó
cho các người nghèo và nạn nhân chiến tranh không phân biệt thuộc
phe nào. Đề nghị của tôi bị bác bỏ, dĩ nhiên.
Tôi đă quá ngây thơ khi nghĩ rằng các quan chức địa phương đă sai
lầm, rằng họ đă hiểu lầm ư định tốt của các lănh đạo đảng cộng sản.
Tôi đă tranh đấu với họ nhiều lần, v́ hoàn toàn đặt niềm tin vào các
tuyên bố của Hà Nội trước đây rằng “t́nh h́nh ở Nam Việt Nam rất đặc
biệt và rất khác với t́nh h́nh miền Bắc Việt Nam”. Chỉ vài tháng
trước khi Sài G̣n thất thủ, Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, đă
tuyên bố “miền Nam cần có chính sách riêng của nó”. Sau cùng, tôi
không thể tuân theo lệnh sắp đặt các cuộc tịch thu tài sản tư hữu,
một kế hoạch vẫn đang được xúc tiến. Một kế hoạch như vậy không hề
đáp ứng nguyện vọng của người dân Nam Việt Nam, và nó đi ngược với
lương tâm của tôi. Tôi quyết định từ chức. Nhưng không ai được phép
từ chức trong chế độ cộng sản.
Một ngụ ư bất tuân lệnh sẽ không được người cộng sản tha thứ. Khi
tôi đưa đơn từ chức, người lănh đạo uỷ ban tài chính đă cảnh cáo
rằng hành động của tôi “sẽ bị xem là sự tuyên truyền nhằm kích động
quần chúng, và rằng chúng ta không bao giờ cho phép điều đó xảy ra”.
Nhiều ngày sau đó, trong khi tôi đang tham dự một buổi hoà nhạc tại
Nhà Hát Lớn (trước đây là trụ sở Quốc hội Việt Nam Cộng ḥa, nơi mà
tôi đă lănh đạo các sinh viên chiếm giữ nhiều lần trước đây dưới chế
độ Thiệu), tôi bị bắt. Không có sự truy tố cũng như không có lư do
nào được đưa ra. Sau khi Sài G̣n thất thủ, rất nhiều nhà trí thức
tiến bộ cũng như nhiều nhà lănh đạo các phong trào phản chiến trước
đây đều tin rằng chính quyền mới sẽ đem lại dân chủ và tự do thay
cho sự thống trị của ngoại bang. Họ tin rằng chính quyền mới sẽ đeo
đuổi các quyền lợi tốt nhất cho nhân dân. Sẽ giữ đúng lời hứa của
chính họ về chính sách hoà giải dân tộc, không có sự trả thù. Phủi
sạch những hứa hẹn, nhà cầmn quyền cộng sản đă bắt giam hàng trăm
ngàn người ‒ không chỉ những người đă cộng tác với chế độ Thiệu mà
cả những người khác, bao gồm các vị lănh đạo tôn giáo và các cựu
thành viên MTDTGPMN.
Việt Nam ngày nay trở thành một quốc gia không có luật pháp nào khác
hơn là sự điều hành độc đoán của những kẻ đang nắm quyền lực. Không
hề có cái gọi là dân quyền. Bất cứ ai cũng đều có thể bị bắt mà
không cần truy tố cũng như không cần xét xử. Và khi đă ở trong tù,
các tù nhân đều được giáo dục rằng chính các thái độ, hành vi và sự
“cải tạo tốt” là yếu tổ chủ chốt đễ xét xem liệu họ có thể được trả
tự do hay không- không cần biết họ đă phạm tội ǵ. V́ vậy, các tù
nhân thường là phải tuân lệnh tuyệt đối các quản giáo để hy vọng
được thả sớm. Trong thực tế, họ không bao giờ biết được khi nào họ
sẽ được thả – hay có thể bản án của họ sẽ được kéo dài thêm. Ở đất
nước Việt Nam ngày nay có bao nhiêu tù chính trị? Không ai có thể
biết được con số chính xác. Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng có khoảng từ
150.000 đến 200.000 chính trị phạm, người Việt tỵ nạn th́ ước đoán
con số đó là 1 triệu.
Hoàng Hữu Quưnh, một trí thức tốt nghiệp Đại học Mạc Tư Khoa, hiệu
trưởng một trường kỹ thuật tại Tp. HCM (trước đây là Sài G̣n), vừa
mới bỏ trốn trong một chuyến đi tham quan các nước Châu Âu do nhà
nước bảo trợ. Ông đă nói với báo chí Pháp, “Hiện nay ở Việt Nam có
ít nhất 700.000 tù nhân”. Một nhân chứng khác, Nguyễn Công Hoan, một
cựu thành viên trong Quốc hội thống nhất được bầu vào năm 1976, đă
vượt biển thành công vào năm 1978, đă tuyên bố chính bản thân ông
được biết về “300 trường hợp xử tử” chỉ nội trong tỉnh Phú Yên của
ông.
Vào năm 1977, các quan chức Hà Nội khăng khăng rằng chỉ có 50.000
người bị bắt giữ v́ có những hành vi gây nguy hại cho an ninh quốc
gia. Nhưng trong khi đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đă tuyên bố trên tờ
Paris Match số ra ngày 22/9/1978, “Trong ṿng 3 năm qua, tôi đă trả
tự do cho hơn 1 triệu tù nhân từ các trại cải tạo.” Người ta có thể
tự hỏi làm thế nào có thể thả 1 triệu tù nhân trong khi chỉ bắt giữ
có 50.000!
Tôi bị tống vào một xà lim 1m x 2m, tay trái bị xiềng vào chân phải
và tay phải xiềng vào chân trái. Thứ ăn của tôi là cơm trộn với cát.
Khi tôi khiếu nại về cát trong cơm, các quản giáo đă giải thích rằng
cát được cho vào cơm để nhắc nhở các tù nhân về các tội ác mà họ đă
phạm. Tôi đă khám phá ra khi đổ nước vào tô cơm có thể tách cát ra
khỏi cơm và lắng nó xuống đáy. Nhưng phần nước chỉ có 1lít cho một
ngày dùng cho uống và tắm rửa, do vậy tôi phải dùng nó hết sức tiết
kiệm.
Sau 2 tháng biệt giam, tôi được chuyển ra pḥng giam lớn, một pḥng
giam 5m x 9m, tuỳ theo thời điểm được nhồi nhét từ 40 đến 100 tù
nhân. Nơi đây chúng tôi phải thay phiên để được nằm xuống ngủ, và
phần lớn các tù nhân trẻ và c̣n mạnh khoẻ phải chịu ngủ ngồi. Trong
cái nóng hầm hập, chúng tôi cũng phải thay phiên để được hứng vài
cơn gió mát của khí trời từ một lỗ thông gió chút xíu và cũng là cửa
sổ duy nhất của pḥng giam. Mỗi ngày tôi đều chứng kiến các bạn tù
chết dưới chân tôi.
Vào tháng 3, 1976, khi một nhóm phóng viên phương
Tây đến viếng thăm nhà tù của tôi, các quản giáo đà lùa các tù nhân
đi và thay vào đó là các bộ đội miền Bắc. Trước cửa nhà tù, không
c̣n thấy các hàng rào kẻm gai, không có tháp canh, chỉ có vài công
an và một tấm bảng lớn chăng ngang cửa chính đề câu khẩu hiệu nổi
tiếng của Hồ Chí Minh, “Không có ǵ quư hơn độc lập tự do”. Chỉ có
những người đang bị giam và các quản giáo là biết cái ǵ thực sự ẩn
giấu đằng sau những dấu hiệu đó. Và mọi tù nhân đều biết rằng nếu họ
bị t́nh nghi đào thoát th́ người bạn đồng tù và người thân của họ
tại nhà sẽ bị trừng phạt thay v́ chính họ.
Chúng ta sẽ không bao giờ biết được con số thực sự của những tù nhân
bỏ mạng, nhưng chúng ta đă biết cái chết của nhiều tù nhân nổi
tiếng, những người trong quá khứ chưa bao giờ cộng tác với Chính
quyền Thiệu hay với người Mỹ: chẳng hạn, Thích Thiện Minh, nhà chiến
lược cho các phong trào tranh đấu hoà b́nh của Phật tử tại Sài G̣n,
một nhà đấu tranh phản chiến đă từng bị kết án 10 năm dưới chế độ
Thiệu, sau cùng bị buộc phải thả ông v́ sự phản đối mạnh mẽ của nhân
dân Việt Nam và các nhà hoạt động phản chiến khắp thế giới. Đại Đức
Thiện Minh đă chết trong tù 6 tháng sau khi ông bị bắt vào năm 1979.
Một cái chết âm thầm khác là của Luật sư Trần Văn Tuyên, một lănh tụ
khối đối lập tại Quốc hội dưới thời Tổng thống Thiệu. Nhà hoạt động
nổi tiếng này đă chết dưới bàn tay cộng sản vào năm 1976, mặc dù vào
cuối tháng 4/1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đă tuyên bố với các phóng
viên Pháp rằng ông vẫn c̣n sống mạnh khoẻ trong trại cải tạo. Một
trong những tổn thất to lớn nhất là cái chết của triết gia nổi tiếng
Việt Nam Hồ Hữu Tường. Tường, bạn đồng môn với Jean Paul Sartre thập
niên 30 tại Paris, có lẽ là nhà trí thức hàng đầu tại Nam Việt Nam.
Ông chết tại nhà tù Hàm Tân vào ngày 26/06/1980. Đây là những người
bị bắt, cùng với rất nhiều những người khác trong nhóm những người
Nam Việt Nam ưu tú và được trọng nể nhất, với mục đích ngăn ngừa bất
cứ một sự chống đối nào với chế độ cộng sản.
Một số người Mỹ ủng hộ Hà Nội đă làm lơ hoặc biện minh cho những cái
chết này, như họ đă từng làm với vô số các thảm kịch đă xảy ra từ
khi Việt Nam Cộng ḥa sụp đổ năm 1975. Rất có thể họ sẽ vẫn tiếp tục
giữ im lặng nhằm lăng tránh một sự thật về Việt Nam nếu tiết lộ sẽ
mang lại một nỗi vỡ mộng sâu xa đối với họ. Cay đắng thay nếu tự do
và dân chủ vẫn là mục tiêu xứng đáng để chiến đấu tại Philippines,
tại Chile, tại Nam Hàn hay tại Nam Phi, th́ nó lại không xứng để bảo
vệ tại các nước cộng sản như Việt Nam.
Mọi người đều nhớ đến vô số các cuộc biểu t́nh chống đối Mỹ can
thiệp vào Việt Nam và chống lại các tội ác chiến tranh của chế độ
Thiệu. Nhưng một số trong các người đă từng một thời nhiệt thành với
các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền th́ nay lại tỏ ra hết sức lănh
đạm khi cũng chính các nguyên tắc ấy đang bị chà đạp tại nước Việt
Nam cộng sản. Chẳng hạn, một nhà hoạt động phản chiến, William
Kunstler, vào tháng 5, 1979 đă từ chối kư vào một bức thư ngỏ gởi
nhà nước Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, trong đó có chữ kư của
nhiều nhà hoạt động phản chiến khác, kể cả Joan Baez, phản đối sự vi
phạm nhân quyền của chế độ Hà Nội. Kunstler nói “Tôi không tin vào
sự chỉ trích công khai một chính quyền xă hội chủ nghĩa, dù đó là sự
vi phạm nhân quyền”, và “toàn bộ chiến dịch này của Baez có thể là
một âm mưu của CIA”. Câu nói này đă làm tôi nhớ lại lập luận mà chế
độ Thiệu thường đưa ra làm lư do đàn áp các người đối lập, “Tất cả
các hoạt động phản chiến và đối lập đều do cộng sản giựt dây”.
C̣n có rất nhiều những huyền thoại về chế độ hiện hành tại Việt Nam
mà người dân rất nên được soi sáng. Nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh
đầu tiên là một người quốc gia và rằng đảng cộng sản Việt Nam trước
đây cũng như hiện nay đều độc lập với Liên Sô. Tôi cũng là người tin
như vậy trước khi cộng sản chiếm miền Nam.Nhưng rồi chân dung các
nhà lănh đạo Soviet nay được treo đầy các chung cư, trường học và
các công sở trên khắp nước “Việt Nam độc lập”. Ngược lại, người ta
chưa từng thấy chân dung bất cứ một nhà lănh đạo Mỹ nào được treo
ngay cả trong chế độ được gọi là bù nh́n của Tổng thống Thiệu. Mức
độ lệ thuộc của chính quyền hiện hành vào các ông chủ Soviet được
thể hiện rơ ràng nhất do thi sĩ nổi tiếng của cộng sản Việt Nam, Tố
Hữu, thành viên Bộ Chính Trị và là Trưởng Ban Văn hoá Đảng Cộng sản
Việt Nam. Chúng ta có cơ hội được nghe người thi sĩ cao cấp này than
khóc nhân cái chết của Stalin:
‘Xít-ta-lin! Xít-ta-lin,
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu ḷng, con gọi Xít-ta-lin
Ông Xít-ta-lin ôi. Ông Xít-ta-lin ôi,
Hỡi ôi ông mất, đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương ḿnh thương một, thương ông thương mười.’
(Đời đời nhớ ông - Tố Hữu).
Thật là khó mà tưởng tượng những vần thơ như vậy lại được viết tại
Việt Nam, một đất nước mang nặng truyền thống gia đ́nh và bổn phận
với con cái. Và bài thơ ấy vẫn đang chiếm một vị trí trang trọng
trong ấn bản về thơ ca Việt Nam hiện đại được xuất bản tại Hà Nội.
Hơn thế nữa, Lê Duẩn , Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam, trong một
bài diễn văn chính trị đọc trước Hội nghị khoáng đại của Quốc hội
thống nhất năm 1976, “Cuộc cách mạng Việt Nam là để thực thi bổn
phận và các cam kết quốc tế”, và v́ vậy, trong lời lẽ của bản luận
cương của đảng năm 1971 đă viết, “dưới sự lănh đạo của Liên bang
Soviet”. Sự vinh quang của một xă hội Soviet là mục tiêu chính yếu
trong sách lược của đảng cộng sản Việt Nam.
Sau khi Sài G̣n thất thủ, nhà nước đă ngay tức khắc đóng cửa toàn bộ
các nhà sách và rạp hát. Tất cả các sách vở được xuất bản trong chế
độ cũ đều bị tịch thu hay đốt bỏ. Các tác phẩm văn hoá thuần tuư
cũng không ngoại lệ, kể cả các bản dịch tác phẩm của Jean Paul
Sartre, Albert Camus và Dale Carnegie. Ngay cả tác phẩm Cuốn Theo
Chiều Gió của Margaret Mitchell cũng nằm trong danh sách văn chương
đồi truỵ. Nhà nước thay thế những tác phẩm ấy bằng những tác phẩm
văn chương nhằm nhồi sọ trẻ em và người lớn với ư tưởng chủ đạo,
“Liên bang Soviet là thiên đường của xă hội chủ nghĩa”.
Một lập luận khác của các nhà biện luận phương Tây có liên quan đến
vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam. Một điều khoản của bản hiến pháp
mới, được đưa ra vào năm nay, có nêu rằng “nhà nước tôn trọng quyền
tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng”. Về điều khoản
này, Lê Duẩn đă nhiều lần tuyên bố, “Chế độ của chúng ta triệu lần
dân chủ hơn bất cứ chế độ nào trên thế giới”.
Ngược lại, trên thực tế, đă tŕnh bày rơ sự thật qua một sự kiện
mang tính báng bổ một ngôi chùa Phật giáo, trong vụ đó một người đàn
bà khoả thân theo lệnh nhà nước đă tiến vào ngôi chùa trong giờ hành
lễ. Khi Hoà thượng Thích Mẫn Giác, một nhà lănh đạo Phật giáo nổi
tiếng, lên tiếng phản đối, nhà nước đă nhân vụ này lên án Phật giáo
là kẻ thù của dân chủ, chính xác là vi phạm quyền tự do không tín
ngưỡng. Hoà Thượng Thích Mẫn Giác, người đóng vai tṛ là cầu nối
giữa Phật giáo và nhà nước cộng sản, đă phải vượt thoát Việt Nam
bằng thuyền vào năm 1977 và nay đang định cư tại Los Angeles. Tất cả
những ai từng ủng hộ MTDTGPMN trong cuộc chiến đấu chống chế độ Sài
G̣n đều có thể cảm nhận sự bị phản bội và nỗi tuyệt vọng của họ. Khi
Harrison Salisbury của tờ New York Times viếng thăm Hà Nội vào tháng
12, 1966, các nhà lănh đạo Hà Nội đă nói với ông, “Sách lược tranh
đấu của miền Nam được chỉ đạo từ miền Nam chứ không phải từ miền
Bắc”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đă nói với Salisbury, “Không có ai ở
miền Bắc có ư tưởng ngu ngốc, tội ác” rằng miền Bắc muốn thôn tính
miền Nam.
Vậy mà trong diễn văn đọc nhân lễ mừng chiến thắng vào ngày
19/05/1975, Lê Duẩn đă nói, “Đảng của chúng ta là một và là người
lănh đạo duy nhất đă tổ chức, kiểm soát và điều hành toàn bộ cuộc
chiến đấu của nhân dân Việt Nam ngay từ ngày đầu của cuộc cách
mạng”.
Trong bản báo cáo chính trị đọc trước Quốc hội hợp nhất tại Hà Nội
vào ngày 26/05/1976, Lê Duẩn nói, “Nhiệm vụ cách mạng chiến lược của
đất nước ta trong thời kỳ mới là thống nhất tổ quốc và đưa toàn bộ
đất nước tiến nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc lên chủ nghĩa xă
hội, lên chủ nghĩa cộng sản”.
Vào năm 1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời do MTTGPMN thành lập đă
bị xoá sổ, và toàn thể 2 miền Nam Bắc Việt Nam đều nằm dưới sự cai
trị của những người cộng sản. Ngày nay,trong số 17 thành viên Bộ
Chính trị và 134 Uỷ viên Trung ương thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam,
không hề có người nào thuộc MTDTGPMN trước kia. Ngay cả Nguyễn Hữu
Thọ, cựu Chủ tịch MT, chỉ nắm chức vụ Chủ tịch nhà nước, một chức vụ
mang tính nghi lễ với nhiệm vụ đón tiếp khách nước ngoài và tham dự
các buổi lễ lạc. Nhưng ngay cả vị trí đó rồi sẽ bị xoá bỏ khi bàn
hiến pháp mới ra đời.
Trương Như Tảng
Nguồn: A Vietcong Memoir
Hăy nghe lời của ông Trương Như Tảng, một những
người sáng lập MT, cựu Bộ trưởng Tư pháp của Chính phủ Cách mạng Lâm
thời, vừa mới đây cũng là một thuyền nhân vượt biển. Ông Tảng trốn
thoát khỏi Việt Nam vào tháng 12, 1979 và hiện nay sống tại Paris.
Ông đă nói với các phóng viên về kinh nghiệm của ông trong cuộc họp
báo gần đây vào tháng 5, 1980. 12 năm trước, ông nói, khi ông bị bỏ
tù dưới chế độ Thiệu v́ các hoạt động thân cộng của ḿnh, cha của
ông đă đến thăm ông. Ông cụ đă hỏi ông, “Tại sao con lại dứt bỏ tất
cả ‒ một công việc tốt, một gia đ́nh sung túc ‒ để gia nhập cộng
sản? Con không biết rằng cộng sản rồi sẽ phản bội con và sẽ thủ tiêu
con, và khi con thật sự hiểu ra th́ đă quá muộn?” Tảng, một nhà trí
thức, đă trả lời cha “Tốt hơn là cha nên im lặng và chấp nhận sự hy
sinh một trong các đứa con của cha cho nền dân chủ và độc lập của
đất nước”.
Sau cuộc Tổng Công kích Tết Mậu thân 1968, Tảng được trao đổi với 3
Đại tá tù binh chiến tranh Mỹ, và sau đó ông biến mất vào rừng với
MT. Ông đă viếng thăm nhiều nước cộng sản và các nước thế giới thứ 3
để kêu gọi sự ủng hộ dành cho MT trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Ông đă nói trong cuộc họp báo. “Tôi đă biết MT là một tổ chức do
cộng sản chi phối và tôi đă quá ngây thơ khi cho rằng Hồ Chí Minh và
Đảng của ông ta sẽ dặt quyền lợi quốc gia lên trên ư thức hệ và đặt
quyền lợi nhân dân Việt Nam lên trên quyền lợi của đảng. Nhưng nhân
dân Việt Nam và tôi đă sai lầm”.
Trương Như Tảng đă kể về kinh nghiệm của ông về phương sách các tầng
lớp lănh đạo cộng sản cai trị, “Người cộng sản là chuyên gia về nghệ
thuật chiêu dụ và có thể làm bất cứ cách nào để dụ bạn về phe họ một
khi họ chưa nắm được chính quyền. Nhưng một khi đă nắm được quyền
lực lập tức họ trở thành sắt máu và tàn nhẫn”. Ông tóm tắt t́nh h́nh
tại Việt Nam hiện nay, “Gia đ́nh ly tán, xă hội phân ly, ngay cả
đảng cũng chia rẽ”.
Bây giờ nh́n lại cuộc chiến Việt Nam, tôi chỉ cảm thấy buồn rầu cho
sự ngây thơ của ḿnh khi tin rằng cộng sản là những người cách mạng
và xứng đáng được ủng hộ. Trên thực tế, họ đă phản bội nhân dân Việt
Nam và làm thất vọng các phong trào tiến bộ trên toàn thế giới.
Tôi nhận lănh trách nhiệm về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của
tôi. Và nay tôi chỉ c̣n cách đóng vai nhân chứng cho sự thật này hầu
các người đă từng ủng hộ Việt Cộng trước kia có thể cùng chia sẻ
trách nhiệm với tôi.
Khi tôi c̣n trong tù, Mai Chí Thọ, một Uỷ viên Trung ương đảng, đă
nói chuyện trước một nhóm tù nhân chính trị chọn lọc. Ông ta đă nói
với chúng tôi, “Hồ Chí Minh có thể là một quỷ dữ, Nixon có thể là
một vĩ nhân. Người Mỹ có thể có chính nghĩa, chúng ta có thể không
có chính nghĩa. Nhưng chúng ta đă chiến thắng và người Mỹ đă bị đánh
bại bởi v́ chúng ta đă thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh
là một vĩ nhân, Nixon là một tên sát nhân và người Mỹ là những kẻ
xâm lược”. Ông ta đă kết luận, “Yếu tổ chủ chốt là làm thế nào kiểm
soát người dân và ư tưởng của họ. Chỉ có chủ nghĩa Mác Lê mới có thể
làm được như vậy. Không ai trong các anh đă từng biết đến một sự
kháng cự nào đối với chế độ cộng sản, bởi vậy không nên nghĩ đến
điều đó nữa. Hăy quên chuyện đó đi? Giữa các anh ‒ những nhà trí
thức ưu tú ‒ và tôi, tôi đă nói với các anh sự thật”.
Và quả là ông ta đă nói sự thật. Từ năm 1978, khi cộng sản Việt Nam
chiếm đóng Lào, xâm lấn Kampuchea và tấn công Thailand, trong khi đó
Liên Sô xâm lăng Afghanistan. Trong mỗi một sự kiện đó, người cộng
sản vẫn tự phác hoạ chân dung của họ một cách ly kỳ, là những người
giải phóng, người cứu rỗi, người bảo vệ chống lại các lực lượng xâm
lăng nước ngoài. Và trong mỗi sự kiện, dư luận thế giới vẫn tương
đối êm dịu.
Nhưng ở Việt Nam, người dân vẫn thường nhắc nhau, “Đừng nghe những
ǵ cộng sản nói mà hăy nh́n những ǵ cộng sản làm”. Một trong những
người Nam Việt Nam theo cộng sản, ông Nguyễn Văn Tăng, bị tù 15 năm
dưới thời Pháp, 8 năm dưới thời Diệm, 6 năm dưới thời Thiệu, và hiện
nay vẫn c̣n đang nằm tù, đă nói với tôi, “Muốn hiểu người cộng sản,
trước nhất phải sống với cộng sản”. Vào một buổi chiểu mưa rơi tại
nhà tù Lê Văn Duyệt, Sài G̣n, ông đă nói với tôi, 'Ước mơ của tôi
bây giờ không phải là được thả ra, không phải là được gặp lại gia
đ́nh. Tôi chỉ mơ được trở lại nhà tù của Pháp 30 năm trước”. Đó là
giấc mơ của một người đàn ông 60 tuổi đă gởi trọn tuổi thanh xuân
vào việc ra vào nhà tù để chiến đấu cho tự do và độc lập của đất
nước. Giờ này, có lẽ ông đă chết trong tù hay có thể đă bị nhà nước
của nhân dân hành quyết.
Ước mơ của nhân dân Việt Nam là một cuộc cách mạng thực sự, họ không
muốn chủ nghĩa cộng sản. Mức độ đo lường sự chán ghét cộng sản là
việc hàng ngàn người đă từ bỏ sự ràng buộc lịch sử của họ với đất
mẹ. Dưới thời thực dân Pháp, trải qua bao năm dài chiến tranh, ngay
cả trong thảm cảnh nạn đói năm 1945 có đến 2 triệu người chết đói,
người Việt Nam vẫn không đành đoạn rời bỏ quê hương, mảnh đất có mồ
mả ông cha. Các cuộc đổ xô ra đi tỵ nạn là bằng chứng trực tiếp của
sự kinh hoàng với chế độ hiện nay. Hăy nghe lời một người tỵ nạn
khác, Nguyễn Công Hoan, cựu thành viên MT và là thành viên Quốc hội
thống nhất được bầu năm 1976, “Chế độ hiện nay là chế độ phi nhân và
áp bức nhất mà nước Việt Nam từng được biết đến”. Ông Hoan trốn
thoát bằng thuyền vào năm 1977, sau khi từ bỏ chức vụ của ông trong
Quốc hội cộng sản. “Quốc hội”, ông tuyên bố, “là một bù nh́n, các
thành viên ở đó chỉ biết nói dạ, không bao giờ biết nói không”.
Giữa các thuyền nhân sống sót, bao gồm cả những người bị hải tặc hảm
hiếp và những người chịu nhiều cực nhục trong các trại tỵ nạn, không
hề có người nào hối tiếc đă t́m cách trốn khỏi chế độ hiện nay. Tôi
tuyệt đối tin rằng sự thật về Việt Nam sẽ dần dần hiện rơ. Nó có sẵn
cho những ai muốn t́m hiểu về nó. Như Solzhenitsyn đă từng nói, “Sự
thật cũng nặng nề như là thế giới vậy”. Và Việt Nam là một bài học
về sự thật.
Đoàn Văn Toại
Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây
biểu chương...
Lễ nghi
quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu,
huy hiệu... QLVNCH
Tiến
tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về
Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6
Gươm lạc giữa rừng hoa
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ
Sắc lệnh về
quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ
quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !
140
chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại
VN
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Tổng Thống Abraham Lincoln
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo
vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng
Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc
Luận về Tậm Lư
Chính Trị
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?
Một tài liệu 42 năm cũ
Dựng
Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi
Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974
Những điều nên biết về
Medicare 2016
Remember C-Rations?
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Tướng lănh VNCH
Bài phỏng
vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột
tháng 3, 1975
Đại Tá
Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần
Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975
tại Sài G̣n
Chuyện của một
ngôi trường
Luận về khoa bảng
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền
Phiếm luận
về mộng mơ qua văn chương và triết học
Chính sách
thuế khóa
Cách viết hoa
trong tiếng Việt
Đoàn
thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa
ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa
Việt Nam
Tiếng Việt ba miền -
Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?
TT
Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?
HCM đă âm mưu
bán nước từ năm 1924
Vài nét
về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải
chiến Midway
Adm
Chester Nimitz
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc
hành quân Lam Sơn 719
Những trận đánh đi vào quân sử
Nguyên nhân xụp
đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng
Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh
chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh
Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng
Nguyên do chính khiến VN bất tử
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và
huyền thoại
Vài nét hoạt
động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến
VNCH
Trung
Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72,
TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng
12 năm 1965
Nhảy Dù và
Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử:
Mậu thân Huế
Trận KAMPONG
TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v
Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn
Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ
QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát
Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân
VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc
Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về
thành nội Tết Mậu Thân
Một ngày với Đô Đốc
Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh
anh dũng và trung thành với Tổ Quốc
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần -
Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối
tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng
Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết
hiên ngang
Chuyến công tác cuối
cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá
BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người
chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà
Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh
một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của
Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn
thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị
bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng
sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi
trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường
BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh
hùng
Lịch sử h́nh thành
QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận
Vong
Người lính
VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người
lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù
bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh
chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính
VNCH
Sự thật về cái chết
của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số
quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những
chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn
Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1,
Phần 2,
Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ
1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn
Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên
Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
QLVNCH
Những người trở về
với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam,
Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ
lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức -
1974
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc
Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù
CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước
Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội
chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối
của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc
Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành
Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú
Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di
sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền
ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc
Kinh