Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài gần 30 năm từ nửa đêm 19-12 -1946 khi Việt Minh tấn công quân Pháp tại Hà Nội chấm dứt vào ngày 30-4-1975 khi Sài G̣n thất thủ. Theo thống kê năm 1973 của Ngũ Giác Đài, người Mỹ tốn kém gần 300
Cho đến nay, nguyên nhân sự sụp đổ của Việt Nam
Cộng Ḥa vẫn c̣n là một điều gây nhiều tranh căi, ít ra là trên sách
báo và trên những tài liệu dưới h́nh thức những hồi ức. Bài viết này
của tác giả Trọng Đạt là một trong một số ít những bài viết rất công
phu về điểm này. Phần dưới cùng của bài viết là danh sách những tài
liệu tham khảo.
Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài gần 30 năm từ nửa đêm 19-12 -1946
khi Việt Minh tấn công quân Pháp tại Hà Nội chấm dứt vào ngày
30-4-1975 khi Sài G̣n thất thủ. Theo thống kê năm 1973 của Ngũ Giác
Đài, người Mỹ tốn kém gần 300 tỷ đô la từ giữa thập niên 60 tới ngày
kư Hiệp định Paris, có khoảng 58 ngàn người chết, phía VNCH khoảng
hơn 180 ngàn người tử thương, CSBV và VC mất hơn một triệu cán binh,
dân chúng hai miền được ước lượng vào khoảng hơn một triệu người
chết v́ bom đạn.
Nói về những nguyên nhân khiến miền Nam mất về tay cs đă được biết
bao người bàn tán tranh luận từ mấy chục năm qua cho tới nay người
ta vẫn c̣n tranh căi. Người Mỹ th́ đổ lỗi cho VNCH như Tổng Thống
Bush và Bộ Trưởng Quốc Pḥng Rumfield cách đây mấy năm đă nói thua
tại v́ Quân Đội VNCH không chịu đánh ! Họ ư nói ta chỉ chờ Mỹ đánh
dùm! Phía Việt Nam nhiều người kết án tại Mỹ tháo chạy bỏ rơi đồng
minh.
Nhà nghiên cứu quân sự Nguyễn Đức Phương cho rằng phía Việt nam có
ba nguyên nhân chính đưa tới sụp đổ:
- Ta thiếu một lănh tụ có đủ khả năng
- Dân chúng miền Nam không tích cực yểm trợ công cuộc chiến đấu.
- Quân đội CSBV đă nhanh chóng khai thác thời cơ, lợi dụng các yếu
điểm của QLVNCH.
Những nguyên nhân đưa tới sự mạng vong của VNCH th́ chằng chịt nhiều
vô kể, không có nguyên nhân nào là độc quyền chủ chốt, nhiều người
quả quyết ta thua v́ hết đạn, người Mỹ cúp quân viện, nhưng sự thực
cũng không hẳn như vậy. Ông Nguyễn Đức Phương căn cứ theo tài liệu
Mỹ cho biết sau 30-4-1975 CSBV đă tịch thu được của VNCH rất nhiều
chiến lợi phẩm trị giá trên 5 tỷ đô la trong đó có 130 ngàn tấn đạn.
Năm 1972 ta xử dụng mỗi tháng trên 60 ngàn tấn, sau tháng 7-1975 ta
xử dụng tiết kiệm 18 ngàn tấn một tháng như vậy số đạn dược 130 ngàn
tấn nếu không bị CS tịch thu ta có thể xử dụng được 5, 6 tháng.
Ở đây chúng tôi chỉ nêu một số điểm chính đi từ gần đến xa, trước
hết xin nói về nguyên nhân gần, tiếng Pháp gọi cause immédiate.
- Nguyên nhân quân sự.
Nguyên nhân gần gũi nhất ai cũng biết là do sự sai lầm của ông Tổng
Tư Lệnh Quân Đội Nguyễn Văn Thiệu trong kế hoạch triệt thoái hai
Quân khu 1 và 2 gây nên sự hỗn loạn dây chuyền sụp đổ hai vùng chiến
thuật rồi đưa tới sụp đổ toàn bộ miền Nam. Kể từ sau ngày kư Hiệp
định Paris 28-1-1973 trong khi BV mở mang xa lộ Đông Trường Sơn, xử
dụng 16 ngàn xe vận tải chuyển vận vũ khí đạn dược vào Nam chuẩn bị
cho cuộc Tổng tấn công 1975 , chính phủ Nguyễn Văn Thiệu không có
một kế hoạch nào về chính trị, quân sự để chống lại âm mưu địch
cưỡng chiếm miền Nam mà chỉ ngồi chờ giặc tới và hy vọng vào sự can
thiệp của Không Lực Mỹ.
T́nh báo yếu kém nên ông Thiệu đă khinh địch, đánh giá sai lực lượng
địch cho rằng CSBV không đủ khả năng đánh vào các thành phố lớn,
không đủ lực lượng để mở những trận tấn công lớn như năm 1972. Trước
hết chúng tôi xin so sánh lực lượng hai bên vào năm 1975.
VNCH tổng cộng có hơn một triệu quân trong đó 40 % là bộ binh chính
qui, 50% là địa phương quân, nghĩa quân c̣n lại là cảnh sát và Không
quân, Hải quân.. .V́ ta tổ chức theo lối Mỹ, một người lính tác
chiến có năm người yểm trợ như tiếp liệu, quân nhu, quân y, hành
chánh tài chánh… cho nên trên thực tế lính nhà nghề chưa tới 200
ngàn người, thành phần không tác chiến (non combatant) chiếm khá
nhiều, địa phương quân và nghĩa quân chỉ đủ sức cầm cự chờ lính BB
của sư đoàn.
Chủ lực quân VNCH được bố trí tại 4 quân khu như sau:
Quân Khu 1: 3 sư đoàn BB cơ hữu của QK 1, 2, 3, và hai sư đoàn Tổng
trừ bị TQLC và Dù, 4 Liên đoàn Biệt động quân, 410 đại bác, khoảng
450 xe tăng thiết giáp, hơn 90 máy bay chiến đấu
Quân Khu 2: 2 sư đoàn BB chủ lực 22 và 23 và 7 liên đoàn BĐQ, 380
đại bác, 477 xe tăng thiết giáp, máy bay chiến đấu 138 chiếc .
Quân Khu 3: 3 sư đoàn BB chủ lực 5, 18, 25 và 4 liên đoàn BĐQ, 376
khẩu pháo, 655 xe tăng, 250 máy bay chiến đấu.
Quân Khu 4: 3 sư đoàn BB 7, 9, 21 gồm 380 đại bác 493 xe tăng, 72
máy bay chiến đấu, 580 tầu xuồng các loại.
Về Pháo Binh ta có hơn 1,500 khẩu đại bác , hơn một nửa là súng 105
ly, chưa tới 1/4 là 155 ly và khoảng 15% là súng 175 ly. Về xe tăng
tổng cộng ta có khoảng 2,000 chiếc nhưng hơn một nửa là M113 và các
loại thiết giáp xưa cũ, khoảng gần 40% là xe M41 và M48, trong đó
chỉ có M48 là tương đương với T54 của địch.
M113
M41
M48
Vũ khí QĐVNCH trông cũng khá hùng hậu nhưng t́nh h́nh 1975 do hậu
quả cắt giảm quân viện, nhiều máy bay, xe tăng, tầu chiến… thiếu cơ
phận thay thế đă trở thành bất khiển dụng. Hoả lực giảm 60% so với
năm 1972, đạn dược chỉ đủ đánh cho tới tháng 6 năm 1975. V́ phải
trải quân giữ đất, toàn bộ 13 sư đoàn của ta và 15 liên đoàn BĐQ
(tương đương với hơn 2 sư đoàn) phải bảo vệ 44 tỉnh, tính trung b́nh
một tỉnh chỉ được hơn một trung đoàn bảo vệ trong khi CSBV có thể
tập trung hơn 10 trung đoàn để đánh một tỉnh thí dụ như tại Ban Mê
Thuột tháng 3-1975.
Lực lượng chính qui CSBV năm 1975 gồm có 4 quân đoàn và đoàn 232
(tương đương một quân đoàn).
Quân đoàn 1 có 3 sư đoàn (308, 312, 320B).
Quân đoàn 2 có 3 sư đoàn (304, 324, 325).
Quân đoàn 3 có 3 sư đoàn (10, 316, 320)
Quân đoàn 4 có 3 sư đoàn (6, 7, 341).
Đoàn 232 có 3 sư đoàn BB (3, 5, 9) và sư đoàn đặc công 27. Tổng cộng
BV có 16 sư đoàn BB và đặc công, ngoài ra BV có khoảng 15 trung đoàn
BB độc lập và đặc công tương đương với 4 hoặc 5 sư đoàn. Toàn bộ lực
lượng chính qui BV năm 1975 vào khoảng 20 hay 21 sư đoàn BB.
Người ta ước lượng không chính xác BV đưa vào Nam khoảng trên 500 xe
tăng và 500 đại bác. Về vũ khí đạn dược theo báo chí VC năm 1976
tiết lộ cho biết năm 1975 vũ khí đạn dược của chúng gấp 3 lần 1972,
hư thực th́ không rơ nhưng có điều chắc chắn năm 1975 BV đă được CS
quốc tế viện trợ quân sự tối đa. Về số lượng xe tăng và pháo binh
của ta nhiều gấp hai, ba lần đối phương nhưng về mặt phẩm vũ khí
địch hơn ta. Xe tăng chỉ có M-48 tương đương với T-54 của BV, súng
155 và 105 ly tầm viễn xạ tối đa chỉ được 15 và 11 cây số trong khi
súng 130 ly CSBV bắn xa 30 cây số. Năm 1972 Mỹ có viện trợ cho ta
súng 175 ly bắn xa 28 km nhưng số lượng không nhiều lắm.
Đầu năm 1975 hơn 80% chủ lực quân CSBV đă có mặt tại miền Nam chúng
chỉ để lại quân đoàn 1 tại miền Bắc làm lực lượng tổng trừ bị.
Khoảng hơn 70 % chủ lực quân BV được tập trung vào QK1 và QK2 của
ta. Tại QK2, BV để 5 sư đoàn (10, 320A, 316, 968, 3) và 4 trung đoàn
độc lập (tương đương một sư đoàn), toàn bộ khoảng 6 sư đoàn, tại QK1
của ta BV để 5 sư đoàn BB và hơn mười trung đoàn độc lập, toàn bộ
vào khoảng hơn 8 sư đoàn
Chiến thuật chiến lược hai bên vẫn y như cũ, không khác ǵ thời
chiến tranh Việt Pháp 1947-54 là mấy, ta vẫn theo chính sách đóng
đồn cũ rích có từ thời ông Đờ lát 1950, trải quân giữ đất. VC vẫn
chiến thuật chiến lược cũ công đồn đả viện, tiền pháo hậu xung, lấy
thịt đè người. Cường độ chiến tranh gia tăng nhiều, trận Tổng công
Kích Tết Mậu Thân năm 1968 CS đánh cấp tiểu đoàn trung đoàn, năm
1972 địch đánh cấp sư đoàn nay 1975 chúng tiến lên cấp quân đoàn, VC
xả láng toàn bộ lực lượng vào ván bài chót.
So với năm 1972, t́nh h́nh bi đát hơn gấp bội phần v́ đồng minh phản
bội xé bỏ giấy tờ cam kết yểm trợ Không Quân khi bị VC tấn công, một
ḿnh VNCH phải gánh vác chiến trường với sự thiếu thốn trầm trọng về
tiếp liệu, đạn dược.
Như trên ta thấy BV tung vào chiến trường miền Trung tất cả 14 sư
đoàn trong khi ta chỉ có 7 sư đoàn và 11 liên đoàn BĐQ (tương đương
hơn 2 sư đoàn), toàn bộ chủ lực quân ta (kể cả Biệt động quân) vào
khoảng hơn 8 sư đoàn, ta phải trải quân giữ đất, địch tập trung quân
nên mũi dùi tấn công rất mạnh. Theo Văn Tiến Dũng (trong Đại Thắng
Mùa Xuân) Tướng Thiệu đă bố trí lực lượng sai ở chỗ mạnh hai đầu, có
nghĩa ta để 5 sư đoàn tại QK1 và 3 sư đoàn tại QK3, QK3 được tăng
cường nhiều máy bay chiến đấu và xe tăng. Như thế ta để yếu ở QK2,
đó là nơi CS chủ trương tấn công mở đầu chiến dịch 1975.
Tại QK2 như trên ta thấy chủ lực quân VNCH là 2 sư đoàn và 7 Liên
đoàn BĐQ, toàn bộ chỉ vào khoảng 3 sư đoàn trong khi CSBV tập trung
tại đây tới 6 sư đoàn, v́ ta bố trí sai lực lượng nên không đủ sức
chống lại địch. Ngày 10-3 Cộng quân đem 3 sư đoàn tấn công chớp
nhoáng chiếm Ban Mê Thuột, phần v́ sai lầm của Tướng Phú, ông mắc
lừa kế nghi binh của địch tưởng chúng đánh Pleiku, phần v́ Bộ TTM và
Tướng Thiệu đă bố trí sai lực lượng tại QKII nên ta không đủ lực
lượng chống lại địch. Tại Ban Mê Thuột lực lượng ta chỉ có 2 tiểu
đoàn BB và 3 liên đoàn địa phương quân không thể chống lại quân số
địch khoảng 12 trung đoàn. Theo bút kư của Nguyễn Định, năm 1975,
QĐVNCH Ban Mê Thuột chỉ vào khoảng 2000 kể cả Nghĩa Quân, Cảnh
Sát..BMT như một thành phố bỏ hoang.
Ban Mê Thuột thất thủ đưa tới những hậu quả tai hại không thể lường
trước được, ngày 11-3, một ngày sau khi VC vào Ban Mê Thuột, ông
Thiệu họp HĐ An ninh QG gồm Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng
Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang, phụ tá an ninh QG. Tướng
Thiệu cho biết trước t́nh h́nh khó khăn do cắt giảm quân viện, lănh
thổ pḥng thủ quá rộng, áp lực địch nặng, ta chỉ đủ quân giữ QK3 và
QK4 và một phần duyên hải QKII, QKI chỉ cần giữ Huế và Đà Nẵng. Ông
sẽ thực hiện tái phối trí lực lượng, rút bỏ các tỉnh Cao Nguyên về
giữ đồng bằng. Ngày 13-3 Hạ Viện Mỹ khối đa số Dân Chủ bỏ phiếu
chống tăng viện cho VNCH 300 triệu Mỹ kim do Tổng thống Ford đệ
tŕnh.
Phần th́ hốt hoảng v́ mất Ban Mê Thuột, lại bị toá hoả tam tinh v́
hạ Viện Mỹ bác bỏ quân viện, Tướng Thiệu bèn ra lệnh triệt thoái Cao
Nguyên hôm 14-3-1975 mặc dù Tướng Phú nài nỉ xin ở lại giữ đất. Cuộc
triệt thoái bắt đầu từ ngày 16-3, chia làm 4 đoàn, mỗi ngày một đoàn
xe, mỗi đoàn 250 chiếc, ngày đầu 16-3 th́ êm xuôi nhờ yếu tố bất
ngờ, ngày hôm sau dân chúng chạy ùa theo gây náo noạn cả lên , ngày
16-3 sư đoàn 320 VC được lệnh cấp tốc đuổi theo đến 18-3 th́ bắt
kịp. Hỗn loạn bắt đầu xẩy ra tại Phú Bổn, bọn lưu manh côn đồ đốt
chợ, VC pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đám người di tản.
Tối đến VC pháo thị xă, 70% xe tăng và đại bác dồn đống tại thị xă
bị phá hủy gần hết, 40 xe tăng M41, M48 bị huỷ, Tướng Phú ra lệnh bỏ
Phú Bổn, đoàn quân đi được 20 km th́ VC tràn vào Phú túc, BĐQ chiếm
lại Phú Túc, ra khỏi Phú Túc người ta tranh dành nhau lên trước hỗn
loạn xẩy ra, bắn nhau dành đường đi, VC đưa các lực lượng đă tham
chiến tại Ban Mê Thuột để đuổi theo truy kích, tới 26-3 trong số
1,200 ciếc xe chỉ có 300 cái mở đường máu về được Tuy hoà. Phạm Huấn
gọi đây là một Hành Lang Máu.
Trong số 60 ngàn chủ lực quân chỉ có 20 ngàn tới được Tuy Hoà, 5
Liên đoàn BĐQ 7,000 người chỉ c̣n 900 người, 100 xe tăng chỉ c̣n 13
chiếc M113, toàn bộ vũ khí đạn dược trị giá 253 triệu phần lớn lọt
vào tay VC, theo Đại Tướng Cao Văn Viên ít nhất 75% lực lượng
chiếnđấu của Quân đoàn II bị tiêu diệt, đây là một cuộc hành quân
phá sản kéo theo sự sụp đổ của cả Quân Khu.
Ngày 13-3 ông Thiệu lệnh cho Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh Quân Khu
I đưa Sư đoàn Dù về Sài G̣n. Ngày 14-3 Tướng Trưởng về dinh Độc Lập
họp Hội Đồng an ninh QG về kế hoạch tái phối trí, hôm sau Tướng
Trưởng ra QKI họp nội bộ thi hành lệnh tái phối trí đưa sư đoàn Dù
về Sài G̣n, ngày 17-3 TQLC ra Đà Nẵng thay Dù khiến dân chúng sợ hăi
ùn ùn kéo nhau di tản trên Quốc lộ 1 về Đà nẵng.
Ngày 19-3 Tướng Trưởng về Sài G̣n tŕnh bầy kế hoạch lui binh. Kế
hoạch thứ nhất cho các đơn vị theo Quốc Lộ 1 từ Chu Lai về Đà Nẵng,
kế hoạch thứ hai các lực lượng tập trung tại Huế và Chu Lai sau đó
tầu Hải quân sẽ đưa về Đà Nẵng, trong cả hai kế hoạch Đà Nẵng vẫn là
điểm tựa cuối cùng. Từ ngày 19-3 CSBV bắt đầu tấn công mạnh từ Bắc
và Nam QKI theo thế gọng ḱm. Ngày 20-3 đài Huế cho phát thanh hiệu
triệu của Tổng thống tử thủ Huế. Chiều hôm ấy Tướng Thiệu đổi ư gửi
công điện cho Tướng Trưởng không bó buộc phải giữ Huế, chỉ giữ Đà
Nẵng. Ngày 24-3 Quảng Nam, Quảng Tín ở phía Nam QKI bị VC tấn công
mạnh phải rút về Chu lai, t́nh h́nh QK chỉ trong một ngày rối loạn
đến mức không thế kiểm soát được . Ngày 23-3 lệnh bỏ Huế được chính
thức ban hành v́ áp lực CS và binh sĩ ta ră ngũ, nhiều sĩ quan cao
cấp bỏ chạy trước nên các đơn vị VNCH như rắn mất đầu đă tan hàng .
Tại Nam QK1 sư đoàn 2 tại Chu lai được tầu đưa ra Cù Lao Ré nhưng
chỉ được một nửa quân số. Các đơn vị VNCH từ Huế di tản về cửa Thuận
An, Tư Hiền bị thiệt hại rất nặng, các đơn vị tập trung tại hai cửa
biển đă làm mồi cho pháo binh địch, dân quân trúng pháo kích chết
như rạ. Hỗn loạn diễn ra, tranh nhau lên tầu bắn giết nhau dă man,
t́nh trạng hỗn loạn được coi là quá tồi tệ so với QK2.
Ngày 27-3 Cuộc pḥng thủ Đà Nẵng trở nên vô hiệu v́ hỗn loạn, dân tị
nạn quá đông (hơn một triệu người), phố xá chật ních những người,
hỗn loạn diễn ra dữ dội tranh nhau lên tầu, lên máy bay bắn giết
nhau không c̣n quân kỷ y như xă hội thời thượng cổ. Ngày 28-3 xă ấp
quanh Đà Nẵng lọt vào tay CSBV, 4 sư đoàn BV bao vây tấn công Đà
Nẵng. Các sư đoàn 1 và 2, các đơn vị thiết giáp, pháo binh VNCH
thiệt hại nặng trên đường di tản khiến cho cuộc pḥng thủ Đà Nẵng
không c̣n lực lượng nào ngoài sư đoàn 3 . Ngày 29-3 Tướng Trưởng xin
lệnh bỏ Đà Nẵng, thành phố lớn thứ nh́ của VNCH coi như mất ngày
29-3. Trong ṿng 10 ngày Quân Đoàn I gồm 3 sư đoàn BB và sư đoàn
TQLC, Thiết Giáp, Pháo Binh, Công Binh… coi như tan ră, VC chiếm
được cả QK I mà không phải giao tranh dai dẳng.
Nguyên do chính của sự thất bại theo Nguyễn Đức Phương như sau: Ông
Thiệu cho rút sư đoàn Dù khiến dân chúng hoang mang lo sợ di tản náo
loạn cả lên, bỏ Cao Nguyên, QK2 rồi lại bỏ Huế làm cho tin đồn cắt
đất loan truyền khiến dân chúng ồ ạt di tản. Binh sĩ ră ngũ t́m thân
nhân, nhiều sĩ quan cao cấp bỏ chạy trước, cuộc lui binh hỗn độn
không có kế hoạch, không có đơn vị nào đánh tŕ hoăn, đánh chận hậu.
Ông Cao Văn Viên cho rằng thất bại do sự lúng túng của ta hơn là v́
áp lực địch, nhiều sĩ quan cao cấp hèn nhát bỏ chạy trước khiến cho
các đơn vị của ta ră ngũ dần dần, tinh thần chiến đấu của quân ta
không c̣n nữa. Vấn đề tị nạn của dân chúng đă làm đảo lộn mọi kế
hoạch của Quân đoàn. Chúng ta cũng để ư thêm một yếu tố nữa: đài BBC
tuyên truyền phá hoại đă đóng góp phần lớn vào sự thảm bại của cả 2
QK.
Qua kinh nghiệm các cuộc Tổng công kích trước đây như năm 1968, 1972
địch không đủ khả năng tấn công cả 4 Quân Khu cùng một lúc v́ mũi
dùi sẽ yếu dễ bị bẻ gẫy mà chúng chỉ tấn công vào 2 Quân Khu nhất là
Vùng 1 và 2. Năm 1975 CSBV tung vào chiến trường miền Trung 14 sư
đoàn (6 SĐ tại QK2 và 8 SĐ tại QK1), tính ra khoảng 70% chủ lực quân
của chúng, mũi dùi tấn công rất mạnh, ta chỉ có 7 sư đoàn (22, 23,
1, 2, 3, TQLC, Dù) và 11 Liên đoàn BĐQ trải quân giữ đất, đă thế ông
Thiệu lại cho rút sư đoàn Dù về Sài G̣n khiến cho t́nh h́nh càng bi
đát hơn. Trong khi ấy Vùng 4 đă có trên 200 ngàn Địa Phương Quân
(40% toàn bộ ĐPQ toàn quốc) lại để thêm 3 Sư đoàn BB giữ đất, tại
đây áp lực địch nhẹ chúng chỉ có 6 trung đoàn, không có nhiều xe
tăng đại bác có nhiệm vụ đánh cầm chân QĐVNCH, ta có thể rút bớt
quân để tăng cường cho chiến trường miền Trung, chắc ông Thiệu cũng
biết vậy nhưng ông không muốn đưa thêm quân tăng viện v́ trong thâm
tâm ông muốn bỏ miền Trung để giữ hai QK 3 và 4.
Cuối tháng 3-1975 QK I hoàn toàn lọt vào tay cộng quân, hai ngày sau
QK2 cũng mất gần hết lănh thổ chỉ c̣n Phan Rang và Phan Thiết. Ba sư
đoàn 1, 3, 23 BB bị tan ră hoàn toàn, sư đoàn 2, 22, TQLC, các sư
đoàn Không Quân, Lữ đoàn Dù, BĐQ.. bị thiệt hại từ 60 tới 70 % quân
số , toàn bộ vũ khí đạn dược xe tăng đại bác của miền Trung coi như
mất hết, theo Phạm Huấn:
“Tổng số phi cơ các loại bỏ lại khoảng 200 cùng với 900 đại bác và
hơn 1,000 chiến xa”
Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước, trang 98.
Điều nguy hại nhất là phần lớn số vũ khí đạn dược ấy lại lọt vào tay
CSBV, giáo vào tay giặc, miền Nam đưa dao cho người ta giết ḿnh.
Văn Tiến Dũng viết trong Đại Thắng Mùa Xuân.
“Hậu cần vẫn bảo đảm, không những chỉ mới dùng hết một phần số lượng
đạn dược đă dự tính trong kế hoạch mà lại c̣n lấy thêm được khá
nhiều của địch” (Trang 117).
“Ta thu và phá hơn 40% cơ sở vật chất và hậu cần quân ngụy…..(trang
136-137)
“…Vũ khí đạn dược tiêu hao không đáng kể. . . . . . . . Ta thu được
của địch một khối lượng rất lớn vũ khí và đạn dược” (trang 137)
Cũng có nhiều người cho rằng ông Thiệu tháu cáy giả vờ thua chạy để
lôi kéo Mỹ vào yểm trợ nên đă đưa tới sụp đổ nhanh chóng như vậy,
ông đă đem đất nước non sông gấm vóc ra đánh bạc th́ thật hết chỗ
nói.
Sau khi hai QK1 và QK2 sụp đổ, giới lănh đạo Sài G̣n chỉ c̣n mong
manh hy vọng vào sự cứu trợ của Mỹ. CSBV hối hả chuyển vận vũ khí
đại binh vào Nam để tấn công chiếm Sài G̣n trước mùa mưa th́ ta
không có một kế hoạch cụ thể nào để ngăn chận địch như phá cầu, oanh
kích các đoàn xe, phục kích đánh công voa… mà chỉ ngồi chờ giặc. Vả
lại cấp lănh đạo, ông to bà lớn của ta chỉ lo kế hoạch “tẩu vi
thượng sách” cho ḿnh hơn là lo cho đất nước, cha chung không ai
khóc. Tại Xuân Lộc, từ 9-4 cho tới 20-4- 1975 Sư đoàn 18 dưới sự chỉ
huy của Tướng Lê Minh Đảo đă anh dũng đẩy lui các cuộc tấn công vũ
băo của VC trong hơn một tuần lễ nhưng cũng không cứu văn nổi t́nh
thế.
CS dốc toàn bộ lực lượng vào canh bạc cuối cùng, chúng đưa vào trận
địa 20 sư đoàn BB, khoảng 280 ngàn người, cùng với 400 xe tăng, 400
đại bác, QĐVNCH gồm 6 sư đoàn chủ lực và Địa Phương Quân, Thiết
Giáp.. tổng cộng 240 ngàn người nhưng lính nhà nghề chỉ có khoảng 60
ngàn. Nhân lực đă chênh lệch, ta lại lâm vào t́nh trạng hết đạn
trong khi VC đầy đủ đạn dược. Năm tuyến pḥng thủ của ta quanh
SàiG̣n gồm: Tuyến Củ Chi ở Tây Bắc, Tuyến B́nh Dương phía Bắc, tuyến
Biên Hoà phía Đông Bắc, tuyến Vũng Tầu phía Đông, Tuyến Long An phía
Nam.
Ngày 21-4 Ông Thiệu từ chức bàn giao cho ông Hương, ngày 24-3 hai
ông Thiệu và Khiêm bỏ nước ra đi, tinh thần quân ta suy sụp. Ngày
26-4 Cộng quân bắt đầu mở chiến dịch tấn công Sài g̣n, ngày 28-4 Đại
tướng Dương Văn Minh lên thay thế ông Trần văn Hương, các pḥng
tuyến của ta sụp đổ dần dần trước các đợt tấn công pháo kích của
địch. Ngày 30-4-1975 Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng kết thúc cuộc
chiến tranh dài nhất thế kỷ.
Nhiều người kết án ông Thiệu cho lệnh rút bỏ Quân Khu II và I đă đưa
tới sự sụp đổ toàn bộ VNCH. Ông Thiệu là nguyên nhân gần gây nên sự
sụp đổ, nhưng nếu kết án ông ta là nguyên nhân duy nhất th́ không
đúng lắm, ở đây không phải để bênh vực cho ông Thiệu nhưng chúng ta
không thể nói sai lịch sử. Giả thử ông Thiệu tăng cường lực lượng
cho hai quân, đẩy lui được cuộc tổng tấn công của địch năm 1975,
nhưng sau đó ta vẫn lâm vào t́nh trạng hết đạn, sẽ phải xin viện trợ
khẩn cấp của Hoa Kỳ trong khi đảng Dân Chủ nắm đa số tại Quốc Hội.
Họ chủ trương cắt hoàn toàn quân viện bỏ rơi miền Nam th́ cũng chỉ
có khoảng 30% hy vọng được tiếp viện trở lại.
V́ thế ngoài nguyên nhân quân sự nêu trên c̣n những nguyên nhân khác
đóng góp vào sự sụp đổ miền Nam. Một nguyên nhân gần nữa vô cùng
quan trọng ở đây là vấn đề cắt quân viện.
- Cắt quân viện
Theo Nguyễn Đức Phương vấn đề cắt quân viện đă manh nha từ đầu thập
niên 1970.
“Hành quân Kampuchia năm 1970 đă tạo ra phản ứng chống đối dữ dội
của Quốc Hội Mỹ v́ họ cảm thấy bị ngành hành pháp che dấu sự thật.
Tháng 6.1970, Thượng viện đă biểu quyết với đa số chấm dứt nghị
quyết Vịnh Bắc Việt trao toàn quyền hành động cho Tổng Thống Mỹ từ
năm 1964. Hai Thượng Nghị Sĩ John S. Cooper (đảng Cộng Hoà, tiểu
bang Kentucky) và Frank F. Church (đảng Dân Chủ, tiểu bang Idaho)
một thành viên của Ủy ban Ngoại Giao Thượng Viện đă đề nghị một tu
chính án cắt tất cả phí tổn về quân sự của Mỹ tại Miên kể từ ngày
1.7.1970. Sau 7 tuần lễ tranh căi, Thượng Viện Mỹ biểu quyết vào
cuối tháng 6.1970 với 58 phiếu thuận và 37 phiếu chống. Tuy nhiên Hạ
Viện đă bác bỏ tu chính án này. Tu chính án do đó được sửa đổi lại
và được biểu quyết chấp thuận vào tháng 12. Theo đó Mỹ không được
đưa quân tác chiến vào Lào và Thái Lan.
Lần đầu tiên Tổng Thống Mỹ với tư cách Tổng Tư Lệnh Quân đội bị giới
hạn quyền hành trong t́nh trạng chiến tranh. Một tu chính án khác do
hai Thượng Nghị Sĩ George Mc Govern (đảng Dân Chủ, tiểu bang South
Dakota) và Mark O.Hatfield (đảng Cộng hoà, tiểu bang Oregon) đă đề
nghị rút tất cả quân đội Mỹ và cắt tất cả quân viện cho VNCH vào
cuối năm 1971. Tuy nhiên Thượng Viện Mỹ đă bác bỏ hai lần (1970 và
1971) tu chính án này. Năm 1973, Quốc Hội Mỹ biểu quyết chấp thuận
tu chính án do Frank Church và Thượng Nghị Sĩ Clifford (đảng Cộng
Hoà) chấm dứt tất cả quân viện cho các nước Đông Dương.” Chiến Tranh
Việt NamToàn Tập trang 510 Tháng 6-1973 Quốc Hội Mỹ biểu quyết cắt
ngân khoản cho tất cả các hoạt động quân sự tại Đông Dương, ngày 1-7
Nixon miễn cưỡng kư thành luật áp dụng kể từ 15-8. Đến tháng 10-73
Quốc Hội lại thông qua dự luật Quyền Hạn Chiến Tranh (War powers
Act) buộc Tổng Thống phải tham khảo ư kiến Quốc Hội trước khi gửi
quân đi tham chiến. Ư định phản bội của người bạn đồng minh đă bắt
đầu lộ diện.
Khi người Mỹ mới đổ quân ồ ạt vào Việt Nam năm 1965 ngân sách năm ấy
mới có 646 triệu đô la, năm sau 1966 tăng vọt lên gần 6 tỷ, đến 1967
tăng lên 20 tỷ, năm 1968 tăng lên 26 tỷ năm 1969 lên 29 tỷ, hai năm
1970, 1971 xuống c̣n 12 tỷ v́ Mỹ đang rút quân. Năm 1972 họ rút gần
hết chỉ c̣n 24,200 người khi ấy miền Nam phải một ḿnh gánh vác
chiến trường với tiền viện trợ ngày một bị cắt giảm. Năm 1973 Quân
viện là 2 tỷ 1, sang năm 1974 chỉ c̣n 1 tỷ 4, năm 1975 tụt xuống c̣n
700 triệu trong đó 300 triệu để trả lương cho nhân viên cơ quân tuỳ
viên quân sự DAO của Mỹ. VNCH chỉ nhận được một nửa số quân viện cần
thiết.
Năm 1975 đảng Dân Chủ nắm đa số tại Quốc Hội Mỹ, họ chủ trương bỏ
Đông Dương không cần biết hậu quả cũng như danh dự cho nước Mỹ. Về
thế lực cũng như tài chính Dân chủ thua kém Cộng Hoà nên chỉ thừa cơ
nước đục thả câu, lợi dụng sơ hở của Cộng Ḥa để thọc gậy bánh xe.
Họ thường o bế giới b́nh dân, da đen, Mễ miếc, cu li cu leo khố rách
áo ôm, đám trốn lính, chống chiến tranh … để lấy ḷng kiếm phiếu. Họ
chớp đúng thời cơ khi phong trào phản chiến lên cao được dân chúng
ủng hộ để nắm đa số tại Quốc Hội và thẳng tay bỏ rơi đồng minh không
thương tiếc, cái mà ông Nguyễn Tiến Hưng gọi là “nhát gươm đao phủ”.
“Ngay sau đó, 13 tháng Ba, nhát gươm đao phủ đă hạ xuống: ban lănh
đạo Đảng Dân Chủ, cả Hạ Viện lẫn Thượng Viện (họ lại là thành phần
quyết định trong Quốc Hội) bỏ phiếu với đại đa số : chống bất cứ
viện trợ nào thêm cho Miền nam” Khi Đồng Minh Tháo Chạy trang 245.
Theo Đại Tướng Cao Văn Viên hậu quả của cắt giảm quân viện là không
quân phải cho hớn 200 máy bay ngưng bay.. giảm giờ bay, huấn luyện
50%, số giờ bay thám thính 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%.. Hải
quân cũng bị cắt giảm hoạt động 50%, 600 tầu xuồng các loại nằm ụ,
các chiến cụ, quân dụng hư hỏng không được thay thế, chỉ có khoảng
33% được thay mà thôi. Tổng số đạn trong kho chỉ đủ dùng cho đến
tháng 6-1975, thuốc men thiếu thốn, số tử vong lên cao khiến tinh
thần binh sĩ xuống thấp.
Người Mỹ kư hiệp định Ba Lê để rút quân ra khỏi VN và lấy tù binh về
không đếm xỉa ǵ tới sự tồn vong của miền Nam nước Việt. Sir R
Thompson, chuyên viên về du kích chiến cho rằng miền Nam bị đe doạ
chỉ v́ để cứu nước Mỹ khỏi cảnh xâu xé nhau, miền Bắc bị buộc phải
ngồi vào bàn hội nghị để cứu nước Mỹ. Ông M.Gauvin nguyên chủ tịch
Ủy Hội Kiểm Soát Quốc tế tuyên bố ngày 4-4-1975 cho rằng miền Nam VN
thất bại do quyết tâm bỏ rơi đồng minh của Mỹ nhiều hơn là do hết
đạn.
“C̣n về khả năng tồn tại, ông cho là ‘vẫn c̣n tùy thuộc vào số quân
viện Hoa Kỳ cung cấp cho VNCH’. ĐT Viên kết luận “Một sự thật không
thể chối căi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng
6-1975 nếu không nhận được quân viện phụ trội. Và một quân đội sẽ
không thể nào chiến đấu nếu không có những trang bị cần thiết để
chiến đấu” Nguyễn Tiến Hưng, Khi Đồng Minh Tháo Chạy trang 457.
Khi lập luận như trên người ta sẽ đạt thêm câu hỏi tại sao họ lại bỏ
rơi VNCH? ông Nguyễn Tiến Hưng cho biết
“Tại sao Mỹ lại dứt khoát bỏ rơi Miền nam? Câu trả lời ngắn gọn là
v́ quyền lợi của Mỹ ở Việt nam đă không c̣n nữa” KĐMTC trang 455.
Ngoài những nguyên nhân gần nêu trên, lại những động cơ khác đă gây
lên hoặc ảnh hưởng trực tiếp mà ta gọi là nguyên nhân xa, người Pháp
gọi là cause lointaine.
Thuyết Domino không c̣n giá trị
Khoảng tháng 3 năm ngoái, cựu Bộ Trưởng Quốc Pḥng Laird dưới thời
Tổng Thống Nixon cho biết Tổng Thống Ford năm 1975 đă bác bỏ thuyết
Domino có từ 7-4-1954 dưới thời Tổng Thống Eisenhower, thuyết này
cho rằng hễ mất một nước th́ mất luôn nhiều quốc gia khác y như
trong ván cờ Domino.
Các cấp lănh đạo Hoa Kỳ đă sống qua thập niên 30 với những biến
chuyển lịch sử trên thế giới và nhận thấy có những tương đồng với
t́nh h́nh Đông Nam Á đương thời: Năm 1931 Nhật chiếm Măn Châu đưa
tới lấn chiếm Trung Hoa, Đông Dương, Mă lai..rồi dẫn tới trận Trân
Châu Cảng. Đức chiếm Áo, Tiệp rồi Pháp, Bỉ và đưa tới chiến tranh Âu
Châu. Nếu xâm lược không bị trừng trị nó sẽ lan rộng hơn lên theo
kiểu tầm ăn dâu y như một căn bệnh do vi trùng đục khoét. Những biến
chuyển lịch sử trên đây đă h́nh thành học thuyết Domino.
Tổng Thống Eisenhower là người đầu tiên đề xướng học thuyết Domino
trong cuộc họp báo ngày 7-4-1954, trả lời phóng viên báo chí ông cho
biết nếu mất Đông Dương th́ dần dần sẽ mất Miến Điện, Thái lan, Mă
Lai, Nam Dương…và rồi từ từ Đài Loan , Nhật, Phi Luật Tân, Úc , Tân
Tây Lan cũng mất theo. Thuyết Dommino đă khiến Mỹ quyết tâm ngăn
chận chính sách tầm ăn dâu, sau chiến tranh Triều Tiên, Mỹ thấy
không thể hoà hoăn với Cộng Sản được.
Việt Nam được coi như một thí điểm để ngăn chận làn sóng đỏ, người
Mỹ cho rằng nếu làm ngơ cho CS xâm lấn các nước lân bang th́ dần dần
năm châu bốn biển sẽ bị nhuộm đỏ, Hoa Kỳ tới lúc đó sẽ bị bao bọc
bởi biển đỏ và họ sẽ phải xây một Vạn lư trường thành thứ hai để
chống ngoại xâm. Người Mỹ chỉ đổ quân đổ của vào một cuộc chiến nào
khi cảm thấy nền an ninh của đất nước họ bị đe dọa.
Ngay khi Trung Cộng chuyển vũ khí ồ ạt gíup Việt Minh, tháng 10-1950
Mỹ đă đă vội viện trợ quân sự cho Pháp 300 triệu đô la, hàng không
mẫu hạm Mỹ chở tới Sài G̣n 40 máy bay Hellcat cho Pháp. Chính phủ và
Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập, mới đầu quân viện Mỹ cho
Pháp mới chỉ là 17% nhưng vài năm sau, chiến tranh bùng nổ dữ dội,
quân viện tăng lên tới 74% .
Năm 1955 Mỹ hất cẳng Pháp ra khỏi Việt Nam để biến nơi đây thành
tiền đồn chống Cộng tại Á Châu. Những năm 1963, 1964 CS tăng cường
chiến tranh du kích ḥng xâm lược miền Nam bằng bạo lực. Mỹ vội ồ ạt
đổ quân vào miền Nam từ giữa năm 1965, tới cuối năm tổng số quân Mỹ
tăng lên 184 ngàn người, năm sau 1966 tăng vọt lên 385 ngàn, năm
1967 lên 485 ngàn, năm 1968 lên 536 ngàn, đó là đỉnh cao của cuộc đổ
quân. Tướng Wesmoreland cho rằng nếu Mỹ không đưa quân vào VN năm
1965 th́ chỉ trong ṿng 6 tháng là mất v́ áp lực CS rất nặng. Sau
Cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968, chính phủ Johnson bị dân
chúng chỉ trích dữ dội v́ sau mấy năm truy lùng và diệt địch mà vẫn
không b́nh định được miền Nam. Giới lănh đạo Mỹ bắt đầu chán ghét
cuộc chiến tranh VN v́ phong trào phản chiến từ 1965 đến nay ngày
càng dữ dội, và nhất là họ thấy rằng hiểm hoạ CS đe doạ Đông Nam Á
không c̣n nặng nề như trước.
BV trở thành quân tốt lợi hại cho CS Quốc tế, BV cũng bị CS Quốc
tếthúc dục đánh tới cùng để làm suy yếu tiềm lực kinh tế, chính trị
Đế Quốc, tuy nhiên hiểm họa CS tại Á Châu không c̣n trầm trọng như
trước nữa v́ nay Nga Tầu chống đối nhau ra mặt như kẻ thù. Đụng phải
sức chống trả dữ dội của Thế giới Tự Do, CS Quốc tế cũng chùn bước
vả lại việc cung cấp vũ khí cho đàn em BV họ cũng tốn kém rất nhiều,
có tài liệu cho biết Trung Cộng viện trợ cho BV từ 1950 tới 1975 tốn
kém 20 tỉ đô la (Việt Nguyên, Tổng Thống Nixon sang Tầu..). Thuyết
Domino dần dần không c̣n ư nghĩa như từ 1955 cho tới những năm Mỹ
mới đổ quân vào VN.
Năm 1969 Nixon nhậm chức Tổng Thống hứa hẹn với dân Mỹ sẽ rút quân
về nước. Họ thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh từ 1969, 1970.. Quân
đội Mỹ sẽ bàn giao trách nhiệm pḥng thủ và bảo vệ miền Nam cho
QĐVNCH. Thực hiện VN hoá chiến tranh là họ đă nghĩ đến việc bỏ VN
cũng như Đông Dương v́ thuyết Domino không c̣n đứng vững, mất VN
cũng sẽ không ảnh hưởng ǵ tới các nước Đông Nam Á. Quyết định bỏ
Đông Dương coi như đă bắt đầu thành h́nh, vấn đề c̣n lại là rút lui
trong danh dự để khỏi bẽ mặt một siêu cường. Từ năm 1969 họ đă đi
đêm với Trung Cộng để t́m cách rút quân ra khỏi VN, bỏ Đông Dương v́
nó không c̣n đúng với ư nghĩa tiền đồn chống Cộng nữa.
Song song với VN hoá chiến tranh, họ t́m cách hoà hoăn với Trung
Cộng, anh khổng lồ nghèo kiết xác này cũng tốn kém rất nhiều với
cuộc chiến tranh VN và cũng muốn hoà với Mỹ. Ngày 21-2-1972, cái bắt
tay lịch sử giữa Nixon và Mao Trạch Đông tại Bắc Kinh đă thay đổi cả
một kỷ nguyên. Điều mà người Mỹ ao ước bấy lâu nay đă thành sự thật,
Đông Nam Á không c̣n bị đe doạ bởi chiến lược tầm ăn dâu của Trung
cộng, thuyết Dommino đến lúc lỗi thời, không c̣n giá trị, bỏ Đông
Dương coi như điều tất yếu.
Trận Mùa Hè đỏ lửa năm 1972 BV đánh cấp sư đoàn với nhiều xe tăng
đại bác rầm rộ. Mỹ muốn ta phải thắng, họ đă yểm trợ oanh tạc B52
tối đa và Hải pháo của hơn 20 tầu chiến để tạo thế mạnh trên bàn hội
nghị tại cuộc Hoà đàm Ba Lê. Hiệp định Paris kư kết ngày28-1-1973
chỉ là mớ giấy lộn để Mỹ rút quân và lấy về 587 tù binh mặc dù họ
thừa biết VNCH sẽ lănh đủ.
Nguyễn Đức Phương trích dẫn lời Tướng Đính trong hồi kư của ông .
“Cựu Trung Tướng Tôn Thất Đính đă ghi lại nhận xét của ông Ngô Đ́nh
Nhu từ đầu thập niên 60 về chiến lược toàn cầu của Mỹ như sau: ‘Nếu
tụi nó (Mỹ) nhảy vô để chiến thắng Cộng Sản như ở Triều Tiên, bất kể
một cuộc can thiệp của Tầu hay… đệ tam thế chiến, th́ ḿnh cũng để
cho tụi nó thử sức với Cộng sản xem sao, chứ ở đây mục đích của tụi
nó là t́m một thế ‘sống chung nào đó’ với Cộng Sản, th́ đánh để làm
chi, rốt cuộc cũng chỉ như rứa? Con đường của Hoa Thịnh Đốn muốn đi
tới là Bắc Kinh, ḿnh chỉ là vật tế thần ‘cục kê’ của tụi nó’. Để
rồi tướng Đính kết luận: ‘Nhận định đó đến thập niên 1970 đă trở
thành sự thật và khi Nixon bắt tay được với Mao Trạch Đông, th́ tiền
đồn chống Cộng của VNCH đă hết ư nghĩa, và do đó Hoa Thịnh Đốn phải
thu xếp để chấm dứt một cuộc chiến tranh không c̣n cần thiết mặc cho
nền hoà b́nh này đă làm sỉ nhục tính cách siêu cường của Mỹ và đẩy
miền Nam vào địa ngục của Cộng Sản Hà Nội” Chiến Tranh Việt Nam Toàn
Tập, trang 635.
Nguyễn Đức Phương kết luận.
“Như vậy cả hai miền Nam, bắc Việt Nam đều không nh́n thấy được
chính sách ngoại giao của Mỹ từ đầu thập niên 70 để tiếp tục cuộc
chém giết. Mùa Hè năm 1972 không cần thiết phải là một mùa Hè rực
lửa. Những trận đánh đẫm máu tại Cửa Việt, tại Sa Huỳnh đă hầu như
vô nghĩa. Hiệp định Ba Lê chỉ là một biên lai để khách hành nhận lại
tù binh và đoạn chiến. Số phận của VNCH đă được định đoạt từ lâu và
cũng không phải tại chiến trường.” CTVNTT trang 635, 636.
Ông Nguyễn Tiến Hưng cũng nói.
“ Kể từ ngày TT Nixon bắt tay được với Trung Quốc th́ giá trị của
Miền Nam để ‘ngăn chặn làn sóng đỏ’ đă không c̣n là bao nhiêu trong
những tính toán của Mỹ về hơn thiệt (cost-benefits). Dần dần, Miền
Nam đă hết vai tṛ một tiền đồn của thế giới Tự Do. Và như vậy, vấn
đề c̣n lại đối với Mỹ th́ chỉ là làm sao rút ra được cho êm thắm, ít
bị tổn hại về uy tín là được rồi” Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang
456, 457.
Phong trào Phản Chiến ngày một lên cao cũng đă đóng vai tṛ then
chốt đưa tới sụp đổ miền Nam ngoài thuyết Domino. Mặc dù là nguyên
nhân xa, nhưng Phong trào có tính cách quyết định v́ nó là động cơ
thúc đẩy Quốc Hội bỏ phiếu cắt viện trợ quốc pḥng cho miền Nam đưa
tới sụp đổ trong chớp mắt
Phản Chiến.
Phong trào phát sinh từ năm 1965 ngay sau khi Tổng thống Johnson đổ
quân vào Việt Nam giao chiến với Việt Cộng, hồi ấy khoảng 5,000 nhà
khoa học phản đối chiến tranh hoá học khai quang. Ngày15-5-1966
khoảng 12 ngàn người biểu t́nh chống chính sách của Tổng Thống
Johson tại Việt nam. Ngày 23-10-1967 có khoảng 30 ngàn người biểu
t́nh trước Ngũ Giác Đài, họ trương biểu ngữ nói “Nhân danh nhân loại
chúng tôi muốn nói chuyện với bọn người gây chiến”. Ngày 12-4-1969
tại Nữu Ước và 32 thành phố lớn biểu t́nh chống chiến tranh Việt
Nam, thời điểm này có 31 ngàn người lính Mỹ chết ở Việt Nam.
Giữa tháng 10-1969 khoảng 1,000 người biểu t́nh phản chiến tại
Chicago, 5,000 người phản chiến tại New Jeersey bị giải tán bằng lựu
đạn cay. Ngày 11-11-1969 phe ủng hộ chính phủ Nixon, cựu chiến binh
Mỹ.. tổng cộng 10 ngàn người biểu t́nh tại Hoa Thịnh Đốn.
Ngày 15-11-1969 có tới 300 ngàn người chống chiến tranh tại Hoa
Thịnh Đốn và các thành phố khác, Ba Lê có khoảng 20 ngàn người phản
chiến. Ngày 4-5-1970 trong một cuộc biểu t́nh tại đại học Kent, Ohio
4 sinh viên phản chiến bị quân đội bắn chết, nhiều người khác bị
thương khiến phong trào càng lên cao dữ dội
Người Mỹ nói, đất nước dân tộc đă bị phân hoá, a people divided.
Thật vậy toàn bộ nước Mỹ bị phân hoá v́ chiến tranh VN. Nhiều người
cho rằng phản chiến do những cuộc biểu t́nh của sinh viên nhưng có
lẽ quan trọng hơn là hai nguồn chống đối khác đó là những người
nghèo và dân tộc thiểu số. Họ không được hoăn dịch v́ lư do học vấn,
dân da đen bị gọi nhập ngũ v́ chính phủ cần nhân lực cho cuộc chiến
tranh của Tổng thống Johnson khiến họ nghi ngờ chính phủ. Suốt thời
kỳ chiến tranh VN, có 11 triệu người Mỹ đă phục vụ (luân phiên) cho
ngành Quốc pḥng, 2 triệu người đă (luân phiên) ở VN, 600 ngàn đă
trốn quân dịch, trong số này 200 ngàn bị buộc tội trốn quân dịch,
300 ngàn t́m cách xin hoăn dịch bị từ chối, 70 ngàn được hoăn dịch,
khoảng từ 30 cho tới 50 ngàn người trốn sang Canada và 20 ngàn người
trốn tại Mỹ hay ra ngoại quốc.
Phong trào chống lệnh trưng binh lên cao.
Mục sư Martin Luther King lần đầu tiên tuyên bố chống chiến tranh
tháng 7-1965, ông ta tránh đề cập tới chiến tranh một thời gian
nhưng cuối 1966 ông nản ḷng khi thấy chiến tranh leo thang và phản
chiến lan rộng tại Mỹ. Trong khi ấy hai phe phản chiến và ủng hộ
chính phủ đánh nhau v́ bất đồng chính kiến. Tháng 3-1967 Luther King
dẫn đầu phong trào antiwar tại Chicago. Ngày 4-4-1967 tại nhà thờ
Riverside Church New York ông đă lớn tiếng chống đối chính sách
chiến tranh của chính phủ, King vừa đ̣i nhân quyền vừa chống chiến
tranh, ông bị ám sát năm 1968.
Ngay trong quân đội cũng có những người chống chiến tranh, năm 1967
có 6 cựu quân nhân thành lập một tổ chức lấy tên Cựu Chiến Binh Việt
Nam Chống Chiến Tranh (Vietnam Veterans against The War gọi tắt là
VVAW). Họ lư luận rằng những người đă bị gọi nhập ngũ đưa sang Việt
Nam tham chiến có quyền phản đối chiến tranh, năm 1970 VVAW có 600
hội viên, mấy năm sau tăng gấp bội. Tháng 1-1971, họ tổ chức thuyết
tŕnh tại Detroit, 100 người cựu chiến binh dẫn chứng tội ác chiến
tranh, từ 19-4 tới 23-4 -1971 họ biểu t́nh tại Washington D.C rồi
cắm dùi tại công viên Potomac Park. Họ diễn hành cùng những bà mẹ có
con là lính chết trận ở Việt Nam đến nghĩa trang Arlington National
Cemetery. Những người này đă vận động Quốc Hội để sớm chấm dứt chiến
tranh. T́nh trạng đă đi đến chỗ thật bi đát khi những người này t́m
cách trả lại huy chương cho Quốc Hội.
Chính phủ ban hành lệnh cấm cuộc cắm trại, lập hàng rào gỗ quanh
điện Capitol, những người cựu chiến binh đă ném trả huy chương,
trong số này có John Kerry, ứng cử viên Tổng Thống năm 2004. Họ tố
cáo lính Mỹ khi hành quân vào các làmg mạc ở Việt Nam đă hăm hiếp,
đốt làng, cắt tai, chặt đầu người dân .. y như quân Mông cổ dưới
thời Thành Cát Tư Hăn. Họ nói đất nước ta đă tạo dựng con quái vật
hung dữ, đó là đạo quân một triệu người, và những người lính chiến
đă được chỉ dậy dùng bạo lực và chết chẳng có mục đích nào cả ( …
and who are given the chance to die for the biggest nothing in
history), chúng tôi cựu chiến binh trở về trong uất hận v́ bị chính
phủ Hoa Kỳ lạm dụng.
Năm 1970, Phó Tổng Thống Agnew tuyên bố tại trường Wespoint rằng chỉ
có một thiểu số phóng đại những mặt xấu của bọn lưu manh côn đồ
nhưng thực ra đa số chiến sĩ ta đă chiến đấu, chết tại những cánh
đồng lúa Á Châu để bảo vệ tự do trong khi một thiểu số lợi dụng làm
bay. Bọn phản chiến đă dùng điểm này để công kích nỗ lực của ta ở
Việt Nam.
Những cựu chiến binh này nói người dân Mỹ đă bị chính phủ đánh lừa,
ta không thể thắng được cuộc chiến này nếu cứ tiếp tục như vậy và
phải rút bỏ Việt Nam, họ nói t́nh h́nh Việt Nam không có ǵ để đe
dọa Hoa Kỳ, thuyết môi hở răng lạnh là sai (.. in our opinion and
from our experience, there is nothing in South Vietnam which could
happen that realistally threatens the United States Of America).
Chúng tôi đ̣i hỏi ở Quốc Hội Hoa Kỳ nơi có thẩm quyền tạo dựng và
duy tŕ quân đội, chúng tôi đến đây không phải để gặp Tổng Thống mà
tin rằng Quốc Hội có thể thoả măn ư nguyện người dân để đưa chúng ra
rút khỏi VN (that we should be out of Vietnam now..)
T́nh h́nh phản chiến ở Hoa Kỳ từ 1965 đến 1971 khiến cho chính phủ
ngày một suy yếu, đất nước bị phân hoá, chính phủ vừa phải lo cuộc
chiến tranh miền Nam vừa phải đối đầu với phong trào phản chiến.
Chúng ta có thể kết luận một cách giản dị phong trào phản chiến xuất
phát từ tâm lư của anh nhà giầu sợ chết, dù được che đậy dưới h́nh
thức nào cũng không thể dấu diếm được cái bản chất hèn nhát của anh
nhà giầu. Đầu năm 1969 có vào khoảng 31 ngàn lính Mỹ tử thương tại
Việt Nam, theo tin tức Mỹ riêng năm 1968 Cộng quân mất gần 290 ngàn
cán binh, cho tới cuối 1968 có vào khoảng từ 500 cho tới 600 ngàn
Việt Cộng tử thương. Tính ra số tổn thất nhân mạng của Mỹ chỉ bằng
5% hoặc 10% so với số tử của VC nhưng địch không bao giờ có một lời
than văn, như thế ta thấy người Mỹ đă sai lầm khi tham gia cuộc
chiến tranh với một kẻ thù nghèo đói, thằng nghèo đói không bao giờ
sợ chết. Người Mỹ đă tham dự một cuộc chiến tranh không cân xứng
giữa một anh nhà giầu sợ chết và một thằng nghèo đói đánh thí mạng
cùi.
Người Mỹ thích làm anh hùng, họ rất thích những đề tài anh hùng hào
hiệp, cuốn phim nổi tiếng của Nhật, Bẩy Người Hiệp Sĩ (Seven
Samourais) quay năm 1954 đă được giới làm phim Mỹ vô cùng hâm mộ, họ
bắt chước quay thành phim cao bồi miền Tây tới 4 lần vào những năm
1960, 1966, 1969, 1998. Nội dung phim ca ngợi tinh thần của bẩy
người hiệp sĩ anh hùng giúp dân làng chống lại bọn cướp Người Mỹ rất
thích những đề tài anh hùng hào kiệt, diệt gian trừ bạo như vậy, họ
thích làm “yêng hùng” nhưng thật là khôi hài thay, “yêng hùng sợ
chết”! Người Mỹ thích làm trùm thế giới nhưng lại sợ chết, thật là
diễu hết chỗ nói!
Phản chiến đă tạo niềm tin cho CSBV, chúng chỉ chờ có thế. Vào những
năm 1952, 1953 người dân Pháp lúc ấy quá chán ghét, ghê sợ cuộc
chiến tranh Đông Dương vừa chết người tốn của, trong suốt cuộc chiến
tranh 1947-1954 đă có 19 chính phủ Pháp bị đánh đổ v́ không giải
quyết được cuộc chiến. CS chỉ trông chờ vào phong trào phản chiến để
đối phương phải chán ghét rồi bỏ cuộc, chiến lược “cố đấm ăn xôi”
của VC đă từng thành công từ cuộc chiến tranh Việt Pháp nay chúng
lại đem áp dụng vào cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Phong trào phản chiến đă là cơ hội bằng vàng cho đảng Dân Chủ hốt
phiếu và rồi nắm đa số tại Quốc Hội. Chính họ đă hạ “Nhát gươm đao
phủ” thanh toán miền Nam VN. Người Mỹ cũng đổ lỗi cho phía VN, nhiều
người cũng cho nguyên nhân cả từ hai phía.
- Phía Việt Nam.
Các nhà chính trị, tướng lănh, kư giả, các nhà nghiên cứu… như cựu
đại sứ Bùi Diễm, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tướng Hoàng Lạc, Phạm Huấn,
Nguyễn Đức Phương … đều cho rằng ta thiếu nhà lănh đạo có khả năng
để lèo lái con thuyền quốc gia, thậm chí có người nói đất nước đă
được giao phó cho lănh đạo tồi.
Thật vậy những năm đầu của chế độ Nguyễn Văn Thiệu, 1967, 1968,
guồng máy tương đối c̣n có kỷ cương nhưng dần dần đi tới chỗ tham
nhũng thối nát tồi tệ, nó đă phá hoại kinh tế vật chất và làm suy
sụp tinh thần quân dân. Tham nhũng hối lộ có từ thời Tây nhưng dưới
chế độ Nguyễn Văn Thiệu có thể nói đă tiến tới chỗ tột cùng của thối
nát. Các chế độ, chính phủ Quốc Gia từ thời Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn
Tâm, Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Cao Kỳ… cũng ít nhiều có tham nhũng nhưng
người dân c̣n chấp nhận được, đến Nguyễn Văn Thiệu th́ thật hết nước
nói. Sau khi miền Trung thất thủ lọt vào tay Cộng quân, chúng tôi có
nghe một ông công chức than thở “chế độ Thiệu đi theo vết xe đổ của
Tưởng Giới thạch, các ông tỉnh trưởng chết gục trên đống vàng”!
Trong cuốn sách Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 trang 56, Phạm Huấn
có nói.
“Theo dư luận, cái giá để mua chức Tỉnh trưởng qua đường giây bà
Thiệu, bà Khiêm, thường thường từ 10 đến 20 triệu”
Tệ nạn mua quan bán tước ngày càng lộ liễu, những chức vụ, công việc
hái ra tiền đều được mua bán trả giá cả ṣng phẳng, ngoài ra quan
chức phải nộp tiền hụi chết cho cấp trên theo hệ thống quân giai,
Quận nộp cho Tỉnh, Tỉnh nộp cho Vùng, Vùng nộp cho Trung Ương.
Nguyễn Đức Phương nói các h́nh thức tham nhũng tại miền Nam đă được
nhóm nghiên cứu thuộc tổ hợp Rand xếp thành bốn loại chính: buôn
lậu, hối lộ, mua quan bán tước và lính kiểng, lính ma.. Trong phim
Vietnam History by television, ông giám đốc CIA khi trả lời phỏng
vấn cho biết tham nhũng (corruption) đă phát triển quá độ tại miền
Nam VN, chỗ nào cũng có, chính phủ Mỹ biết rơ như vậy và họ đă phải
che dấu không cho báo chí biết sợ người ta làm um lên, nếu đến tai
Quốc hội viện trợ sẽ bị cắt giảm.
Tại các tỉnh, viện trợ kinh tế, xă hội, b́nh định phát triển.. bị
đục khoét trầm trọng, tiền viện trợ của Mỹ không được dùng vào mục
tiêu kinh tế quân sự mà vào túi bọn quan lại tham ô. Tham nhũng bắt
nguồn từ ḷng tham vô đáy của con người hơn là v́ thiếu thốn. Các
quan chức có được căn nhà, cái xe hơi th́ cũng được rồi, so với đời
sống nhân dân như thế cũng là được quá ưu đăi. Nhưng kẻ tham ô không
dừng chân ở đó, được voi tṛi tiên, họ tậu rừng tậu ruộng, tậu đồn
điền, mua dăm bẩy căn nhà nghỉ mát, cái ở Nha Trang, cái Đà Lạt,
Vũng Tầu, chuyển ngân ra ngoại quốc… Tham nhũng như đă nói ở trên
vừa phá hoại kinh tế quốc gia, vừa làm suy yếu tinh thần người dân
cũng như người lính chiến. Sau đây là tham nhũng dười con mắt người
ngoại quốc.
Hậu quả của t́nh trạng tham nhũng này đă được một sĩ quan nhận xét.
‘ Tham nhũng luôn luôn tạo ra sự bất công trong xă hội. Tại Việt
Nam, một nước đang trong thời chiến th́ sự bất công trong xă hội lại
càng rơ ràng hơn so với các nước khác. Tham nhũng đă tạo ra một
thiểu số nắm giữ tất cả các quyền lực và tài nguyên, phần lớn giai
cấp trung lưu và nông dân trở thành nghèo hơn và phải chịu hy
sinh.Họ mới chính là người đóng thuế cho chính phủ, hối lộ cho cảnh
sát, phải mua phân bón với giá cắt cổ để rồi phải bán gạo với giá rẻ
do chính phủ ấn định, và cũng chính họ đă cho con cái đi chiến đấu
và hy sinh cho đất nước trong khi các công chức cao cấp của chính
phủ và những kẻ giầu có lại gửi con cái ra nước ngoài.Một bác sĩ
quân y đă nói với tôi rằng ông đau ḷng khi nh́n thấy những thương
binh, các binh sĩ cụt chân tay nằm đầy tại quân y viện đều thuộc
giai cấp b́nh dân, thuộc các gia đ́nh nông dân, các thương binh này
phải chịu đựng và hy sinh cho thiểu số tham nhũng thống trị. Chính
phủ tuyên bố t́m cách chiếm ḷng dân nhưng thực tế chỉ làm lớn hơn
khoảng cách giữa giai cấp lănh đạo và quần chúng.” Nguyễn Đức
Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn tập, trang 804, 805.
Hồi ấy trên báo chí đă có người lên án bất công xă hội tại miền Nam
ngày càng trở lên ghê tởm, trong khi binh sĩ chết như rạ ngoài mặt
trận th́ tại các thành phố lớn, bọn nhà giầu mua xe hơi bóng lộn,
xây nhà cao năm bẩy tầng lầu, ai nấy mặt vênh mày vác, khinh người
rẻ của. Bọn con buôn hái ra tiền nhờ chiến tranh rồi dùng tiền cho
con cái đi du học ngoại quốc trong khi những kẻ xông pha mũi tên ḥn
đạn ngoài chiến trường phải chịu cảnh nghèo nàn thiếu thốn. Thực
trạng xă hội đă ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần người chiến sĩ, họ
phải hy sinh, chiến đấu cho một chế độ bất công thối nát.
Phạm Huấn có ư chê các Tướng lănh Việt Nam không có sự ngay thẳng,
tư cách như các Tướng lănh ngoại quốc. Năm 1950 De Lattre Tướng 5
sao, Tư Lệnh Đông Dương nhưng vẫn để cho người con một, Bernard De
Lattre đóng tại đền Non nước Ninh B́nh. Mặc dù vua Bảo Đại đề nghị
đưa Bernard về làm trong văn pḥng Quốc Trưởng nhưng ông Tướng vẫn
để con chiến đấu tại chiến trường và tử trận tháng 5-1951. Khi Mỹ
bắt đầu ném bom Bắc Việt, Đô đốc Sharps, Tư Lệnh các lực lượng Hoa
Kỳ tại Thái B́nh Dương đă để con trai ông, Thiếu Tá phi công Mac
Cain tham gia oanh tạc và đă bị bắn rơi. “Trong khi đó, suốt cuộc
chiến 21 năm sau cùng tại Việt Nam, chắc chắn không thể t́m thấy con
một ông tướng nào chiến đấu ngoài mặt trận” Phạm Huấn, Những Uất Hận
Trong Trận Chiến Mất Nước, trang 133
“..con những ông Tướng khác th́ cứ gần đến tuổi động viên đă bằng
cách này, cách khác, được xuất ngoại du học. Chung qui chỉ có những
sinh viên, học sinh con nhà nghèo và không thế lực, sẽ bị thi hành
lệnh Tổng động viên một cách rất kỹ lưỡng. Ngoài ra, v́ không có
tiền bạc để chạy chọt, chắc chắn không bao giờ họ được phục vụ tại
‘chỗ ngon, chỗ bở’ ở Sài G̣n hay hay các tỉnh” Phạm Huấn, Những Uất
Hận Trong Trận Chiến Mất Nước, trang 134, viết theo lời kể của Thiếu
uư Phạm văn Trung, sư đoàn 18 BB.
Trần Phan Anh trong cuốn Trận Chiến Mùa Hè 1972 trang 155, 156 có
nêu ra một vụ tham nhũng hối lộ động trời của các Tướng lănh VNCH,
chẳng biết hư thực ra sao.
“Trong khoảng thời gian từ tháng giêng đến tháng 3-1972, t́nh báo
VNCH báo cáo sự hiện diện của công trường 5 Bắc Việt tại căn cứ địa
712, gần thị trấn Snoul, Cam Bốt, khoảng 30 cây số Tây Bắc Quận lỵ
Lộc Ninh trên Quốc Lộ 13. Hai công trường 7, 9 được phát hiện tại
vùng đồn điền cao su Dambe và Chup trên đất Cam Bốt, nơi đó là hai
mục tiêu hành quân của Quân đoàn III thiết kế cho Đệ tam cá nguyệt
1971. Kế hoạch đă bị đ́nh hoăn sau cuộc tử nạn của Trung Tướng Đỗ
Cao trí, Tư lệïnh quân đoàn III QLVNCH.
Trung Tướng Đỗ Cao Trí đă bị thảm sát v́ đă cùng Nguyễn Văn Thiệu,
Đặng Văn Quang nhận hối lộ 30 triệu đô la do toà Đại sứ Nga tại
Paris trao cho Quang để thả Trung Ương Cục và Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam chạy trối chết qua Cam Bốt sau khi bị liên quân Việt Mỹ bao
vây tại vùng rừng Tây Ninh v́ những cánh quân của Quân Đoàn III tiến
quá nhanh, cục R chậm chân kẹt lại bị CIA phát hiện do việc họ đánh
điện cầu cứu Hà Nội. MACV phối hợp Đệ II Quân Đoàn Tiền Phương Hoa
Kỳ (US II Field Forces) cùng Quân đoàn 3 VNCH được tăng cường một Lữ
đoàn Dù, Liên đoàn 5, 6 Biệt động Quân tung quân bao vây, Cục R chỉ
c̣n một trung đoàn bảo vệ, cá nằm trong rọ chờ lên thớt. Khi Liên
quân Việt Mỹ siết chặt ṿng vây, Lữ đoàn Dù thọc mũi tấn công khuấy
động, một Liên đoàn Biệt Động Quân lănh nhiệm vụ án ngữ biên giới
Cam Bốt th́ bất ngờ nhận được lệnh Trung Tướng Đỗ Cao trí cho lệnh
rút về chi khu Phước Thành, Tây Ninh nghỉ dưỡng quân th́ tối hôm đó
bị trung đoàn bảo vệ Cục R đánh úp để che chở cho toàn bộ Trung ương
Cục hạy trối chết qua Cam Bốt về hướng đồn điền Snoul.
Sau đó CIA tức giận nghĩ rằng Đỗ Cao Trí là người của Cộng sản nên
ra tay tiêu diệt, những chuyện này do chính Đặc sứ Komer (hàm Đại
sứ) kể lại, ông Đặc Trách B́nh Định phát triển MACV.”
Khởi đầu từ 8 tháng 9 năm 1974, linh mục Trần Hữu Thanh Chủ Tịch
Phong Trào Nhân Dân chống tham nhũng cho phổ biến bản cáo trạng số 1
tố cáo ông Thiệu tham nhũng và yêu cầu từ chức. Tướng Thiệu bị tố
tham nhũng nhiều vụ như nhà cửa, đất đai, đầu cơ phân bón, gạo miền
Trung, buôn bán bạch phiến.. . phong trào lôi cuốn các nhóm khác như
sinh viên, kư giả, chính khách.. Đầu tháng 2 năm 1975, phong trào
phổ biến cáo trạng số 2 tố cáo ông Thiệu nhiều tội và hô hào lật đổ
bằng vơ lực khiến ông ta phải dùng biện pháp mạnh cho bắt giam nhiều
nhà chính khách, đảng phái.
Người dân trong nước đă quá chán ghét chính quyền thối nát, dĩ nhiên
người Mỹ phải chán nản hơn thế nữa, tiền của họ đổ vào từ bao lâu
nay y như gió lùa vào nhà trống, cựu đại sứ Bùi Diễm nói: “Một quốc
hội quá chán ngán chiến tranh và mệt mỏi v́ đă yểm trợ một đồng minh
có quá nhiều khuyết điểm và thối nát”
Nhà bào Trần Văn Ân, Tướng Trưởng, Phạm Huấn, chính khách, kư giả…
đều cho rằng đất nước đă được giao phó vào tay lănh đạo tồi. Trần
Việt Đại Hưng cũng như nhiều nhà báo khác cho rằng Thiệu, Kỳ không
phải là những nhà lănh đạo mà chỉ là những anh cai thầu chiến tranh,
hễ có tiền th́ đánh, không tiền th́ chạy. Trong tám, chín năm cầm
quyền, ta không thấy chính phủ Thiệu có một kế hoạch ǵ về chính
trị, kinh tế cũng như quân sự mà chỉ trông chờ vào Mỹ, ông Nguyễn
Tiến Hưng cho rằng ta đă hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ từ quốc pḥng, ăn
ở, giao thông, vận chuyển…
Đương đầu với một kẻ thù nguy hiểm, công chức quân nhân không được
học tập về đường lối, lư tưởng chủ nghĩa quốc gia.. hoặc có chăng
chỉ là h́nh thức. Tổ chức hoạt động tuyên truyền của chính phủ rất
yếu kém, không lôi cuốn được sự ủng hộ của nhân dân trong khi kẻ
địch thường xuyên tuyên truyền nhồi sọ cán binh, nhân dân, bộ đội để
lái họ theo đường hướng chúng đă vạch ra. Bộ Thông tin, tuyên truyền
của ta không giáo dục, tuyên truyền cho người dân, quân nhân, công
chức một lư tưởng Quốc gia, lư tưởng Tự Do Dân Chủ để quân dân ta có
một tinh thần vững mạnh mà chỉ là chính sách tự vệ, gặp VC ở đâu th́
đánh đấy.
Ông Nguyễn Đức Phương cho rằng người dân không tích cực yểm trợ cho
công cuộc chiến đấu.
“Cuộc chiến tranh quá dài đă khiến mọi người mệt mỏi, giao khoán
hoàn toàn việc bảo vệ đất nước cho quân đội. Phần lớn thanh niên
không thiết tha, đôi khi c̣n trốn tránh nghĩa vụ quân sự trong thời
chiến. Tất cả những mục nát của chính quyến, thờ ơ của dân chúng và
sự ung thối của xă hội miền nam đă cấu thành yếu tố tự hủy” CTVNTT,
trang 806
Một điều không thể chối căi được là người Quốc Gia luôn luôn chia rẽ
khiến cho CS đă thừa cơ nước đục thả câu. Ngay từ những năm 1945,
46.. các đảng phái Quốc Gia đă chia rẽ nhau khiến cho CS lợi dụng
thời cơ tuyên truyền lôi cuốn quần chúng để rồi cướp được chính
quyền. Ông Ngô Đ́nh Diệm chấp chánh ngày 7-7-1954, so với các Thủ
Tướng tiền nhiệm như Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn tâm, Bửu Lộc… ông Diệm
là người có bản lănh cao nhất, dám chơi bạo hất cẳng Pháp để đi theo
Mỹ. Đụng chạm với Bảo Đại thân Pháp, tháng 4-1955, ông Diệm được
triệu hồi sang Pháp để Quốc trưởng cất chức. Các đảng phái Quốc gia,
nhân sĩ.. đều nhiệt t́nh ủng hộ Thủ Tướng Diệm, đả đảo và truất phế
ông vua vong bản Bảo Đại. Năm 1956 ông Diệm Trưng Cầu Dân Ư lên làm
Tổng Thống rồi từ từ xung đột với các đảng phái, nhân sĩ Quốc Gia.
Những người Quốc Gia trước đây ủng hộ ông nay quay lại chống ông.
Chính phủ cũng chống đối đàn áp những người đối lập ra mặt.
Sau ngày đảo chính 1-11-1963, miền Nam lại lâm vào t́nh trạng chia
rẽ trầm trọng gấp bội lần hơn trước. Các Tôn giáo, Tướng lănh tranh
giành quyền hành biến miền Nam thành một đất nước vô chính phủ. Phật
Giáo, Công giáo chia rẽ đả kích nhau trên báo chí, rồi lại có phe
chủ trương chia rẽ Bắc Nam để ḥng thủ lợi. Năm 1966 chính quyền
quân nhân đă tạm ổn định được t́nh h́nh lại bị phong trào Phật Giáo
miền Trung chống đối dữ dội, phong trào đă gây t́nh trạng sáo trộn
nhiễu nhương khiến cho nhân tâm sao xuyến, kẻ thù thừa cơ len lỏi
phá hoại cơ cấu Quốc Gia.
Cuối tháng 3-1966 Phó Tổng Thống Mỹ Humphreys tuyên bố với báo
Newsweek, ông bi quan cho rằng chỉ có ông Trời mới lật được thế cờ ở
Việt Nam là một xứ có quá nhiều chuyện rắc rối. Mỹ sẵn sàng xét lại
đường lối và sẵn sàng thừa nhận một VN không liên kết. Mỹ có thể
chấp nhận cuộc tuyển cử tự do dù Cộng Sản có thể thắng trong cuộc
bầu cử đó. Như thế những cuộc biểu t́nh, chia rẽ nội bộ của ta đă
bắt đầu khiến người Mỹ chán nản, chính chúng ta làm cho họ chán.
Cho đến gần giờ thứ hai mươi lăm, cuối 1974 và đầu 1975, những cuộc
biểu t́nh chống chính phủ của Linh mục Trần Hữu Thanh, đảng phái,
chính khách… khiến cho các binh sĩ ngoài tiền tuyến mất tinh thần
chán nản và ảnh hưởng tai hại đến sự sống c̣n của đất nước.
Ngoài ra chúng ta không thể quên một yếu tố ngoại lai vô cùng quan
trọng, ta phải đương đầu với một kẻ thù nguy hiểm.
- Kẻ Thù dai dẳng.
Năm 1947 bị Pháp truy kích Việt Minh thua chạy rút vào các chiến
khu, từ năm 1949, Mao thắng Tưởng nhuộm đỏ Trung Hoa, Viêït Minh
được Trung cộng viện trợ vũ khí ồ ạt bắt đầu chuyển bại thành thắng.
Những năm 1950, 1951, 1952 được Trung Cộng dậy cho lối đánh biển
người, Việt Minh lấy thịt đè người tấn công quân Pháp dữ dội tại
trận Vĩnh Yên 1950, sông Đáy, Yên Cư Hạ.. mặc dù các trận đánh thí
quân đẩy thanh niên hết lớp này đến lớp khác vào họng súng địch mà
không thành công ǵ mấy nhưng nó đă làm cho đối phương phải run sợ
trước quyết tâm của một kẻ thù liều mạng. Ngay từ 1952 người dân
Pháp đă quá chán ghét cuộc chiến tranh Đông Dương, chết người tốn
của, không hy vọng ǵ thắng được kẻ thù. Đến năm 1953, 1954 họ chán
ghét, ghê sợ cuộc chiến tranh đến cùng cực, cho dù nếu không thua
trận Điện Biên Phủ họ cũng tính chuyện rút quân về nước càng sớm
càng tốt. Trong suốt cuộc chiến 1947-1954 đă có 19 chính phủ bị đổ
v́ không giải quyết được cuộc chiến tranh Đông Dương.
Người Mỹ đổ quân vào miền Nam giữa năm 1965 tưởng rằng với hoả lực
hùng hậu có thể đè bẹp cuộc xâm lăng rẻ tiền của Việt Cộng trong
năm, sáu tháng. Nhưng chiến tranh ngày càng leo thang, VC bị oanh
kích, truy nă chết như rạ nhưng lạ thay, không có dấu hiệu ǵ cho
thấy địch phải rút lui, từ bỏ ư định xâm lăng. Không những thế, VC
vẫn gia tăng xâm nhập hết lớp này đến lớp khác, vẫn cái chiến lược
cố đấm ăn xôi đẩy thanh niên vào chỗ chết có từ thời Pháp thuộc. Năm
1967, 68, 69 người Mỹ thống kê cho biết VC bị giết lên tới sáu, bẩy
trăm ngh́n, trong khi ấy người Mỹ chỉ mới thiệt hại ba chục ngh́n,
VC vẫn gia tăng xâm nhập và rồi người Mỹ thất vọng, họ cho rằêng VC
sẵn sàng chiến đấu dù phải hy sinh thêm một triệu nữa và số thiệt
hại của Mỹ sẽ c̣n lên tới 100 hay 200 ngàn người…
Ngày 26-2-1968, khi Liên quân Việt Mỹ đă tái chiếm lại Huế trong
trận Tết Mậu thân, đài VOA nói: “Hôm nay ngày 26-2 Huế đă được các
lực lượng VNCH và Mỹ hành quân giải toả, chấm dứt một cuộc chiến
tranh bẩn thỉu nhất kéo dài từ một tháng qua”
Người Mỹ gọi cuộc chiến tranh Việt Nam bẩn thỉu v́ các chiến thuật
chiến lược của địch tiểu nhân nhơ bẩn chưa từng bao giờ thấy. VC
miệng nói hoà b́nh tay ŕnh đánh trộm, lợi dụng ngày hưu chiến, ngày
Tết để đánh. Chủ trương lấy cứu cánh biện minh phương tiện, VC dùng
tất cả mọi thủ đoạn tiểu nhân bẩn thỉu miễn là thắng trận, lùa đàn
bà trẻ em đi trước để làm bia đỡ đạn. Người Mỹ đă từng chiến đấu tại
Âu Châu với quân Đức, Á Châu với quân Nhật, Trung Cộng nhưng chưa hề
thấy một cuộc chiến tranh nào kỳ quái như tại VN. Họ phải đương đầu
với một kẻ thù dai dẳng, cố đấm ăn xôi, thí quân liều mạng, kẻ thù
có mặt khắp nơi ẩn hiện như ma, một cuộc chiến tranh không giới
tuyến. Tất cả những chiến thuật chiến lược VC đều không đếm xỉa ǵ
tới qui ước chiến tranh quốc tế, địch pháo kích vào các khu vực đông
dân cư để gây náo loạn, không đếm xỉa ǵ tới sinh mạng đàn bà trẻ
nít.
Ngoài ra thủ đoạn chính trị, ngoại giao VC cũng cố đấm ăn xôi y như
tại chiến trường, chúng cũng dai dẳng, bẩn thỉu, ma mănh lấy cứu
cánh biện minh cho phương tiện. Sau trận Mậu Thân người Mỹ quá chán
ghét chiến tranh VN và t́m cách rút chân ra v́ biết không thể thắng
được kẻ thù liều mạng trong một cuộc chiến tranh bẩn thỉu như vậy.
Trận Mậu Thân VC tuy bị thiệt hại nặng về nhân mạng nhưng chúng lại
thắng lợi to lớn về chính trị, địch đă tạo được sự ghê tởm cho kẻ
thù để họ phải chán nản bỏ cuộc. Sự ĺ lợm, cố đấm ăn xôi đă đạt
được kết quả mong muốn, VC đă thành công trong cuộc chiến tranh Việt
Pháp và lại áp dụng “chiến lược cố đấm ăn xôi” đẩy thanh niên vào
chỗ chết khiến kẻ thù phải ghê tởm. Sau 1975 những người ở ngoài Bắc
vào Sài G̣n nói “ Thằng nghèo đói nó không sợ chết”, đó là nguyên do
đưa tới sự sai lầm của người Mỹ, họ đă đưa quân vào tham dự một cuộc
chiến tranh không cân xứng giữa một anh nhà giầu sợ chết và một
thằng nghèo đói đánh thí mạng cùi.
Trong phim Vietnam History By Television, Vơ Nguyên Giáp trả lời
phỏng vấn của một kư giả Tây phương: "Chúng tôi sẽ tiếp tục chiến
đấu cho tới thắng lợi cuối cùng”. Nguyên văn “Nous continuerons à
combattre jusqu’à la victoire finale..”. Sự thực th́ Giáp không
chiến đấu mà chỉ đẩy thanh niên vào chỗ chết.
Hoa Kỳ đưa quân vào VN đánh CS là đă đi vào vết xe đổ của người
Pháp, cuối cùng đă phải đầu hàng chiến lược bẩn thỉu ghê tởm của kẻ
địch. Khát máu như bọn thực dân Pháp c̣n phải bỏ chạy huống hồ Mỹ.
Trận Mùa Hè đỏ lửa năm 1972, người Mỹ muốn ta phải thắng, họ yểm trợ
B52 trải thảm cho QĐVNCH giành thắng lợi tại chiến trường để có ưu
thế trên bàn hội nghị Paris ḥng kư kết hiệp Định rút quân về nước.
Cuối cùng kẻ địch lại thắng thêm một trận vĩ đại nữa qua chiến lược
cố đấm ăn xôi.
Ngoài ra chúng ta cũng phải kể thêm những yếu tố phụ thuộc khác,
trong khi ta bị địch tấn công tại tuyến đầu, đài BBC Luân Đôn cũng
tuyên truyền phá hoại khiến cho quân dân mất tinh thần hốt hoảng tạo
cơ hội thuận lợi cho kẻ địch. Đài BBC xuyên tạc sự thật ở nhiều chỗ,
Quảng Đức di tản ngày 22-3, mấy ngày sau VC mới dám vào nhưng BBC
cũng nói đă bị tràn ngập…
Những nguyên nhân chúng tôi đă nêu ở trên chỉ là tương đối, mặc dù
những nay nhiều hồ sơ đă được giải mật nhưng cuộc chiến tranh vẫn
c̣n nhiều bí ẩn. Trả lời phỏng vấn của Phạm Huấn, Tướng Toàn cho
biết sau khi ném 2 quả bom CBU ngày 15-4-1975 tại Long Khánh, CSBV
bị thiệt hại khoảng 10 ngàn người, ông xin lệnh cho ném thêm 5 quả
nữa nhưng được trả lời người Mỹ chỉ cung cấp ng̣i nổ cho 2 quả, họ
chỉ cho ta ném 2 quả mà thôi. Như thế ta mới thấy đă có sự sắp đặt
sẵn giữa các thế lực siêu cường v́ nếu họ cho ta ng̣i nổ 10 quả mà
không cần viện trợ khẩn cấp, không cần đưa B52 sang trải thảm ta vẫn
thừa sức đẩy lui VC ra khỏi miền Nam. Rơ ràng họ đă sắp đặt bỏ miền
Nam chứ không phải vấn đề tốn kém, bởi v́ bom đă để sẵn cả nhưng chỉ
thiếu ng̣i, cái ng̣i chẳng đáng giá bao nhiêu.
Ngày 6-4-1969 Wesmoreland cựu Tư Lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam và Đô
Đốc Sharps, Cựu Tư lệnh Thái B́nh Dương Mỹ phúc tŕnh dài 347 trang
về chiến tranh Việt Nam trong 4 năm qua. Họ cho biết nếu Mỹ không đổ
quân vào Miền Nam năm 1965 th́ sẽ mất trong 6 tháng. Hai cựu Tư Lệnh
này nhấn mạnh sự bó tay của Quân đội Mỹ trước chính sách hạn chế
chiến tranh của Tổng thống Johnson không cho đánh qua Mên Lào. Ngày
27-1969 Đô Đốc Sharps đăng báo công kích Bộ trưởng Quốc pḥng Mc
Namara đă không cho oanh tạc phá hủy tiềm lực kinh tế Bắc Việt mà
chỉ cho ngăn xâm nhập nên các cuộc oanh tạc hóa ra vô hiệu.
Những người hoạch định chiến lược Mỹ không phải là những nhà quân sự
mà là các chính trị gia, họ họach định với thái độ do dự và lo sợ
nên các kế hoạch công phá địch đă bị vô hiệu. Nhiều người cũng đặt
giả thuyết cho rằng họ bị tư bản chi phối cố t́nh kéo dài chiến
tranh để bán vũ khí, giả thuyết đó dựa trên sự nghi ngờ người Mỹ giả
vờ không đánh thắng được Việt Cộng để cù cưa kéo dài chiến tranh. Sự
nghi ngờ này đă đưa tới những cuộc biểu t́nh chống chiến tranh tại
Mỹ cũng như tại Việt Nam năm 1966 tại miền Trung mà hậu quả chỉ là
có lợi cho CS. Cuối năm 1969, cựu Tư Lệnh Wesmoreland tại Mỹ nói nếu
Mỹ tiếp tục oanh tạc th́ đă thắng rồi, BV lợi dụng hoà đàm yêu cầu
Mỹ ngưng oanh tạc hơn một năm nay để chuyển quân vào đánh tiếp. Ông
Nguyễn Tiến Hưng cho rằng miền Nam sụp đổ v́ đă quá phụ thuộc vào Mỹ
từ Quốc pḥng, kinh tế, giao thông, ăn, ở.. Ta cũng quá ỷ lại vào
Mỹ, lúc nào cũng tin tưởng vào sự giúp đỡ của người bạn Đồng Minh .
Sự thực đây không phải là lần đầu tiên người Mỹ phản bội đồng minh ,
cái tṛ mua bán đổi chác, bỏ rơi đàn em đă có từ Thế Chiến Thứ hai
cách đây đă hơn 60 năm. Tháng 4-1945 , Tướng Paton Mỹ đánh Đức Quốc
Xă tiến quân đến sát biên thùy Tiệp Khắc sắp vào giải phóng họ th́
được lệnh phải dừng lại ngay lập tức v́ Tiệp đă được nhường cho Nga.
Sau này những bí mật đă được tiết lộ, sở dĩ Mỹ nhường Đông Âu cho
Nga v́ họ có nhờ Nga phụ giúp một tay đánh quân Nhật tại Á Châu. Họ
có cho nghiên cứu làm bom nguyên tử nhưng không hy vọng ǵ lắm.
Cuối năm 1944, mặt trận Âu châu đă gần kết thúc nhưng tại Á châu,
Nhật vẫn c̣n hơn 5 triệu quân đóng rải rác tại các nước Đông Nam Á,
họ lại chiến đấu dai dẳng không chịu đầu hàng. Người Mỹ trù tính
phải đánh một năm rưỡi hoặc hai năm mới xong, sẽ phải tốn nhiều
xương máu, sinh mạng của tư bản quí như vàng. Muốn tiết kiệm xương
máu nhân dân chỉ c̣n cách đem Đông Âu ra đánh đổi và Staline nhận
lời ngay v́ sinh mạng dân Xă hội chủ nghĩa lại rẻ như bèo. Nhà văn
Lỗ Ma Ni, Virgil Gheorghui trong cuốn truyện Les Sacrifíés du Danube
đă diễn tả nỗi đau đớn uất hận của 150 triệu người Đông Âu tan gia
bại sản đă bị Hoa Kỳ bán đứng cho CS để cứu vớt nền văn minh Tây Âu.
Cuối năm 1948 Tưởng Giới Thạch mất Măn Châu, ngày 7-10-1948 Hồng
quân đại thắng ở Hoa Bắc, hai hôm sau Tưởng Giới thạch xin Mỹ viện
trợ để cứu nguy t́nh thế quá hiểm nghèo nhưng không được đáp ứng.
Đầu tháng 12-1948 Tưởng phu nhân bà Tống Mỹ Linh đích thân sang Mỹ
cầu viện nhưng họ lờ đi. Mỹ bỏ rơi Trung Hoa Dân Quốc không thương
tiếc v́ trước đây họ giúp Tưởng Giới Thạch chống Nhật, Tưởng đă cầm
chân được một số lớn quân Nhật, nay đế quốc Nhật tan tành thành tro
bụi, Tưởng không c̣n là đồng minh cần thiết nữa. Hoa Kỳ bỏ rơi Trung
Hoa mang lại hậu quả tai hại cho cả Á Châu, Trung Cộng nhuộm đỏ nước
Tầu rồi trở thành mối đe dọa cho Hoa Kỳ, cho nền hoà b́nh thế giới
và bây giờ vẫn c̣n đe dọa, cái giá mà Hoa kỳ phải trả cho sự bỏ rơi
này muôn đời không bao giờ hết.
Và để rồi gần 30 năm sau, tháng Tư 1975 họ lại dở cái tṛ vắt chanh
bỏ vỏ ấy tại Việt Nam.
Người Mỹ có được lợi lộc ǵ trong cuộc chiến tranh Việt Nam hay chỉ
toàn là thiệt hại, dĩ nhiên có . Trước mắt họ đă ngăn chận được cuộc
chiến tranh theo kiểu tầm ăn dâu của Trung Cộng tại Á Châu, sự phản
ứng quyết liệt đă khiến khối Cộng chùn bước. Mỹ đă bắt tay hoà hoăn
được với Trung cộng, ít ra họ cũng yên tâm thoát khỏi sự đe dọa an
ninh cho đất nước. Việt Nguyên trong bài “ 32 Năm Lật Trang Sử Cũ”
cho biết Trung cộng đă viện trợ cho Bắc Việt 20 tỷ Mỹ kim trong suốt
cuộc chiến tranh từ 1950 -1975, đúng như Trần Phan Anh nói trong
Trận Chiến Mùa Hè năm 1972: “QVNCH đă cầm chân và tiêu diệt phần lớn
năng lực và tài nguyên của khối Cộng Sản vào cuộc chiến tranh. Họ đă
tạo thời giờ quí báu cho Khối Tự Do phát triển kinh tế và củng cố
hàng ngũ. Kết cuộc họ đă bị trói tay để đưa đến thảm trạng 30 tháng
4 năm 1975”
Người Mỹ nói họ thiệt hại 300 tỷ Mỹ kim, không phải rằng họ cho VN
số tiền khổng lồ ấy mà nó là một chi phí tổng gộp bao gồm cả lương
lính, nhân viên quốc pḥng, cố vấn, công nhân chế tạo vũ khí, chi
phí di chuyển .. những khoản tiền ấy lưu hành trong phạm vi kinh tế,
lănh thổ nước họ hơn là ra ngoại quốc. Nước Mỹ khóc lóc thảm thương
cho 58 ngàn người lính của họ đă “ủm củ tỉ” tại VN nhưng họ không hề
đoái thương tới hàng mấy triệu người Việt Nam và Đông Dương chết v́
bị các thế lực siêu cường xúi cho người ta giết lẫn nhau. Người Mỹ
không hề thương tiếc cho hàng mấy triệu người dân Miên vô tội bị
Khmer đỏ tàn sát v́ họ đă bỏ rơi Đồng Minh một cách tàn nhẫn.
Ông Nguyễn Tiến Hưng nói: "Hoa Kỳ bỏ Việt Nam v́ quyền lợi của họ
tại đây không c̣n nữa."
Trọng Đạt
Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây
biểu chương...
Lễ nghi
quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu,
huy hiệu... QLVNCH
Tiến
tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về
Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6
Gươm lạc giữa rừng hoa
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ
Sắc lệnh về
quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ
quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !
140
chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại
VN
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Tổng Thống Abraham Lincoln
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo
vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng
Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc
Luận về Tậm Lư
Chính Trị
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?
Một tài liệu 42 năm cũ
Dựng
Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi
Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974
Những điều nên biết về
Medicare 2016
Remember C-Rations?
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Tướng lănh VNCH
Bài phỏng
vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột
tháng 3, 1975
Đại Tá
Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần
Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975
tại Sài G̣n
Chuyện của một
ngôi trường
Luận về khoa bảng
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền
Phiếm luận
về mộng mơ qua văn chương và triết học
Chính sách
thuế khóa
Cách viết hoa
trong tiếng Việt
Đoàn
thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa
ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa
Việt Nam
Tiếng Việt ba miền -
Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?
TT
Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?
HCM đă âm mưu
bán nước từ năm 1924
Vài nét
về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải
chiến Midway
Adm
Chester Nimitz
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc
hành quân Lam Sơn 719
Những trận đánh đi vào quân sử
Nguyên nhân xụp
đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng
Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh
chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh
Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng
Nguyên do chính khiến VN bất tử
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và
huyền thoại
Vài nét hoạt
động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến
VNCH
Trung
Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72,
TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng
12 năm 1965
Nhảy Dù và
Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử:
Mậu thân Huế
Trận KAMPONG
TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v
Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn
Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ
QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát
Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân
VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc
Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về
thành nội Tết Mậu Thân
Một ngày với Đô Đốc
Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh
anh dũng và trung thành với Tổ Quốc
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần -
Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối
tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng
Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết
hiên ngang
Chuyến công tác cuối
cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá
BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người
chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà
Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh
một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của
Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn
thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị
bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng
sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi
trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường
BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh
hùng
Lịch sử h́nh thành
QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận
Vong
Người lính
VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người
lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù
bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh
chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính
VNCH
Sự thật về cái chết
của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số
quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những
chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn
Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1,
Phần 2,
Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ
1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn
Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên
Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
QLVNCH
Những người trở về
với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam,
Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ
lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức -
1974
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc
Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù
CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước
Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội
chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối
của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc
Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành
Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú
Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di
sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền
ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc
Kinh