Triệu Vũ
Đầu tháng 9-1965, sau khi tốt nghiệp khóa 19 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức,
tôi về B́nh Dương tŕnh diện Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Đây là
một trong những đại đơn vị kỳ cựu của Quân lực VNCH, bao gồm các đơn
vị thiểu số miền Bắc – mà đa số thuộc sắc dân Nùng thuộc vùng tự trị
Móng Cáy của Đại tá Wọng A Sáng. Di cư vào Nam, được mang tên Sư
Đoàn 3 Dă Chiến, sau đổi thành Sư đoàn 5 Bộ Binh, trấn giữ vùng đông
bắc thủ đô Saigon và được coi như đơn vị tín cẩn nhất của chế độ.
Ngày ấy, Tướng Vỹ c̣n mang cấp bậc Thiếu Tá, giữ chức Trung Đoàn
Trưởng Trung Đoàn 9. Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn đồn trú tại Bến Cát, sau
dời lên Chơn Thành, cách tỉnh lỵ B́nh Dương khoảng 50 km về hướng
Bắc. Từ Bộ Tư Lệnh SĐ ở Phú Lợi - B́nh Dương, tôi đă nhiều lần lên
đó, khi th́ đi cùng phái đoàn Thanh Tra, khi thanh tra một ḿnh,
theo lệnh đơn vị trưởng, nên tôi có nhiều dịp tiếp xúc với Thiếu Tá
Vỹ và các Sĩ Quan trong Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn. Nhờ vậy, cũng từ
những ngày đó, tôi biết thêm nhiều về cuộc đời "người lính chiến
thực sự" Lê Nguyên Vỹ.
Tướng Vỹ sinh năm 1933 tại Sơn Tây, miền Bắc Việt Nam. Ông nguyên là
sĩ quan binh chủng Nhảy Dù, thời Thiếu Tá Đỗ Cao Trí c̣n giữ chức
Liên Đoàn Trưởng. Ông tham dự nhiều cuộc hành quân từ Bắc vào Nam.
Năm 1955, sau cuộc tảo thanh B́nh Xuyên ở Saigon - Chợ Lớn, ông được
thăng cấp Đại Úy. Ít năm sau, rời Nhảy Dù, Ông ra phục vụ tại Sư
Đoàn 5 BB. Ông được giao chức Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/9, rồi
Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 9BB năm 1965 với cấp bậc Thiếu Tá sau
một thời gian làm Chi Khu Trưởng Chi Khu Bến Cát.
Những ai từng làm việc với ông, dù thượng cấp, hay quân sĩ dưới
quyền, đều chung một nhận xét: Ông là vị chỉ huy rất nóng tánh –
theo tôi phải nói là trực tánh mới đúng. Trong một đặc san của Sư
Đoàn 5BB thuở đó, đă ghi như sau về Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 9 –
tức Thiếu Tá Vỹ: "Có một lần Ông vung tay đập vỡ mấy cái mặt bàn".
Nhưng nói ǵ th́ nói, không ai có thể phủ nhận Ông là một sĩ quan
chỉ huy hành quân tài giỏi, thủ cũng như công. Những phái đoàn thanh
tra từ Tổng Tham Mưu, Quân Đoàn, Sư Đoàn khi đến quan sát nơi đóng
quân của đơn vị Ông, đều hết lời khen ngợi. Bản doanh Bộ Chỉ Huy
Trung Đoàn 9 tại Chơn Thành là một căn cứ pḥng thủ h́nh ngũ giác
kiểu mẫu.
Đối với nhân viên thuộc Bộ Chỉ Huy, có lẽ Ban 2 vất vả hơn cả. Lư do
đơn giản là Ông Trung Đoàn Trưởng luôn quan tâm đến t́nh h́nh địch,
t́nh h́nh bạn. Nhờ vậy, đơn vị do Ông chỉ huy đă ghi hết chiến công
này đến chiến công khác, trong cũng như ngoài Khu 32 Chiến Thuật.
Những địa danh, những mật khu, những chiến khu từ Bến Súc, Bến Sỏi
qua Dầu Tiếng, Lộc Ninh, Hớn Quản, đến Đồng Xoài, Phước Long, Phước
Quả rồi mênh mông Tam Giác Sắt, Chiến Khu C, Chiến Khu D v.v. nơi
nào cũng in dấu gót giầy hành quân của các chiến sĩ Trung Đoàn 9.
Những năm 1965-1967, sau khi quân tác chiến Mỹ ào ạt đổ vào miền
Nam, t́nh h́nh chiến trận cũng như chính trị có nhiều biến động.
Trên mặt trận quân sự, CSBV công khai đưa các đơn vị chính qui vào
vùng Cao nguyên Trung phần (Tây Nguyên, tức Mặt trận B-3) và Tây Bắc
vùng Hỏa Tuyến (Mặt trận Trị-Thiên). Đồng thời, CSBV cũng thành lập
Sư Đoàn 2 tại Quảng Ngăi và Sư Đoàn 3 "Sao Vàng" tại B́nh Định (Quân
khu 5 CS). Tại miền Đông Nam Phần (Quân Khu 7 CS), CSBV thành lập sư
đoàn (Công trường) 9 tại B́nh Long, 5 tại Bà Rịa (Căn cứ Mây Tầu) và
7 tại Phước Long.
Về chính trị, từ tháng 6-1965, chính phủ dân sự Phan Khắc Sửu - Phan
Huy Quát rút lui, trả lại quyền điều hành đất nước cho quân đội!
Người ta được nghe những cụm từ như Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia, Ủy Ban
Hành Pháp Trung Ương v.v., hoặc Tổng Cục A, Tổng Cục B, Cục Y, Cục Z
v.v. V́ Quân Đội điều hành việc nước, dĩ nhiên nhiều quân nhân được
nắm giữ các chức vụ quan trọng tại các Bộ và nha, sở. Những cấp chỉ
huy cao trong quân đội cứ thay đổi liên tục. Thực là đau ḷng khi
thấy phe này hạ bệ hoặc thanh toán phe kia, tôn giáo này ḱnh chống
tôn giáo nọ. Chắc không ai có thể quên vụ "bàn thờ ra đường" c̣n
được gọi là vụ "Phật Giáo miền Trung" xẩy ra vào mùa Xuân 1966.
Chính quyền Trung Ương tại Saigon năm ấy đă mang quân đội và cảnh
sát ra Đà Nẵng và Huế thẳng tay dẹp bàn thờ và phong tỏa chùa
chiền... Một số lớn quân nhân theo Phật giáo đă bị thuyên chuyển từ
Vùng I vào Vùng III hoặc vùng IV Chiến Thuật. Dân gian thời đó
thường truyền miệng "được làm vua, thua làm đại sứ" hoặc "được làm
vua, thua đi chữa bệnh" v.v. Trường hợp các Ông Dương Văn Minh, Trần
Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Chánh Thi, Phạm Văn
Liễu v.v. là những chứng nhân rực lửa hận thù hoặc xót xa, tiếc
nuối, ngậm ngùi tới cuối đời. (Xem hồi kư Nguyễn Chánh Thi, Đỗ Mậu,
Phạm Văn Liễu, v.v.)
Thời gian này, Trung Đoàn 9 của Trung Tá Vỹ thường phối hợp hành
quân với các đơn vị của Sư Đoàn 1 Bộ Binh Hoa Kỳ trong các chiến
dịch tiến vào các mật khu Cộng Sản như Cedar Falls, Junction City
v.v. Ông giữ vững lập trường một người lính chiến đấu, gắn bó với
tiền tuyến, sát cánh cùng thuộc cấp giữ chắc tay súng truy cản địch
quân ngoài mặt trận, chỉ lo chu toàn nhiệm vụ mà không quan tâm đến
nhiều rối loạn chính trị, nhiều tranh giành quyền lực tại hậu
phương.
Sự tham chiến của binh đội Mỹ – nhất là việc đánh bom miền Bắc để áp
lực Hà Nội ngưng xâm lược miền Nam, chấp nhận sự hiện hữu và biên
giới của hai thể chế chính trị do các cường quốc ngấm ngầm chấp nhận
– gặp sức phản kháng và chống đối trên toàn thế giới. Ngay tại Mỹ,
phong trào phản chiến cũng ngày một dâng cao, khởi đi từ những cuộc
biểu t́nh ngồi chống lệnh động viên trong các đại học, rồi đến những
cuộc biểu t́nh ngoài đường phố. Bởi vậy, từ năm 1966-1967, chính phủ
Tổng Thống Lyndon B. Johnson phải t́m cách tiếp xúc với Bắc Việt để
t́m một giải pháp chính trị.
Trong khi đó, tại miền Nam, các phe phái, Tướng Tá vẫn không ngừng
tranh chấp, thanh toán lẫn nhau. T́nh huynh đệ chi binh và mục tiêu
chiến lược bảo vệ miền Nam khỏi họa Cộng Sản không đủ ngăn chặn
những mưu bá, đồ vương. Người ta cho rằng miền Nam sẽ ổn định nếu
chấm dứt t́nh trạng quân đội nắm quyền và tổ chức bầu cử càng sớm
càng tốt. Thế nhưng oái oăm thay, sau khi liên danh Nguyễn Văn Thiệu
-Nguyễn Cao Kỳ thắng lợi trong cuộc tuyển cử tháng 9-1967 và dẹp yên
được chống đối của phe Phật Giáo cùng sinh viên, học sinh, t́nh h́nh
hậu phương bề ngoài yên tĩnh, thực ra có biết bao cột sóng ngầm cuồn
cuộn. Sự kết hợp bất đắc dĩ của liên danh Thiệu - Kỳ có nguy cơ trở
thành đối đầu và tiến đến thanh toán nhau trong những ngày tới.
Ngoài chiến trường, chỉ nói riêng khu 32 Chiến Thuật (gồm 3 tỉnh
B́nh Dương, B́nh Long, Phước Long), vùng trách nhiệm của Sư Đoàn 5
BB, đă mở rất nhiều cuộc hành quân b́nh định, hành quân truy quét
địch, cho nên t́nh h́nh an ninh tạm ổn. Lại thêm lúc này quân đội Mỹ
vào miền Nam đă lên con số khá cao. Quốc lộ 13, c̣n có tên gọi là
"Quốc lộ máu", đoạn B́nh Dương - B́nh Long đă ít bị phục kích hoặc
gài ḿn. Hoặc đoạn đường "gai lửa" B́nh Dương - Phước Long trên Quốc
lộ 14 cũng được khai thông.
Đặc biệt thời gian này, Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 9BB đă ghi một chiến
công lớn. Nhờ tinh thần chiến đấu anh dũng, quyết tâm kháng cự, lại
được phi pháo yểm trợ, Tiểu đoàn đă bẻ gẫy một cuộc tấn công của
địch vào Bộ chỉ huy, đóng tại Phước Quả, cách tỉnh lỵ Phước Long hơn
10 km về phía tây nam. Do chiến thắng trên, Tiểu Đoàn Trưởng 2/9
(Đại Úy T.) được thăng cấp Thiếu Tá, sau về làm Trung Đoàn Phó Trung
Đoàn 9 BB.
Như đă lược nhắc, từ năm 1967, phong trào phản chiến trên nước Mỹ
dâng cao. Những vụ biểu t́nh đ̣i rút binh đội Mỹ khỏi Việt Nam không
ôn hoà như trước mà có phần quá khích, có khi c̣n đốt cờ Mỹ hoặc xé
thẻ trưng binh v.v. Chính phủ Johnson bối rối, hơn nữa lại sắp có
tổng tuyển cử vào năm tới (1968). Đây là một thách thức lớn của Tổng
Thống Johnson và Đảng Dân Chủ. Qua trung gian Tổng thư kư LHQ, Pháp,
Vatican cùng một số nước khác, chính phủ Johnson t́m cách ḍ ư Hà
Nội về một giải pháp chính trị. Trong khi đó, bộ máy chiến tranh tại
Hà Nội, được Liên Sô và Trung Cộng cố vấn, đă bắt mạch được thế lúng
túng của Hoa-Thạnh-Đốn, nên ra sức chuẩn bị một trận đánh lớn để
chứng tỏ khả năng hiện diện và tiềm năng quân sự của họ tại chiến
trường miền Nam, đồng thời làm chao đảo tinh thần nhân dân và Quốc
Hội Mỹ cũng như tạo áp lực với chính phủ Johnson tiến tới bàn hội
nghị.
Đúng vào những ngày Tết năm Mậu Thân 1968, Hà Nội đơn phương hủy bỏ
thỏa thuận hưu chiến, mở cuộc Tổng Tấn Công vào Saigon và 44 tỉnh,
thị xă của VNCH. Mặt trận tại B́nh Dương và BTL/SĐ5 khởi diễn đêm
mùng 1 rạng mùng 2 Tết (31-1-1968). Lúc này, quân số hiện diện tại
các đơn vị thuộc BTL/SĐ, cũng như Tiểu Khu B́nh Dương, trường Công
Binh, Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh v.v. không tới 50%.
Thế mà, dù cho địch có chuẩn bị thật kỹ, bảo mật tối đa và đặc biệt
tấn công bất ngờ, chúng vẫn không làm chủ t́nh h́nh. Giao tranh dữ
dội tại khu vực Ḷ Chén và trường Công Binh trong tỉnh lỵ. Địch cũng
đặt những "chốt" chặn xung quanh thị xă và pháo kích vào Phú Lợi,
cách B́nh Dương 5km về hướng đông, nơi đặt Bộ Tư Lệnh SĐ5BB, mục
đích cầm chân, không cho tiếp viện. Lập tức, Sư Đoàn điều động đơn
vị của Trung đoàn 7BB giải toả từ phía nam lên và đặc biệt lệnh cho
Trung Đoàn 8 của Đại Tá Vỹ ở Bến Cát (lúc này Ông đă thăng cấp Đại
Tá, chỉ huy Trung Đoàn 8BB) đưa đơn vị về giải tỏa từ phía bắc và
phía đông. Đại Tá Vỹ đặt Bộ chỉ huy Hành Quân tại Bưng Cải, khoảng
giữa tỉnh lỵ và BTL/SĐ. Ông đích thân điều động cuộc hành quân đánh
đuổi địch ra khỏi thị xă và các chi khu lân cận, đồng thời tiếp tục
truy quét tàn quân địch.
Nh́n chung, cuộc tổng tấn công và tổng khởi nghĩa của Việt Cộng năm
Mậu Thân đă thất bại nặng nề. Nhưng về chính trị, chúng đă đạt thắng
lợi đáng kể. Trước áp lực từ nhiều phía, tháng 3-1968, Tổng Thống
Johnson tuyên bố không tái tranh cử và hai tháng sau, Hoa-Thạnh-Đốn
cùng Hà Nội cử phái đoàn tới Paris để thương nghị. Số phận VNCH đang
nằm trên bàn cờ chính trị cũng như lịch sử VN sắp sang một trang
mới.
Sau những đợt hành quân giải tỏa năm Mậu Thân, Đại Tá Vỹ trở về Bộ
Chỉ Huy Trung Đoàn tại Bến Cát. Thế là, sau khi chỉ huy Trung Đoàn 9
trên 3 năm, rồi Trung Đoàn 8 trên 2 năm, Đại Tá Vỹ đă thực sự dẫn
giắt và có công xây dựng thành 2 Trung Đoàn chủ lực hùng hậu của
SĐ5BB. Chính Tướng Phạm-Quốc-Thuần, người đă nắm chức Tư Lệnh SĐ5
hơn 4 năm (có lẽ lâu hơn các vị Tư Lệnh khác) chắc rất hănh diện và
quư mến vị Trung Đoàn Trưởng này. Đổi lại, Đại Tá Vỹ được địch quân
treo giá tính mạng rất cao. Để có thể chiêu dụ hoặc thanh toán Ông,
địch đă dùng nhiều phương cách, kể cả ám sát và mỹ nhân kế v.v. Địch
c̣n dùng thủ đoạn khác là lợi dụng t́nh cảm quan hệ gia đ́nh từ miền
Bắc gửi thư cho Ông. Nhưng chúng đă không thực hiện được một ư đồ
nào. Ông và các quân sĩ thuộc quyền, tiếp tục truy lùng và diệt
địch, tiếp tục lập chiến công. Những trận đánh tại Phú Ḥa Đông, bên
kia sông tỉnh lỵ B́nh Dương, ṿng lên Cầu Định, Bầu Bàng, Bầu Ḷng,
qua tận Phú Giáo, hoặc những vụ phục kích trên hành lang di chuyển
của địch, bắt sống, hạ sát giao liên - kinh tài, tịch thu vũ khí -
tài liệu v.v. khiến hoạt động quấy phá của địch trong vùng trách
nhiệm suy giảm rơ rệt. Thời gian này, sự kiện đáng ghi nhớ là một
lần nữa, SĐ5BB lại được tuyên dương công trạng trước Quân Đội. Và
tất cả quân nhân từ binh sĩ tới cấp Tướng thuộc SĐ hănh diện được
đeo Dây Biểu Chương Bảo Quốc Huân Chương màu đỏ hoàn toàn.
Tuy nhiên, chiến thắng quân sự của VNCH và Đồng Minh năm 1968 không
đủ làm nguội tham vọng chiếm miền Nam của Hồ Chí Minh - Lê Duẩn và
Đảng CSVN. Tại Mỹ, việc TT Thiệu chưa chịu gửi phái đoàn qua Paris
tham dự ḥa đàm trước ngày bầu cử phần nào giúp liên danh Nixon đắc
cử khít khao, nhưng chính sách giải kết của Mỹ đă là ḥn đá tảng.
Tổng thống Nixon gọi TT Thiệu qua Midway thông báo sẽ bắt đầu triệt
thoái quân Mỹ và Đồng Minh, nhưng sẽ giúp VNCH tăng gia quân số cũng
như trang bị vũ khí hiện đại hơn, trong khuôn khổ kế hoạch Việt Nam
hóa chiến tranh (Vietnamization).
Đích thân TT Nixon, trong chuyến công du Á Châu, đă bí mật ghé
Saigon vào hạ tuần tháng 7-1969, cho lệnh quân đội Mỹ triệt thoái
nhanh hơn. Chính sách ngoại giao toàn cầu của Mỹ cũng thay đổi dần,
từ "đối đầu" sang "ḥa hoăn", "đối thoại". TT Nixon và Cố vấn An
Ninh Quốc Gia Henry Kissinger bắt đầu sử dụng cả hai lá bài Nga Sô
và Trung Cộng, để ép Hà Nội phải chấp nhận một giải pháp chính trị.
Đầu năm 1970, v́ quân đội Đồng Minh đă một phần rút khỏi Việt Nam,
trong khuôn khổ kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, BTL/SĐ5 di chuyển
lên Lai Khê, cách quận lỵ Bến Cát khoảng 5km về hướng đông bắc, nằm
trên Quốc lộ 13. Lai Khê xưa kia là nơi người Pháp xây dựng nhà máy,
pḥng thử nghiệm cao su và có trồng hàng trăm héc ta cao su làm mẫu.
Lai Khê đă trở thành một căn cứ quân sự quan trọng, nơi đặt Bộ Tư
Lệnh một Lữ Đoàn của SĐ1BB Hoa Kỳ; và khi họ về nước, BTL/SĐ5BB tiếp
nhận căn cứ trên. Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 8 cùng đóng chung trong căn
cứ.
Thời gian này, Tướng Nguyễn Văn Hiếu đă thay Tướng Thuần làm Tư
Lệnh. Đại Tá Vỹ làm Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 thêm một thời
gian trước khi đi thụ huấn tại Hoa kỳ. Và Trung Đoàn này đặt dưới
quyền chỉ huy của một sĩ quan do Tướng Hiếu đưa từ miền Trung về.
Tiếc thay vị Đại Tá Trung Đoàn Trưởng mới (Bùi Trạch D.) đă thân bại
danh liệt trong trận Snoul (nằm giữa tỉnh Kratie và biên giới Việt -
Campuchia), khiến cả một Trung Đoàn chủ lực của SĐ, với phù hiệu
"Chúa Sơn Lâm" trên ngực áo trái, bị thảm bại, nay như người bệnh
đang cần chữa trị, thuốc thang để mau có sức hồi phục – cả đơn vị
chỉ c̣n khoảng 500 tay súng. Chính Tướng Hiếu cũng bị ảnh hưởng
không tốt sau trận Snoul. Kể từ đây, con đường binh nghiệp của Tướng
Hiếu đă rẽ sang một khúc quanh mới (và cuối cùng Ông đă tử nạn tại
Văn Pḥng Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III với lư do "Bất cẩn khi lau chùi
vũ khí?")
Năm 1971, sau khi tốt nghiệp khoá Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp tại Hoa
Kỳ, Đại Tá Vỹ được lệnh trở lại SĐ5BB, với chức vụ Tư Lệnh Phó SĐ.
Đương kim Tư Lệnh là Tướng Lê Văn Hưng. Đại Tá Vỹ ra sức chấn chỉnh
việc pḥng thủ căn cứ Lai Khê, nơi đặt bản doanh chính của Bộ Tư
Lệnh SĐ. Căn cứ Lai Khê có ṿng đai pḥng thủ khá rộng. Các pháo
đài, các vọng gác làm bằng gỗ thông và bao đựng cát che chắn, có
tính dă chiến, tạm bợ, do quân đội Đồng Minh để lại, đă đến lúc phải
tu bổ, sửa chữa nhiều.
Đích thân Đại Tá Vỹ cùng các Đơn vị trưởng đến từng vọng gác, từng
pháo đài quanh căn cứ để kiểm soát, đôn đốc, tái thiết lập hệ thống
pḥng thủ. Ông chỉ thị các đơn vị phải đào những hầm trú ẩn h́nh chữ
"A" để giảm thiểu thiệt hại cho binh sĩ khi địch pháo kích v.v. Cũng
nhờ vậy mà sau nhiều lần tấn công của đặc công Việt Cộng, khi th́
vài toán nhỏ, khi cả tiểu đoàn, cũng không thể nào xâm nhập sâu
trong căn cứ. Trái lại, bị lực lượng bố pḥng phát hiện kịp thời và
phản kích khiến chúng thiệt hại nặng. Có lần, sau một cuộc tấn công
xâm nhập, tổng số tử thi đặc công đếm được ngay tại ṿng đai trong
cùng của căn cứ lên tới hơn 40 xác. Đây là con số khá lớn, v́ căn
bản, tấn công bằng đặc công là xử dụng những toán nhỏ, được huấn
luyện rất thuần thục, nhằm gây tổn thất lớn về vật chất và tinh thần
cho đối phương. Vả lại, phải mất một thời gian lâu dài, địch mới đào
tạo bổ sung được hơn 40 đặc công.
Ngoài bản doanh chính tại căn cứ Lai Khê, Sư Đoàn 5 đặt Bộ Tư Lệnh
Hành quân tại thị trấn An Lộc, tức tỉnh lỵ B́nh Long, nằm trên Quốc
lộ 13, cách Saigon khoảng 100km về hướng bắc. Tướng Hưng và Đại tá
Vỹ thường luân phiên có mặt tại An Lộc để kịp đáp ứng t́nh h́nh.
Thời gian này, kế hoạch "Việt Nam hóa" chiến tranh đă gần hoàn tất.
Cả Mạc-Tư-Khoa lẫn Bắc Kinh đều áp lực Hà Nội sớm giải quyết chiến
tranh. Lê Đức Thọ – nhân vật quyền lực thứ ba trong bộ Chính trị
Đảng CSVN – nhiều lần mật đàm tại Paris cùng Cố vấn An Ninh Quốc Gia
Mỹ Henry Kissinger, trong chiến lược "vừa đánh vừa đàm". Về phương
diện quân sự, nhân thế thất bại chiến lược của quân lực VNCH tại Hạ
Lào và Campuchia, Hà Nội quyết định mở một đợt tấn công mới trong
mùa Xuân-Hè 1972, với miền Đông Nam Việt làm "điểm", và Quảng Trị
cùng Cao nguyên Trung phần làm "diện", nhằm tiêu hao lực lượng VNCH
và mở rộng lănh thổ kiểm soát, chuẩn bị cho giải pháp "ngưng bắn da
beo". Trên mặt trận ngoại giao, Hà Nội muốn lợi dụng năm tranh cử
Tổng thống ở Mỹ để ép chính phủ Richard Nixon phải nhượng bộ ngưng
yểm trợ chế độ VNCH của Tổng Thống Thiệu, hầu thành lập một chính
phủ ḥa hợp. Hà Nội c̣n muốn thành lập một thủ đô cho Mặt Trận Dân
Tộc Giải Phóng Miền Nam, dưới bảng hiệu mới Chính phủ Lâm thời Cộng
ḥa Miền Nam Việt Nam.
Tuy nhiên, vào tháng 1-1972, do Tướng Abrams dự đoán được ư đồ của
Hà Nội – đă gia tăng những cuộc oanh tạc B-52 khiến các trục tiếp
vận chiến lược của CSBV bị thiệt hại nặng nề – cuối cùng Bộ Chính
trị Đảng CSVN đổi ư, chọn Quảng Trị làm "điểm" [chủ yếu], mặt trận
miền Đông và Cao nguyên chỉ c̣n là "diện" [hỗ trợ]. Hạ tuần tháng
3-1972, đích thân Văn Tiến Dũng mang hơn 1 quân đoàn với đầy đủ tăng
pháo vượt qua giới tuyến Bến Hải đánh chiếm Quảng Trị.
Khác với những đợt tấn công năm Mậu Thân (2/1968, 5/1968, 9/1968) mà
các nhà nghiên cứu và b́nh luận gọi là cuộc "tấn công tự sát", lần
này Hà Nội, với mục đích tạo ưu thế tại bàn hội nghị, đồng loạt mở 3
mặt trận lớn tại Quảng Trị, Kon Tum và B́nh Long.
Những ngày đầu tháng 4-1972, đă có tin t́nh báo ghi nhận những cuộc
chuyển quân của địch từ phía bên kia biên giới, theo hướng bắc và
đông bắc tiến gần đến Lộc Ninh, một quận lỵ thuộc tỉnh B́nh Long,
cách thị trấn An Lộc khoảng 20km về phía tây bắc. Đây là nơi đặt Bộ
Chỉ Huy Chiến đoàn 9 (gồm Trung đoàn 9 BB, tiểu đoàn Biệt động quân,
Chi đoàn Thiết giáp, tiểu đoàn Pháo binh v.v.). Thế rồi, rạng sáng
ngày 6 tháng 4 năm 1972, vẫn với chiến thuật quen thuộc tiền pháo
hậu xung, lực lượng địch với quân số đông gấp ba quân trú pḥng, lại
có chiến xa yểm trợ mở cuộc tấn công. Đại Tá Chiến đoàn trưởng
Nguyễn Công V. cùng một số sĩ quan tham mưu bị bắt làm tù binh.
Trong khi đó, thị trấn An Lộc, tức tỉnh lỵ B́nh Long, bị địch pháo
kích từ mấy ngày trước, mở màn cho những trận mưa pháo ṛng ră trên
ba tháng trời. Người ta bàng hoàng, lo lắng được tin Lộc Ninh thất
thủ. Tướng Hưng và Đại Tá Vỹ đều có mặt tại BTL Hành quân để điều
động quân sĩ trong vùng được gọi là mặt trận B́nh Long - An Lộc.
Ngày 13-4-1972, Việt Cộng tung 3 Sư đoàn bộ binh (Công trường 5, 7,
9), có pháo và chiến xa yểm trợ tấn công. Mở đầu là những trận mưa
pháo rót vào thị xă từ nửa khuya. Đạn pháo nổ liên tục trải khắp
thành phố, rung chuyển mặt đất. Người ta không thể ước tính được có
bao nhiêu trái đạn pháo và cũng không định hướng được địch đă pháo
từ phía nào... Không kể những vị trí quân sự như Bộ Tư Lệnh Hành
Quân/SĐ5, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu B́nh Long, Bộ Chỉ Huy TrĐ 8 v.v., bệnh
viện, trường học, chợ, nhà dân, trung tâm tạm cư cho người di tản từ
Lộc Ninh đều bị trúng pháo địch. Cả thành phố ch́m trong lửa khói.
Rồi bỗng nhiên địch ngừng pháo. Bên ngoài, trời vừa hừng sáng, những
cột khói đen vươn lên cao. Người ta nghe được tiếng máy gầm gừ của
đoàn cơ giới tiến vào thị xă. Không! Không thể lầm được! Chiến xa
địch đang di chuyển, càng lúc càng gần Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Đây là
lần đầu địch sử dụng chiến xa tại chiến trường miền Đông và cũng là
lần đầu tiên, binh sĩ của ta phải đối phó, nên có phần nào hoảng
hốt, bối rối.
Nhưng lạ thay, các họng súng đại bác trên chiến xa không thấy nhả
đạn, địch h́nh như đang ḍ t́m mục tiêu, chúng đă mất phương hướng.
Một chiếc T54 đang nghiến xích sắt trên mặt đường sát bên hông
BTL/Hành Quân. Mọi người, từ binh sĩ tới Tư Lệnh chiến trường, đều
nín thở như chờ đợi một thảm họa và hầu như phó mặc cho số phận.
Bỗng Đại Tá Vỹ lao khỏi hầm, với nón sắt, áo giáp và đặc biệt khẩu
súng chống chiến xa M72 trên tay, theo sau là Trung úy sĩ quan tùy
viên. Tới bờ tường pḥng thủ, vừa lúc chiến xa địch vượt qua khỏi
cổng chính khoảng 20 mét, Ông quỳ người, giữ tư thế tác xạ, đưa M72
lên vai. Người sĩ quan tùy viên kế bên, khom người quan sát. Mọi
người trong hầm chỉ huy hồi hộp phóng tầm nh́n qua lỗ châu mai. Một
tiếng nổ. Và một luồng lửa đỏ tống về phía sau. Chiến xa địch bị
trúng hỏa tiễn, bốc khói nhưng vẫn cố di động trước khi trở thành
một khối sắt xám xịt vô dụng bên vệ đường.
Quân sĩ từ trong hầm chỉ huy đổ ra ngoài reo ḥ mừng rỡ. Bây giờ
người ta mới thực sự tin M72 đă bắn hạ chiến xa địch mà suốt mấy năm
qua, từ khi được trang bị, chưa có cơ hội tác xạ. Ai ngờ ngày hôm
đó, trong cơn nguy khốn, vị Đại Tá Tư Lệnh Phó chiến trường lại làm
nhiệm vụ một khinh binh, đích thân sử dụng M72 triệt hạ T54 của Bắc
Việt. Câu chuyện Đại Tá Vỹ bắn hạ chiến xa địch lan truyền, tinh
thần quân sĩ trú pḥng tại B́nh Long - An Lộc lên cao... Đó đây có
những báo cáo về Bộ Tư Lệnh, cho biết đă bắn hạ thêm nhiều chiếc
khác. H́nh như chiến xa địch bị vô hiệu hoá v́ không có bộ binh phối
hợp, có lẽ do hiệu quả những đợt B52 trải nhiều thảm bom suốt ngày
đêm hôm trước.
V́ Hà Nội mở chiến dịch Xuân Hè 1972 khắp 3 vùng chiến thuật, lực
lượng Tổng trừ bị VNCH (Dù và TQLC) bị phân tán mỏng. Sau đó, Bộ
Tổng Tham Mưu giữ TQLC ở vùng I, và đưa Nhảy Dù về vùng III và vùng
II. Quân Đoàn III c̣n được tăng phái một số đơn vị của Quân Đoàn IV
như SĐ21BB, SĐ9BB. Liên Đoàn Biệt Cách Dù cũng vào mặt trận hầu có
thể sớm giải tỏa An Lộc. Nếu An Lộc thất thủ, Sàig̣n tất nhiên bị đe
doạ.
Trong khi các lực lượng giải tỏa gặp rất nhiều khó khăn tại các nút
chặn quanh thị xă An Lộc, nhất là tại Xa Cam, khoảng 10km về phía
nam, th́ lực lượng tử thủ bên trong thị xă như sống trong hỏa ngục.
Hàng ngày, cái thị trấn nhỏ bé nhận nhiều ngàn đạn pháo của địch,
cộng thêm tiếng bom nổ của các phi cơ oanh kích chiến xa địch trên
đường tiến gần thị xă, tiếng bom từ B52 trải xuống quanh vùng dội
lại v.v. Liên lạc từ BTL Hành Quân đến các đơn vị bên ngoài bị gián
đoạn. Tinh thần mọi người quá căng thẳng và rơi vào t́nh trạng khủng
hoảng. Cũng có thể nhận xét của Tướng Hollingsworth, Cố vấn Quân
Đoàn III, rằng Tướng Hưng, Tư Lệnh chiến trường, như người "mất hồn"
và "không làm được việc ǵ cả" là quá khắt khe chăng?
An Lộc bị vây hăm càng lâu, tinh thần quân sĩ trú pḥng càng xuống.
Thiếu ngủ, thiếu dinh dưỡng, thiếu nước, v.v. lại thêm môi trường ô
nhiễm v́ xác tử thi đă thối rữa, bốc mùi v.v. thực không sao tả hết
được nỗi kinh hoàng cùng cực của các chiến sĩ tử thủ An Lộc ba mươi
sáu năm về trước (cũng vào THÁNG TƯ quái ác). V́ "tất cả cho chiến
trường", cho nên kế hoạch tiếp tế, tản thương đă lập tức thực hiện
song song với việc giải tỏa. Việc tiếp tế thả dù khởi đầu không được
như ư. Phi cơ phải tránh pḥng không địch, nên bay quá cao và có
nhiều kiện hàng rơi không đúng nơi dự tính. Lại thêm địch tiếp tục
pháo nên việc đón nhận các tiếp liệu phẩm gặp khó khăn. Đă có những
quân nhân tử nạn v́ bị kiện hàng rơi trúng, không kịp tránh, hoặc bị
trúng đạn pháo trước khi chạm tay vào các vật phẩm tiếp tế.
Dẫu vậy, không như Cổ Thành Quảng Trị ở Vùng I hay Tân Cảnh (Dakto)
ở Vùng II, thị trấn An Lộc đă đứng vững, chứng minh tinh thần anh
dũng, quyết chiến của các chiến sĩ tử thủ cũng như giải tỏa, trong
mặt trận B́nh Long - An Lộc. Kết thúc trận chiến, sau này theo thống
kê, cả hai bên đều thiệt hại nặng. VNCH vẫn kiểm soát được các tỉnh
lỵ, huyện lỵ (trừ Lộc Ninh) và thị trấn trên Quốc lộ 13, đoạn B́nh
Dương - B́nh Long, Việt Cộng kiểm soát vùng nông thôn và ven ranh.
Di chuyển lên B́nh Long, Phước Long, phải dùng phi cơ, không c̣n
thênh thang đường bộ như năm trước.
Rời chiến trường B́nh Long - An Lộc, một trận chiến làm rúng động
thế giới, Đại Tá Vỹ về làm Phụ Tá Hành quân Tư Lệnh Quân Đoàn III
rồi được chỉ định làm Tư Lệnh lực lượng đặc nhiệm (gồm liên đoàn
Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh v.v.). Ngoài ra, Ông cùng một
phái đoàn được đi du ngoạn Đài Loan gọi là để tưởng thưởng các chiến
sĩ hữu công. Sư Đoàn 5BB cũng có một Tư Lệnh mới, Đại Tá Trần Quốc
Lịch thay Tướng Hưng từ sau trận chiến An Lộc. Những cuộc giao tranh
ác liệt không c̣n, thỉnh thoảng địch "đóng chốt" hoặc bắn xẻ.
Năm 1973, Đại Tá Vỹ thuyên chuyển về Sư Đoàn 21 BB, giữ chức Tư Lệnh
Phó. Ít lâu sau, chính Tướng Hưng lại về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 21 một
thời gian trước khi nhận chức Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV. Rừng núi
miền Đông Nam Phần khác với vùng śnh lầy miền Tây. Hơn hai mươi năm
trước, Thiếu Úy Vỹ đă cùng bao đồng đội, lao ḿnh ra phỏi phi cơ ở
độ cao mấy ngàn bộ, khi th́ nhảy ngay trên đầu địch, khi th́ nhảy
xuống sau lưng địch, đánh bọc hậu, th́ nay, dù Sư Đoàn 5 hay Sư Đoàn
21, dù Quân Đoàn III hay quân Đoàn IV, đời chiến binh đâu chẳng là
nhà. Và nhiệm vụ nào thượng cấp đă giao, phải ra sức chu toàn. Với
nhiệm vụ của một Tư Lệnh Phó, Đại Tá Vỹ thường bay thị sát trong
vùng và không may, trong một phi vụ quan sát, máy bay gặp nạn, Ông
bị văng ra khỏi phi cơ nhưng như có phép lạ, chỉ bị gẫy xương ống
chân và xây xát, bầm tím trên mặt, trên thân thể. C̣n sống sót khi
máy bay gặp nạn là điều hiếm thấy và quân y viện đă săn sóc, bó bột
chân; xong để Ông về nhà dưỡng thương ba tháng trước khi tháo băng
bột.
Thời gian dưỡng thương, đi lại phải nhờ vào cặp nạng nhôm quân y
viện cho mượn, sinh hoạt cần thiết hàng ngày đôi lúc phải nhờ người
khác. Nhưng đây cũng là thời gian hiếm có trong đời để nhớ về những
trận đánh, những chiến trường và những chiến công. Là một chiến sĩ
từng xông pha ngoài trận tuyến, dày dạn chiến trường, mà nay chỉ làm
bạn với chiếc máy thu thanh, thu h́nh, tin tức chỉ xoay quanh Việt
Cộng vi phạm hiệp định bao nhiêu lần, đă đón nhận bao nhiêu tù binh,
giành dân lấn đất ở đâu v.v., Ông thường tự hỏi chẳng lẽ mang danh
chiến sĩ mà cứ loanh quanh trong căn pḥng hơn 20 mét vuông với đôi
nạng hay sao?....
Thoắt đă gần 3 tháng, c̣n 2 tuần nữa là tới ngày tháo bột. Những
bằng hữu, chiến hữu lui tới thăm hỏi cũng thưa dần. Trong khi ấy,
sau trận chiến An Lộc, Sư Đoàn 5 BB cần được bổ sung và chỉnh đốn về
mọi mặt, từ quân số đến trang thiết bị. Đại Tá Trần Quốc Lịch, đă
được thăng cấp Chuẩn Tướng. Bộ Tham Mưu/SĐ gồm Đại Tá Tham Mưu
Trưởng Đ., Trưởng Pḥng 1 H., Trưởng Pḥng Tổng Quản Trị T.H.,
Trưởng Pḥng 4, Tiểu Đoàn Tiếp Vận, Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn
v.v. cộng với các Trung Đoàn Trưởng mới … tập họp thành một "…"
(không biết dùng từ nào cho thích hợp), làm Sư Đoàn "tuột dốc" thê
thảm. Nạn bè phái, chạy chọt chức vụ, cấp bậc, lo lót về đơn vị yểm
trợ, lính ma, lính kiểng, ăn chơi, trụy lạc v.v. khiến Trung Ương
không thể dung dưỡng được lâu. Và kết quả, Chuẩn Tướng Lịch bị cách
chức Tư Lệnh, giáng cấp, chờ ngày ra toà (dịp này, Chuẩn Tướng Lê
Văn Tư/SĐ25BB cũng bị cách chức và giáng cấp).
Vào một ngày đầu tháng 11-1973, Đại Tá Vỹ nhận lệnh về đảm nhiệm
chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB với trọng trách chấn chỉnh, thanh lọc
và lấy lại uy danh ngày xưa. Thời gian này, Trung Tướng Phạm Quốc
Thuần đă thay Tướng Nguyễn Văn Minh làm Tư Lệnh Quân Đoàn III và
Quân Khu III. Lệnh trên đă ban ra, buộc Đại Tá Vỹ phải yêu cầu các
quân y sĩ tháo băng bột ở chân sớm hơn dự dịnh một tuần và ngày 7
tháng 11-1973, lễ bàn giao diễn ra tại Bộ Tư Lệnh/SĐ ở Căn Cứ Lai
Khê.
Trở lại chiến trường miền Đông lần này, lại nhận một trọng trách
lớn, Đai Tá Vỹ bắt tay ngay vào việc chấn chỉnh, sắp xếp các sĩ quan
ở Trung Đoàn và Bộ Tham Mưu. Ông rất hài ḷng với ba Trung Đoàn
Trưởng: Trung Tá Quế, từ đơn vị Biệt Cách Nhảy Dù chỉ huy Trung Đoàn
9; Trung Tá Hùng, thụ huấn tại Trường Chỉ Huy Tham Mưu, về chỉ huy
Trung Đoàn 8; và Trung Tá Vượng, Trung Đoàn 7. Trường hợp Trung Tá
Vượng tưởng cũng nên mở dấu ngoặc để nói thêm: Ông từ binh chủng
Thủy Quân Lục Chiến, về Sư Đoàn 5 làm ... sĩ quan Thanh Tra! Đại Tá
Vỹ, không muốn phí phạm nhân lực và muốn tạo cơ hội tốt cho Trung Tá
Vượng, nên đă trao Trung Đoàn 7 cho Ông. Đối với Bộ Tham Mưu Sư
Đoàn, trải qua những kinh nghiệm chiến trường và những phúc tŕnh
đầy đủ, Đại Tá Vỹ muốn có một phụ tá biết xử dụng khả năng, sức mạnh
của thiết giáp, kỵ binh nên Đại Tá Thoàn thuộc binh chủng Thiết Giáp
đă về làm Tư Lệnh Phó/SĐ, và Trung Tá Đ.Đ.Chinh, một Sĩ Quan Tham
Mưu nhiều năm kinh nghiệm thay Đại Tá Đăng trong chức vụ Tham Mưu
Trưởng. Dĩ nhiên phần lớn các trưởng pḥng thuộc Bộ Tham Mưu/SĐ cũng
lần lượt ra đi. Thế là SĐ5BB bây giờ đă mang một bộ mặt mới và quân
sĩ đă có niềm tin mới vào các cấp chỉ huy. Con đường trước mặt là
phải ngăn chặn và giáng trả những vi phạm, phải giành lại những nơi
mà địch lấn chiếm sau hiệp định tháng 1-1973, tới nay c̣n đóng
"chốt" và cố thủ. Ngoài ra, việc pḥng thủ các vị trí đóng quân cũng
là mối quan tâm lớn của vị tân Tư Lệnh. Bài học đắt giá từ chiến
trường An Lộc khiến các đơn vị đă tích cực hơn nhiều trong việc
thiết lập hệ thống pḥng thủ. Ngoài việc đào giao thông hào quanh
đơn vị, lập hầm trú ẩn an toàn cho binh sĩ, mỗi đơn vị bắt buộc phải
đào một giếng nước v.v. Riêng ṿng đai pḥng thủ căn cứ, ngoài hệ
thống ḿn bẫy dĩ nhiên phải có, Đại Tá Vỹ đặc biệt giao cho Tiểu
Đoàn 5 Công Binh sản xuất thực nhiều chông nhỏ rải xung quanh các
pháo đài quanh căn cứ. Loại chông này, lấy vật liệu từ kẽm gai, có
h́nh dáng như 4 cái đinh, mỗi đinh dài khoảng 3cm, mũ của đinh tụ
lại ở giữa, bốn đầu nhọn của đinh có ngạnh giống lưỡi câu, hướng ra
ngoài. Khi chông rải ra, lúc nào cũng có một mũi nhọn hướng lên trời
để chờ đợi những bàn chân "đi giải phóng". Đại Tá Vỹ muốn tạo niềm
tin cho các quân sĩ, tin vào khả năng tác chiến, tin vào vũ khí và
hỏa lực, tin vào hệ thống pḥng thủ vững chắc và nhất là tin vào
tinh thần quyết chiến của cấp chỉ huy cùng đồng đội, th́ cho dù tiền
pháo hậu xung, cho dù biển người, cho dù xe tăng T54, T56 v.v. cũng
không làm sờn ḷng chiến sĩ SĐ5.
Tuy rất bận rộn với công vụ, Đại Tá Vỹ thường dành vài giờ mỗi tháng
để nhắn nhủ hoặc tâm t́nh cùng quân sĩ tại vơ đường của SĐ. Đặc
biệt, rút kinh nghiệm chiến trường An Lộc, Ông đă chỉ thị Trung Đoàn
8 cho tác xạ biểu diễn hoả tiễn TOW (được trang bị từ cuối năm
1972), một loại hoả tiễn tối tân có thể điều khiển t́m mục tiêu, để
quân sĩ trú pḥng vững tin hơn. Thời gian này, Sư Đoàn lại được bổ
sung hai Sĩ Quan nhiều kinh nghiệm tham mưu và chiến trận: Đại Tá
Nguyễn Mạnh Tường và Đại Tá Từ Vấn. Đại Tá Tường xuất thân binh
chủng Nhảy Dù, trước khi về SĐ là Tiểu Khu Phó TK/B́nh Định; Đại Tá
Vấn nguyên là Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 22 Biệt Động Quân.
Về an ninh diện địa, trong vùng trách nhiệm của SĐ5BB, Việt Cộng vi
phạm Hiệp Định ngừng bắn nhiều lần, nhưng chỉ lẻ tẻ và ở mức độ
thấp. Đơn vị tác chiến của SĐ đă trực tiếp giáng trả hoặc hỗ trợ các
đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân giành lại thôn, ấp xa xôi do địch
tạm chiếm. Tuy nhiên vào khoảng gần cuối năm 1974, cách quận lỵ Bến
Cát hơn 10km về phía tây nam, đồn Rạch Bắp bị địch tràn ngập...
Đây là một trọng điểm kiểm soát hành lang di chuyển của địch. Lực
lượng đồn trú bị tổn thất nhẹ và đă rút ra ngoài an toàn. Bộ Tư Lệnh
chỉ thị Trung Đoàn 9 phải đưa một đơn vị hành quân giải tỏa. Địch đă
rút lui về vùng Tam Giác Sắt chỉ để lại chừng một trung đội cố thủ
tại đây. Trải qua mấy ngày đầu, lực lượng tái chiếm vẫn dậm chân tại
chỗ. Địch núp dưới giao thông địa đạo tránh bom và pháo. Khi ta xung
phong lại gặp hỏa lực dữ dội của địch. Cho nên đơn vị của TrĐ 9 đến
giải tỏa, thay đổi chiến thuật. Trong khi cả tiểu đoàn vây hăm ṿng
ngoài, có những toán nhỏ với vũ khí nhẹ và lựu đạn, xâm nhập và tiêu
diệt từng ổ kháng cự. Thế là cũng với quân số tương đương, ta chiếm
lại được Rạch Bắp.
Niềm vui chiến thắng kéo dài tới ngày Quốc Khánh 1-11-1974, ngày Đại
Tá Lê Nguyên Vỹ được vinh thăng Chuẩn Tướng. Một số các quân nhân
khác cũng được tưởng thưởng và thăng cấp trong dịp lễ kỷ niệm này.
Đặc biệt sắc lệnh thăng thưởng cấp Tướng chỉ có hai vị: H.V.Lạc lên
Chuẩn Tướng thực thụ, và Lê Nguyên Vỹ nhiệm chức.
Khoảng trung tuần tháng 12-1974, từ phía đông bắc căn cứ Lai Khê,
tin dữ đưa về: Việt Cộng tấn công một số chi khu của tỉnh Phước Long
như Đôn Luân, Đức Phong và đang uy hiếp tỉnh lỵ. Mọi liên lạc tiếp
viện, yểm trợ không thể dùng đường bộ, chỉ hoàn toàn trông vào không
lực VNCH. Trong khi phi trường Biên Ḥa, phi trường Phước Long, và
BTL/SĐ5 bị pháo liên tục th́ Sư đoàn 7 của địch, có tăng và pháo yểm
trợ mỗi ngày một xiết chặt ṿng vây quanh Phước Long. Bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn III đă không vận tăng cường đến Phước Long lực lượng Biệt
Cách Dù, một tiểu đoàn bộ binh và 3 đại đội trinh sát. Ngoài ra rất
nhiều phi tuần đánh bom quanh tỉnh lỵ. Nhưng v́ đánh giặc theo kiểu
"con nhà nghèo", bắn một viên đạn, thả một trái bom đều phải tính
thành tiền, vả lại làm ǵ c̣n B52 trải bom thảm theo yêu cầu nữa,
lại không c̣n một lực lượng Tổng Trừ Bị nào tăng phái cho Quân Đoàn,
v́ thế Phước Long chỉ cầm cự được thêm ít lâu và thất thủ vào ngày
6-1-1974. Đây là tỉnh lỵ đầu tiên của VNCH bị địch lấn chiếm trong
chiến dịch "tầm ăn dâu" hay là "giành dân lấn đất".
Không biết do áp lực nào, Tổng Thống Thiệu đưa Tướng Dư Quốc Đống về
thay Tướng Thuần. H́nh như Tướng Đống cũng lập kế hoạch giải tỏa và
cần tăng viện một sư đoàn, nhưng không được đáp ứng v́ không đủ
quân, nên có ư xin từ chức. Rồi vài tháng sau, Tướng Nguyễn Văn Toàn
thay Tướng Đống. Tướng Thuần, Đống hoặc Toàn làm tư lệnh, Phước Long
vẫn nằm trong tay Việt Cộng và h́nh như Phủ Tổng Thống hay Bộ Tổng
Tham Mưu đă quay mặt với lư do nơi đây không phải là vị trí chiến
lược quan trọng. Chỉ trong ṿng 3 tháng mà hai lần thay Tư Lệnh quân
đoàn bảo vệ Saigon. Rồi lại một tin không vui từ Bộ Tư Lệnh Quân
Đoàn III truyền đi: Tướng Hiếu đă tử nạn!!! Nghe tin này, người ta
thực hoang mang và xúc động.
Trong khi đó, sau khi chiếm được Phước Long, Việt Cộng tảng lờ những
chống đối, lên án, tại Ủy ban kiểm soát đ́nh chiến, tại Ban liên hợp
quân sự v.v. cứ khăng khăng "chỉ đánh trả lại những vi phạm Hiệp
định Paris" của VNCH. Quan trọng hơn hết, Hoa Kỳ không có phản ứng,
hoặc phản ứng lấy lệ. Dĩ nhiên, đối với Hoa Kỳ, chiến tranh VN đă là
dĩ văng. Kể từ năm 1967, họ đă từng bước lập kế hoạch, nào là thư từ
qua lại, nào là đi đêm, hoạt động con thoi, nào là qua trung gian
các cường quốc rồi chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh, rồi
leo thang, rồi ném bom Hà Nội v.v. Cuối cùng, gần 6 năm sau, đúng
nửa đêm ngày 27 rạng 28-1-1973 giờ quốc tế, có một bản văn được kư
kết tại Hội nghị Paris với tên gọi "Hiệp Định về Chấm Dứt Chiến
Tranh và Tái Lập Ḥa B́nh tại Việt Nam" theo nhu cầu và quyền lợi
của quốc gia Hoa Kỳ. Hơn 60,000 lính tác chiến Mỹ c̣n lại đă triệt
thoái. Hầu hết tù binh Mỹ được phóng thích, kể cả Đại tá Không quân
John McCain – đương kim ứng cử viên Tổng thống Mỹ – sau hơn 5 năm đủ
mùi vị đầy đọa, hạ nhục tại Hỏa Ḷ Hà Nội. Dù chẳng phải không tiên
liệu được tham tâm nhất thống miền Nam của Lê Duẩn và Đảng Lao Động
Việt Nam, nhưng TT Nixon và Ngoại trưởng Kissinger không có một lựa
chọn nào khác, đành vui hưởng cái gọi là "ḥa b́nh trong danh dự"
[peace with honor] từ mùa Xuân 1973. (Không biết đây có phải là Mỹ
đă "thua" và phải "tháo chạy" như có người đă nhận xét?).
Tại Bộ Tư Lệnh SĐ5BB, đầu năm 1975, Đại Tá Từ Vấn giữ chức vụ Tham
Mưu Trưởng thay Đại Tá Chinh xin thuyên chuyển về trường Hạ Sĩ Quan
Nha Trang. Đại Tá Nguyễn Mạnh Tường, theo trên cho biết, có liên hệ
đến vụ đảo chánh 11-11-1960, nên không được chấp thuận chức vụ Tham
Mưu Trưởng. Tướng Vỹ chỉ định Ông làm Phụ Tá Hành Quân.
Nh́n chung Quân đội VNCH giai đoạn này, đă ở thế thủ. Viện trợ quân
sự bị cắt giảm nhiều, không đủ lực mở những cuộc hành quân quy mô,
có tăng, có pháo và phi cơ yểm trợ đầy đủ như trước. Tướng Vỹ cho
biết, trong t́nh h́nh xấu nhất, Ông có thể cầm cự 6 tháng không cần
tiếp tế.
Nhưng Hà Nội bắt đầu phát động chiến dịch Xuân-Hè 1975, với hy vọng
làm ăn ở miền Tây nguyên. Ba sư đoàn Bắc quân, được tăng pháo và đặc
công yểm trợ, tấn công và chiếm được thị xă Ban Mê Thuột, nơi đặt Bộ
Tư lệnh Sư đoàn 23 BB vào thượng tuần tháng 3-1975. Tư lệnh Quân
đoàn II và Bộ Tổng Tham Mưu hoàn toàn bị bất ngờ. Giữa lúc các lực
lượng cơ hữu của QĐ II đang lo tái chiếm Ban Mê Thuột, TT Thiệu
triệu tập một phiên họp mật với Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại
Tướng Cao Văn Viên và Trung Tướng Đặng Văn Quang tại hành lang Dinh
Độc Lập, tiết lộ đă quyết định triệt thoái khỏi Pleiku và Vùng I
chiến thuật, rút về lập tuyến pḥng thủ Phan Rang - Ban Mê Thuột. Lư
do chính là phái đoàn Nghị sĩ mới từ Mỹ về cho biết viện trợ tài
khóa 1975-1976 lại bị cắt giảm. TT Thiệu đành phải thực hiện chiến
lược "đầu bé, đít to" – cắt nhỏ dần lănh thổ kiểm soát, cốt sao giữ
được Vùng III và Vùng IV. Quyết định này được thông báo cho Tướng
Trưởng ngày 12-3-1975: Hoàn trả Nhảy Dù về Sài G̣n; nếu cần, triệt
thoái Huế, về giữ Đà Nẵng. Hai ngày sau, TT Thiệu cùng các Tướng
Khiêm, Viên và Quang bay ra Cam Ranh, họp mật với Tướng Phạm Văn
Phú, và cho lệnh triệt thoái Kontum - Pleiku.
Tướng Phú đề nghị cho hành quân cấp Quân Đoàn dài theo Quốc lộ 7-B –
từ ngă ba Thuần Mẫn trên lộ 14, xuống Cheo Reo (Phú Bổn), Củng Sơn,
rồi Tuy Ḥa. V́ lư do "bảo mật", ngay ngày 16-3, toàn bộ lực lượng
QĐ II bắt đầu rút khỏi Pleiku. Các lực lượng Cảnh sát, Địa Phương
Quân và Nghĩa quân đều bị bỏ lại. Ngay trong đêm 16-3, hỗn lọan đă
bùng nổ ở Pleiku, khi Sư Đoàn 6 Không Quân di tản gia đ́nh và thân
nhân. Hàng chục ngàn dân chúng Pleiku thu góp tài sản đổ về đường
7-B. Văn Tiến Dũng, dù bất ngờ, cũng sai quân đuổi theo truy kích.
Đoàn di tản bị kẹt đọng lại ở Cheo Reo, và rồi Củng Sơn.
Quốc lộ 7-B trở thành địa ngục trần gian cho những quân nhân QĐ II
di tản. Toàn bộ xe tăng, thiết giáp và pháo bị lọt vào tay CSBV.
Chưa đầy 5000 người di tản t́m được về Tuy Ḥa. Tư lệnh lực lượng
bảo vệ, Chuẩn Tướng Tất, bị bắt sống. Trực thăng cứu thoát được
Chuẩn Tướng Cẩm, Tư lệnh phó QĐ II, về Tuy Ḥa, nhưng sau này vẫn
lọt vào tay CS.
Lư do TT Thiệu ra lệnh triệt thoái, tới nay vẫn c̣n là dấu hỏi lớn,
v́ đă mở đầu cho sự sụp đổ hoàn toàn của miền Nam Việt Nam. Người ta
nghĩ rằng trước khi trở thành Tổng Thống, Ông đă là một Trung Tướng,
đă là Bộ Trưởng Quốc Pḥng, vậy th́ đằng sau quyết định đó, có ẩn ư
ǵ? ... Chỉ chắc một điều là quyết định này không do Mỹ chỉ thị để
có thể "tháo chạy". Đại tướng Khiêm và Trung tướng Quang đă khiến
các nhân viên Mỹ cực kỳ bực dọc v́ không thông báo cho Mỹ biết việc
này, khiến các nhân viên Mỹ ở vùng II và Vùng I thất điên bát đảo.
Hạ tuần tháng 3-1975, sau khi cuộc triệt thoái cao nguyên trở thành
thảm bại, TT Thiệu cho lệnh Tướng Trưởng bỏ ngỏ các tỉnh Quân khu I,
rút về tử thủ Đà Nẵng. Nhưng ngày 29-3, Đà Nẵng bị bỏ ngỏ. Các tỉnh
duyên hải miền Trung cũng lần lượt sụp đổ như lâu đài trên băi cát.
Ngay đến Phan Rang, quê hương của TT Thiệu, cũng di tản từ ngày
2-4-1975.
Lữ Đoàn 3 Dù đang trên tàu về Sài G̣n, được lệnh đổ bộ xuống Nha
Trang, rồi từ đây kéo lên Khánh Dương, chốt chặn mức tiến của SĐ 10
CSBV. Một Lữ đoàn Dù khác, cùng tàn quân SĐ 2 BB và SĐ 6 KQ, được
điều ra Phan Rang lập Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn III. Nhưng
chốt pḥng thủ chiến lược này bị cánh quân miền Đông của Lê Trọng
Tấn, với quân số hơn 1 quân đoàn, diệt gọn trong hai ngày
16/17-4-1975.
Ngày 18-4-1975, Long Khánh bỏ ngỏ. Tướng Toàn phải di tản Không quân
xuống Cần Thơ. Mặc dù hai Sư Đoàn 25 BB và 5 BB c̣n trấn giữ phía
Tây Bắc và Bắc Sài G̣n, t́nh thế đă tuyệt vọng. Bắc quân lên tới hơn
3 quân đoàn, với tăng, pháo hợp đồng...
Tối 21-4-1975, TT Thiệu bàn giao cho Phó TT Trần Văn Hương, để "trở
lại chiến đấu bên các chiến hữu". Nhưng bốn ngày sau, hai ông Thiệu,
Khiêm bí mật rời Sài G̣n bằng phi cơ Mỹ. TT Hương cũng chỉ ở Dinh
Độc Lập được một tuần lễ, rồi ủy quyền cho Quốc Hội. Chiều ngày Thứ
Hai, 28-4-1975, Đại Tướng Dương Văn Minh tuyên thệ nhậm chức Tổng
Thống – với hy vọng đạt một giải pháp màu hồng với Mặt Trận Dân Tộc
Giải Phóng Miền Nam. Điều Tướng Minh và nhiều chuyên gia ngoại quốc
không biết là vai tṛ MTDT/GPMN đă hầu như chấm dứt. Lê Duẩn – người
không ngừng cổ vơ "cách mạng là tấn công" – cho lệnh phải giải quyết
càng sớm càng tốt, nếu có thể trước năm 1976 như dự định.
Tướng Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu không chọn đường tử thủ. Sáng
ngày 29-4-1975, Thủ Tướng Mẫu chính thức yêu cầu người Mỹ rút khỏi
VN, đóng cửa văn pḥng tùy viên quân sự (DAO) – một bước ngoại giao
có tính toán giúp Mỹ rảnh tay ra đi.
Cũng ngày 29-4-1975 này, Tướng Toàn và Bộ Tư Lệnh QĐ III từ Biên Ḥa
di chuyển về G̣ Vấp, 5km bắc Thủ đô Sài G̣n. Riêng Sư Đoàn 5, lực
lượng vẫn bảo toàn nguyên vẹn. Theo Tướng Vỹ, có thể địch tránh
không muốn đụng SĐ5, nên chúng pháo cầm chân và tiến quân về Sàig̣n
theo hai hướng đông và tây của Lai Khê, đồng thời đặt các nút chặn
phía nam của Lai Khê, B́nh Dương. Sư Đoàn 5 cũng được lệnh chuẩn bị
di chuyển về phía nam để tái phối trí. Sáng 30 tháng 4-1975, sau
buổi họp Tham Mưu thường lệ chừng một tiếng đồng hồ, người ta bàng
hoàng nghe tin TT Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Ông c̣n nhân
danh Tổng Tư Lệnh Quân Đội ra lệnh cho quân nhân các cấp buông súng,
chờ bàn giao! Đúng là sét đánh ngang tai!
Tướng Vỹ lúc đó ưu tư nhiều, vẻ mặt trầm lặng, khác với bản tánh
thường ngày. Ông tâm sự với một số sĩ quan tham mưu thu hẹp bên
cạnh, với nét mặt b́nh thản khác thường: "Lệnh trên đă ban ra, phải
thi hành. Hơn nữa, con em người ta giao cho ḿnh, không lẽ đem nướng
vào giờ thứ 25 sao? Đối với các anh em th́ tùy ư quyết định". Xong
Ông đi về phía trailer [pḥng lưu động của quân đội] dùng làm pḥng
ngủ riêng cho Tư Lệnh.
Ít phút sau, hai tiếng nổ khô khan vọng ra. Mọi người hốt hoảng chạy
tới. Tướng Vỹ đă dùng khẩu súng ngắn của Ông để tự sát. Vết đạn
xuyên từ phía dưới cằm lên đầu. Các Sĩ Quan hiện diện kính cẩn
nghiêng ḿnh, không cầm được nước mắt. Lúc ấy là 12 giờ rưỡi trưa
ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Trong khi mọi người vội vă đưa thi hài Tướng Vỹ an táng tạm trong
ṿng đai căn cứ th́ phía ngoài hàng rào, Việt Cộng dùng loa phóng
thanh, âm lượng thật lớn kêu gọi mọi người bên trong đầu hàng.
Khoảng 3 giờ chiều, Bộ Tham Mưu và các đơn vị mới tự động rời khỏi
căn cứ, không có súng nổ. Nhưng mới qua khỏi quận lỵ Bến Cát, bị
địch chận lại, tịch thu tất cả vũ khí, quân trang dụng. Hạ sĩ quan
trở xuống cho tự túc về điạ phương, sĩ quan giữ lại, phân theo cấp
bậc để đưa đi tù. Trang quân sử về Sư Đoàn 5 Bộ Binh chấm dứt ở thời
điểm này.
* * *
Từ lâu, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, rồi sau những năm tháng bị
Việt Cộng giam cầm, hành hạ, tôi đă có ư định ghi lại vài kỷ niệm về
Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Tướng Lê Nguyên Vỹ. Đă gần 33 năm trôi qua, tôi
chưa thực hiện được ư nguyện này. Khi c̣n ở trong nước cũng như kể
từ khi định cư tại Mỹ mười mấy năm trước, biết bao nhiêu câu hỏi của
bằng hữu, của đồng đội, của người thân xoáy sâu măi trong tâm trí
tôi. Ai cũng yêu cầu tôi nói đôi điều về Tướng Vỹ. Tôi biết ở đâu
đó, rải rác một vài ḍng trên báo chí, hay vài phút trong một chương
tŕnh phát thanh tiếng Việt, không đủ thỏa măn người đọc, người
nghe. Lại nữa, tôi là một sĩ quan của Sư Đoàn 5BB, suốt 10 năm rưỡi
trong quân ngũ, 2 năm dành cho quân trường và một đơn vị ngoài SĐ, 8
năm rưỡi c̣n lại dành cho Sư Đoàn 5 và tôi đă khoác quân phục mang
phù hiệu SĐ5 tới ngày cuối cùng. Ai mà không hănh diện khi có dịp
nhắc đến đơn vị của ḿnh, lại c̣n hănh diện hơn nữa khi nhắc đến cấp
chỉ huy đơn vị đă anh dũng, can đảm tuẫn tiết, quyết không chấp nhận
đầu hàng địch. Ngày nào chưa ghi được đôi ḍng, dù là không đầy đủ
lắm về Tướng Lê Nguyên Vỹ, tôi c̣n rất áy náy, như gánh nặng chưa
trút xuống được và thấy ḿnh mắc một món nợ chưa kịp trả. Món nợ ấy
là niềm hănh diện mà Tướng Vỹ đem lại cho SĐ5 BB nói riêng và Quân
lực VNCH nói chung. Tướng Vỹ là người lính chiến đấu ngoài mặt trận
với đầy đủ cái OAI cái DŨNG của nhà Tướng. Tôi cũng muốn nhắc nhở
một sự thực mà người ta muốn chối bỏ là Miền Nam có nhiều dũng
tướng, thành mất, Tướng phải chết theo thành, như Tướng Lê Nguyên Vỹ
đă làm.
30 tháng 4-1975, ngày tang lớn. Những bàng hoàng, xúc động sau 33
năm, nay đă lắng dịu phần nào. Cuộc sống nơi xứ người và tuổi 70
khiến tâm trí tôi b́nh thản hơn. Đôi ḍng đơn sơ trên là những sự
thực về Tướng Vỹ mà tôi biết, dĩ nhiên chưa phải là tất cả. Dẫu sao,
đây là những ḍng tâm thành, thay nén nhang dâng lên tưởng niệm vị
anh hùng dân tộc Lê Nguyên Vỹ nhân ngày giỗ thứ 34, 30 tháng 4-2009
sắp tới của người.
Triệu Vũ
Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây
biểu chương...
Lễ nghi
quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu,
huy hiệu... QLVNCH
Tiến
tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về
Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6
Gươm lạc giữa rừng hoa
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ
Sắc lệnh về
quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ
quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !
140
chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại
VN
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Tổng Thống Abraham Lincoln
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo
vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng
Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc
Luận về Tậm Lư
Chính Trị
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?
Một tài liệu 42 năm cũ
Dựng
Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi
Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974
Những điều nên biết về
Medicare 2016
Remember C-Rations?
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Tướng lănh VNCH
Bài phỏng
vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột
tháng 3, 1975
Đại Tá
Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần
Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975
tại Sài G̣n
Chuyện của một
ngôi trường
Luận về khoa bảng
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền
Phiếm luận
về mộng mơ qua văn chương và triết học
Chính sách
thuế khóa
Cách viết hoa
trong tiếng Việt
Đoàn
thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa
ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa
Việt Nam
Tiếng Việt ba miền -
Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?
TT
Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?
HCM đă âm mưu
bán nước từ năm 1924
Vài nét
về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải
chiến Midway
Adm
Chester Nimitz
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc
hành quân Lam Sơn 719
Những trận đánh đi vào quân sử
Nguyên nhân xụp
đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng
Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh
chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh
Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng
Nguyên do chính khiến VN bất tử
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và
huyền thoại
Vài nét hoạt
động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến
VNCH
Trung
Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72,
TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng
12 năm 1965
Nhảy Dù và
Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử:
Mậu thân Huế
Trận KAMPONG
TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v
Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn
Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ
QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát
Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân
VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc
Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về
thành nội Tết Mậu Thân
Một ngày với Đô Đốc
Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh
anh dũng và trung thành với Tổ Quốc
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần -
Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối
tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng
Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết
hiên ngang
Chuyến công tác cuối
cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá
BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người
chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà
Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh
một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của
Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn
thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị
bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng
sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi
trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường
BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh
hùng
Lịch sử h́nh thành
QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận
Vong
Người lính
VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người
lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù
bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh
chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính
VNCH
Sự thật về cái chết
của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số
quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những
chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn
Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1,
Phần 2,
Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ
1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn
Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên
Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
QLVNCH
Những người trở về
với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam,
Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ
lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức -
1974
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc
Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù
CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước
Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội
chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối
của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc
Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành
Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú
Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di
sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền
ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc
Kinh