Văn Nguyên Dưỡng
Lời Nói Đầu: Trung tuần tháng 11, năm
2012, tôi đến Sài Gòn Nhỏ, Nam California, thủ đô tinh thần
của người Việt tị nạn công sản ở Hoa Kỳ, gặp lại những
bạn đồng khoá trong Ban Chấp hành Hội Ái hữu Cựu SQTB Khoá
V–Vì Dân Thủ Đức-Đàlạt. Các bạn uỷ nhiệm cho tôi viết một
bài cho quyển Kỷ Yếu của Khoá về cuộc chiến cũ trên quan
điểm khách quan, “đứng ở vị trí cao hơn bên này hay bên kia,
từ đó nhìn xuống viết sao cho trung thực và vô tư về cuộc
chiến đó.” Điều này quả thật… đáng suy gẫm và các bạn tôi
thực sự đáng được khen ngợi. Nếu chỉ mang tâm sự của một
chứng nhân mà viết thì cũng không chắc viết được những
dòng vô tư huống chi tôi là một nạn nhân trực tiếp –cũng như
rất nhiều bạn đồng khoá- bị bên kia vùi giập trong lao tù
hơn một thập niên vì đã từng cùng với hàng triệu chiến
hữu bên này cầm súng chống lại những người bên kia tuyến.
Nếu viết trên cương vị của một người biên khảo, đứng ngoài
hay đứng trên, như các bạn yêu cầu thực là không dễ. Tuy
nhiên, tôi xin nhận vì cho rằng việc làm này là bổn phận
của một sinh viên thuộc một khóa huấn luyện SQTB được gọi
là Khóa Vì Dân; hơn nữa, tôi còn là một chứng nhân cũng là
nạn nhân của cuộc chiến tang điền thương hải đó. Tôi mong
mỏi nói lên sự thật cho thế hệ tương lai Việt Nam trong nước
và ở hải ngoại hiểu rõ hơn về thế hệ của chúng tôi. Tôi
đã thức nhiều đêm để suy gẫm viết làm sao cho thật trung
thực, mặc dù trước đây nhiều năm khi có dịp viết một quyển
sách về Chiến Tranh Việt Nam bằng Anh ngữ tôi đã giữ sự
trung thực và vô tư ở mức độ cao. Tôi mong mỏi sẽ chu toàn
lời hứa với các bạn đồng môn trong bài này.
Vĩnh Định Nguyễn văn Dưỡng hay Văn Nguyên Dưỡng SVSQ
TĐ8/ĐĐ2/BB/ Khoá V-Vì Dân/Thủ Đức
I. Đất Nước Và Con Người
Đất nước Việt Nam nằm trên ven bờ Thái Bình Dương chiếm vị
trí chiến lược quan trọng trong vùng biển lớn này và là
cửa ngõ của vùng Đông Nam Á Châu. Vì ở phía nam một nước
Trung Hoa khổng lồ luôn luôn theo chủ nghĩa bành trướng, nên
con người Việt Nam, từ nghìn xưa, đã chịu nhiều thử thách
điêu đứng để trường tồn. Ở thời điểm cận đại và hiện
đại, với vị thế chính trị địa dư chiến lược đó, đất nước
và con người Việt Nam không thể thoát được sự tranh chấp
của các thế lực lớn lao Đông Tây, nên đã và sẽ còn nhiều
gian khổ khôn lường.
Dù đứng trên quan điểm nào, khi viết về cuộc chiến
ba-mươi-năm của thế kỷ trước, người Việt có lương tâm sẽ
không khỏi chạnh lòng thương cảm về một giai đoạn lịch sử
mà cả dân tộc đã đắm mình trong máu lệ và khói lửa lan
tràn trên mọi nẻo đường, trong mọi thôn xóm, làng mạc, trong
mọi phố phường hay thành thị. Xa ở tận biên thuỳ Việt Bắc,
tận rặng dãy Trường Sơn, tận vùng đất mũi Cà Mau. Gần ngay
ở giữa cố đô Hà Nội, giữa kinh đô Huế, và giữa tân đô Sài
Gòn. Ở đâu cũng có chiến tranh. Ở đâu cũng có dấu vết của
tàn phá. Ở đâu cũng chỉ thấy giết chóc và huỷ diệt,
thương tâm và đau khổ. Là chứng nhân và nạn nhân của cuộc
chiến đau lòng đó, chúng tôi, hàng trăm ngàn chiến sĩ miền
Nam đã ngậm ngùi chôn vùi kiếp sống như con vật lao động
trong tận đáy ngục tù ở núi rừng Việt Bắc trong thời gian
dài sau khi đã chôn vùi tuổi thanh xuân cho một cuộc chiến
không biết sẽ đưa dân tộc và đất nước đi về đâu… Người ta
nói quá nhiều trong tai chúng tôi về độc lập, về tự do và
hạnh phúc. Dĩ nhiên thế hệ chúng tôi đã không tìm được
những chiếc bánh tưởng chừng như thơm ngon đó. Toàn là bánh
vẽ. Chúng tôi đã không bao giờ tìm thấy hay được hưởng hạnh
phúc thực sự của những con người trên một đất nước có
thanh khí và ánh sáng. Cuộc chiến diễn ra dài dẵng. Chỉ
có sát khí đằng đằng, khói lửa trùng trùng và máu lệ
tuôn trào thuở ấy.
Chúng tôi không tin rằng đã đếm đủ bao nhiêu lớp người của
thế hệ chúng tôi đã khóc. Những con dân đau khổ của miền
Bắc khóc nhiều lắm. Đó là những ông bà mất cháu, những
cha mẹ mất con, những người vợ mất chồng, những trẻ thơ
mất mẹ cha, những người tình mất nhau… Họ đã biết bao lần
nhìn về miền Nam mà tìm hình bóng người thân trên núi rừng
thăm thẳm của các con đường mòn Trường Sơn, ở Tây Nguyên, ở
Bình Trị Thiên, ở Nam Bộ; hay ở Lào, hoặc ở Miên? Mắt họ
đã tràn lệ ngóng trông, lòng họ đã mỏi mòn nhớ nhung, chờ
đợi… những con người “sinh bắc tử nam”… đã ra đi và đã mất.
Mất cả thể xác lẫn linh hồn ở những chiến trường xa xôi
đó. Người ra đi đã trở thành những liệt sĩ, đem xương cốt
mà đấp phù đồ cho đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN).
Chúng tôi cũng đã nhìn thấy không biết bao nhiêu con dân miền
Nam với những dòng nước mắt đầm đìa trong suốt nhiều năm.
Họ là các đấng sinh thành, là quả phụ cô nhi, là anh chị
em, bạn bè hay là người yêu của những chiến sĩ miền Nam.
Những chiến sĩ này đã hi sinh ở khắp chiến trường miền
Nam. Ở biên giới, trên cao nguyên, dưới duyên hải, ngoài biển
cả, trong núi rừng, đồng ruộng, nương rẫy, thôn xóm, thành
thị, phố phường. Ở khắp nơi. Ở Cam Lộ, Pleime, ở Đồng
Xoài, Bình Giả. Ở Quảng Trị, Thừa Thiên, ở Pleiku, Kontum!
Còn ở đâu và ở đâu nữa? Buôn Mê Thuột hay Phước Long? Tây
Ninh hay An Lộc? Long Khánh hay Sài Gòn? Chương Thiện hay Cà
Mau? Ở đâu mà máu người không đổ! Những chiến sĩ miền Nam
nầy, thoải mái và ước mơ nhiều hơn, cho rằng cuộc chiến
nầy là để bảo vệ chế độ tự do của miền Nam hay ít ra vì…
mắt họ đã từng nhìn thấy những người bên kia mang nhãn
hiệu “giải phóng” cầm súng giết hàng nghìn người vô tội,
bất kể người già, đàn bà và trẻ con ở Huế –Tết Mậu Thân–
hoặc dùng đại pháo bắn banh xác nạn nhân trên các con đường
chạy giặc, mà động mối thương tâm, mang hùng khí mặc áo
trận vào người? Vâng, khi nhìn vào kinh thành cũ thấy xương
người vô tội chất cao bằng đầu và thấy trên các con đường
đó máu đã chảy tràn lộ loang sông, thây đã phơi mãng địa…
lòng dạ nào không đau xót! Những chiến sĩ này là những con
người biết yêu, ghét, buồn, thương như những cán binh Trường
Sơn. Chỉ khác hơn là biết đầu ngọn súng… chĩa về đâu… Họ
không là những tấc sắt bị hút vào chiến trường. Nhưng ở
chiều sâu của cuộc chiến nhiêu khê đó, họ đã mặc nhiên
thành những “chiến sĩ dung nham” như một nhà thơ lớn miền
Nam đã nói.
Thực ra, có thể nói hầu như tất cả những cán binh miền
Bắc hay chiến sĩ miền Nam đều là những người yêu nước. Họ
đánh nhau vì tấm lòng yêu nước đó đã bị… lợi dụng tạo nên
chiến cuộc mà chính họ không hề muốn. Và rồi nạn nhân của
cuộc chiến đó là con số không thể kiểm kê nổi, dù ở miền
Bắc hay miền Nam. Quá nhiều. Hàng triệu… triệu con người.
Chúng tôi, người Việt Nam trong thế hệ chúng tôi chiến đấu
bảo vệ đất nước và đã trở thành những con người chịu
đựng tất cả nỗi đau của kiếp người trên mảnh đất đầy
thương yêu nhưng cũng đầy bất trắc đó, nơi đã có những bậc
đại anh thư những bậc đại anh hùng và còn biết bao người
nữa cầm vũ khí chống giặc từ những vị vua, quan, sĩ phu,
lãnh tướng đến những nông dân áo vải, từ thày giáo đến
học sinh. Họ sẵn sàng quên sự nghiệp, quên gia đình và hi
sinh bản thân khi cần thiết. Họ thản nhiên ra pháp trường như
một Nguyễn Thái Học, một Phó Đức Chính, những ai và những
ai nữa. Kẻ thành công, người thất bại nhưng người dân Việt
yêu nước không ai có thể quên lời hịch tựa như lời sấm
truyền “Nam Quốc Sơn Hà”… đầy hùng khí như một tuyên ngôn về
chủ quyền dân tộc trên lãnh thổ của mình hay quốc sách tối
thượng giữ nước ghi rõ trong Bình Ngô Đại Cáo hùng lược mà
nhân hậu, thể hiện tinh thần dũng liệt với trái tim cao cả
yêu chuộng hoà bình của người Việt Nam. Từ nghìn trước dân
tộc Việt đã là như thế. Đến nghìn sau, dân tộc Việt sẽ
cũng vẫn như thế, không bao giờ thay đổi. Đất nước và con
người Việt Nam sẽ trường tồn vì chúng ta thừa hưởng những
truyền thống quý báu của tiền nhân: hùng lược không thua
một dân tộc nào mà nhân hậu hơn nhiều dân tộc khác.
Thời gian trong hơn một thập niền gần đây, không ít học giả
và sử gia ngoại quốc có tầm nhìn xuyên suốt cho rằng Chiến
tranh Việt Nam 1945-1975 không là chiến tranh giành độc lập
cho Việt Nam do người Việt chủ động; ngược lại, đó là một
cuộc chiến mang tính “ý thức hệ”. Trong khi đó thì tất cả
những người cầm súng Việt Nam nghĩ rằng mình chiến đấu vì
độc lập và tự do cho đất nước; vì tình yêu tổ quốc. Nhiều
nhà nghiên cứu và biên soạn Việt Nam chân chính đồng ý với
quan điểm trên đây nhưng cho rằng nếu đó là cuộc chiến “ý
thức hệ” thì các thứ “hệ ý thức” đều do các thế lực lớn
mạnh ngoại bang mang vào… áp đặt trên con người của đất
nước mình, buộc phải theo như một cưỡng chế không chống lại
nổi. Tiếc thay, thế hệ chúng tôi lắm người không hiểu hết
sự vận chuyển của lịch sử thế giới và của đất nước.
Hoặc có hiểu biết nhưng bất lực trước sự vận chuyển đó!
Bởi vì những gì mà đại đa số những người bình thường như
chúng tôi đã nghĩ và đã làm là không tự chúng tôi muốn mà
bị buộc phải nghĩ và phải làm bởi các cấp lãnh đạo và
các… lãnh tụ, mặc dù không ít người trong chúng tôi có thể
nghĩ khác hơn. Chính cấp lãnh đạo và lãnh tụ Việt Nam
–theo cách nói của từng miền– là những người không đủ tri
thức lãnh hội sự vận chuyển lớn lao này nhưng có đủ… bản
lãnh để dẫn dắt chúng tôi vào cuộc chiến thảm hại như nó
đã diễn ra. Nhất là cán, chính, binh và quần chúng miền
Bắc bị thúc bách theo từng bậc của hệ thống chính trị
đảng bộ CSVN. Đứng trên tất cả là những lãnh tụ đảng.
Trong giai đoạn lịch sử đó, Việt Nam không có một tầng lớp
lãnh đạo và lãnh tụ thực sự xứng đáng. Và nếu có, những
vị này cũng đã nhanh chóng bị loại ra khỏi quỹ đạo vận
hành của các thế lực cực mạnh của thế giới va chạm nhau
vì quyền lợi của họ. Đã có những lãnh đạo và lãnh tụ
tưởng mình đã tạo lịch sử trong khi vẫn biết, hay không
biết.., chính những thế lực này tạo nên họ và cho họ một
thế đứng trong chế độ mà các thế lực này dựng nên. Tất
nhiên, trừ thế hệ trẻ trong nước sinh sau khi chiến tranh
chấm dứt, và đa số những người còn quáng-gà mù mờ nào
đó của bên thắng cuộc, nếu là người VN ở mọi nơi trên địa
cầu ai cũng nhận ra những thế lực khuynh đảo thế giới ở
thời điểm đó là những thế lực nào và thứ “hệ” ý thức
mà họ đưa vào… “hấp” cấp lãnh đạo và lãnh tụ VN để những
người này… “thụ” rồi thực hiện trên dải đất chiến lược
của dân tộc Việt Nam là những thứ “hệ” tư tưởng nào rồi.
Nếu nói rõ ràng hơn, những thế lực –thường được gọi là
các cường quốc mạnh về chính trị, quân bị và kinh tế Đông,
Tây, ở thời điểm đó– như là Nhật, liên quân Đồng Minh Anh-Hoa
Kỳ-Quốc Dân Đảng Trung Hoa (QDĐ/TH), Liên-bang Xô-viết Nga,
đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ), và thế lực
thực-dân-hầu-tàn là Pháp –đã trở lại Việt Nam sau Đệ II
Thế Chiến. Cuộc chiến từ Mùa Thu năm 1945 trên đất nước
Việt Nam trở đi, được những trí thức chính trị và những
sử gia có uy tín thế giới cho là một cuộc chiến tranh uỷ
nhiệm [a mandate war] nếu không nói nôm na là một cuộc đánh
mướn [a proxy war] của lực lượng địa phương cho “Chủ nghĩa
Cộng Sản Quốc tế” (CSQT) đang bành trướng giành đất đai và
thị trường, va chạm mạnh vào sự che chắn quyền lợi lãnh
địa và kinh tế của khối Thế Giới Tự Do (TGTD-Free World) ở
Âu Châu lẫn Á Châu. Ở khắp nơi. Ở đây chúng tôi không đề cập
đến Liên Xô đã chiếm lãnh thổ của các nước lận cận làm
lãnh thổ của mình và nhuộm đỏ cả Đông Âu sau Thế Chiến
Thứ II và tiến sang Á châu. Nhiều người gọi là Cộng Sản
Quốc tế (CSQT). Một khi CSQT vào Lục địa Trung Quốc, nhất
định sẽ lấn xuống Đông Dương, Đông Nam Á và mon men ra Nam
Thái Bình Dương. Chiến tranh Đông Dương ở thời điểm đó là
một thế chiến thu hẹp trên phạm trù “ý thức hệ” trong vùng
lãnh địa chiến lược này, quan trọng nhất là Việt Nam. CSTQ
thành công và lập chính quyền trên lục địa rộng lớn này,
nhất thiết chiến tranh vùng đất chiến lược Việt Nam tất sẽ
phải diễn ra dữ dội hơn và bản chất “proxy war” lộ diện rõ
ràng hơn. Và nó đã diễn ra. Đây mới chính là bản chất
chính của Chiến tranh Việt Nam.
Lãnh tụ và lãnh đạo Việt Nam của “cuộc chiến uỷ nhiệm”
này là những ai theo các dấu mốc thời gian; và, chế độ họ
dựng nên theo các quan thầy cộng sản và khối tự do trên các
miền đất nước Việt Nam diến tiến như thế nào? Xin viết như
một tham luận hay như một bài luận sử ngắn của một chứng
nhân với ít kinh nghiệm và nhận định riêng.
II. Các Thế Lực Ức Chế Và Sách Động Chiến Tranh
Thứ nhất, Thế lực Thực Dân Pháp Các thập niên sau của Thế
kỷ XIX ba nước Đông Dương Việt, Miên và Lào là thuộc địa
của thực dân Pháp. Riêng chế độ thuộc địa Việt Nam được ấn
định rõ trong Hiệp ước Patenote 1884 ký kết ngày 6/6/1884
giữa Pháp và Triều đình nhà Nguyễn.Việt Nam bị Pháp chia
ra làm ba “kỳ”: Nam Kỳ tự trị, Trung và Bắc Kỳ bảo hộ. (1)
Nhà Nguyễn vẫn giữ ngôi vị và chế độ quan quyền của triều
đình vẫn tồn tại ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ nhưng quyền chính
trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế và hành chính Pháp nắm
toàn bộ. Thực dân Pháp đã đào tạo nên một lớp người mới
trải nhiều thế hệ phục vụ cho họ. Dĩ nhiên tinh thần yêu
nước dẫn đến những cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc
diễn ra trong suốt tám mươi năm mất chủ quyền khởi đi từ
các vua, các quan đàng cựu, các lãnh tướng, sĩ phu, các
nhà cách mạng, sinh viên học sinh, binh lính và quần chúng
nông dân Việt Nam từ Bắc chí Nam. Tất cả đều bị Pháp đàn
áp và triệt hạ, dù là các cuộc nổi dậy công khai hay hoạt
động tiềm ẩn của các hội kín. Hội kín là các đảng cách
mạng của người Việt quốc gia lẫn người Việt cộng sản (do
CSQT đào đạo trước và trong Đệ II Thế Chiến). Trong các
thập niên đầu Thế kỷ XX, hầu hết các lãnh tụ các đảng
Cánh mạng Việt Nam đều được Chính phủ Quốc Dân Đảng Trung
Hoa bảo trợ và cho lưu trú trong lãnh thổ. Một số nhà cách
mạng khác ở Nhật và một số ít ở các nước Âu châu. Trong
Đệ II Thế Chiến, thế lực thực dân Pháp ở Đông Dương bị
Nhật khống chế, rồi đảo chính. Tuy nhiên chỉ ít lâu sau khi
Nhật đầu hàng, lực lượng viễn chinh Pháp đã trở lại.
Chiến tranh Việt Nam bắt đầu…
Thứ hai, Thế lực Nhật Bản Nước Nhật, một thế lực mới ở
Thái Bình Dương, có một quân đội hùng cường, kỷ luật cao,
tận trung với Nhật Hoàng, trang bị vũ khí hiện đại và các
hạm đội hải quân tân tiến –với sách lược “Đại Đông Á”–
chẳng những muốn làm bá chủ vùng trung và nam Thái Bình
Dương rộng lớn mà còn muốn chiếm đóng và thu thập tài
nguyên của cả Á Châu trù phú. Ngày 7/12/1941 Nhật đột ngột
tấn công Trân Châu Cảng của Hoa Kỳ (trên đảo Oahu, quần đảo
Hawaii, thuộc Hoa Kỳ) gây chiến với Hoa Kỳ, trở thành một
trong ba thế lực phe “Trục”–Đức-Ý-Nhật. (2) Trong ba năm, từ
tháng 1/1941 đến tháng 1/1943, Nhật chiếm một số quần đảo
quan trọng ở vùng trung và nam đại dương này, đánh nhau dữ
dội với lực lượng Hoa Kỳ và các đồng minh địa phương ở
các vùng đó và tấn chiếm Phi Luật Tân, Nam Dương, Bornéo. Xa
hơn về phía Nam, tấn công lực lượng Hoàng gia Anh ở Viễn
Đông: Singapore và Mãlai; chiếm nhiều vùng đảo chiến lược
khác ở nam Thái Bình Dương và tiến sang Ấn Độ Dương. Trên
Lục địa đông Á Châu, đánh chiếm Mãn Châu, Đại Hàn, miền
bắc Trung Hoa, quân CSTQ của Mao Trạch Đông rút sâu vào Tây An
và Thiểm Tây. Quân QDĐ/TH của Tưởng Giới Thạch rút xuống Tứ
Xuyên và Vân Nam. Ở Đông Nam Á, Nhật chiếm Thái Lan, ép
chính quyền Pháp ở Đông Dương ký thoả ước để Nhật được tự
do chuyển quân trên toàn lãnh thổ thuộc địa này, sử dụng
tất cả phi, hải cảng Việt Nam, và đặt Bộ Tư lệnh “Vùng
Chiến Lược Tài Nguyên Nam Á Châu” [The Strategic Southern
Resources Headquarters] của Thống Chế Terauchi –Field Marshal
Hisaichi Terauchi, tướng soái của tất cả lực lượng Nhật
vùng Nam Thái Bình Dương, Đông Á và Đông Nam Á– tại Sài
Gòn. (3) Đầu năm 1944, Nhật mở cuốc tấn công lớn thứ hai
trên Lục địa Trung Hoa. Cánh quân phía đông bắc gồm hơn
820,000 quân tấn công tuyến Dương Châu và Hán Khẩu, cắt toàn
bộ các tuyến tiếp vận tàu hoả miền đông bắc Trung Hoa vào
Trùng Khánh. Ở phía đông nam, hai cánh quân trên 300,000 quân
từ đảo Hải Nam tiến đánh Nam Kinh và từ Bắc Việt tiến
đánh Quảng Đông. (4) Một cánh quân lớn khác tấn công quân
Đồng Minh Anh-Ấn-Miến và Hoa Kỳ-QDĐ/TH ở Miến Điện (Burma).
Cuối năm 1944, Nhật cắt đường tiếp vận của Đồng Minh từ
Miến Điện vào Côn Minh, lực lượng của Tưởng Giới Thạch giữ
Côn Minh đến Trùng Khánh. Tuyến phòng thủ đông nam từ Liêu
Châu, Nam Ninh đến Lào Kay, biên giới Việt-Hoa. (5) Với sách
lược Đại Đông Á, với tham vọng làm chủ Thái Bình Dương,
Lục địa Trung Hoa– lẫn vùng Đông Nam Á, và các quốc gia
khác thuộc địa của Anh, Hoa Kỳ và Hoà Lan… tất nhiên Nhật,
dù hùng mạnh, cũng lâm vào thế va chạm với nhiều thế lực:
Hoa Kỳ-Anh và các đồng minh ở Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương. Nguy hiểm nhất là Nhật đã đối đầu với thế lực Hoa
Kỳ đang phát triển mọi mặt: một sách lược chính trị “liên
minh quân sự chặt chẽ” trong thế giới tự do và một hoạch
đồ tạo dựng thế hệ vũ khí mới dựa trên khoa học kỹ thuật
tân tiến nhất. Liên-Xô cũng chuẩn bị tham chiến trong khối
Đồng Minh Anh-Hoa Kỳ ở Mãn Châu.
Thứ Ba, Thế lực Đồng Minh Anh-Hoa Kỳ Tư lệnh Lực lượng
Hoàng gia Anh ở Viễn Đông kiêm Tư lệnh Tối cao Liên quân Đồng
Minh “Vùng Chiến trường Ấn Độ-Miến Điện-Trung Hoa” (Supreme
Commanding General of the China-Burma-India Theater) là Đô đốc Sir
Louis Mountbatten, lúc đó đặt Bộ Tư lệnh ở Ấn Độ. Tư lệnh
phó vùng chiến trường này, trên danh nghĩa, là Trung tướng
Hoa Kỳ (Lieutenant General) Joseph W. Stilwell, được Washington
đưa sang Trung Hoa làm Tham mưu trưởng cho Thống chế Tưởng
Giới Thạch từ tháng 3/1942 và là Tư lệnh các lực lượng Hoa
Kỳ ở đó. Sau khi quân Nhật chiếm Miến Điện, Trung tướng
Albert C. Wedemayer thay thế Tướng Stiwell. Wedemayer đã giúp
Tưởng cải tổ lực lượng QDĐ/TH, giữ vững Trùng Khánh-Côn
Minh và chận đứng sự tấn công vào tuyến của Tưởng Giới
Thạch từ Hán Khẩu xuống Liêu Châu đến vùng biên giới Lào
Kay, Việt Nam. (6) Đồng Minh Anh-Hoa Kỳ chia chiến trường Thái
Bình Dương, Á Châu và Ấn Độ Dương ra làm hai vùng chiến
lược:
A. Vùng Chiến Lược Đông Nam Á, Nam Ấn Độ Dương, Miến Điện
và Ấn Độ do Lực lượng Hoàng gia Anh ở Viễn Đông trách
nhiệm B. Vùng chiến lược Đông Á, Thái Bình Dương và Lục
địa Trung Hoa do lực lượng Hoa Kỳ phụ trách.
Vùng chiến lược của Hoa Kỳ lại chia thành ba khu vực trách
nhiệm với ba Bộ Tư lệnh do các tướng lãnh lỗi lạc của Hoa
Kỳ chỉ huy. 1). Bộ Tư lệnh Hoa Kỳ ở Lục địa Trung Hoa do
Tướng Joseph W. Stiwell chỉ huy và kiêm nhiệm các chức vụ
đồng minh như trên. Sau đó là Tướng Wedemeyer. 2). Bộ Tư Lệnh
vùng Đông Nam Thái Bình Dương –Southeast Pacific Area– bao gồm
các nước và quần đảo nằm trong đại dương phía nam, kể cả
Úc Châu, New Guinea, Nam Dương, Sumatra và Phi Luật Tân, Đại
tướng (General) MacArthur làm Tư lệnh. 3). Bộ Tư Lệnh vùng
Trung và Bắc Thái Bình Dương –North and Central Pacific Area và
tất cả các khu vực khác không thuộc Tướng MacArthur chỉ huy
đều do Hải Quân Đô đốc (Admiral) Chester W. Nimitz, Tư lệnh Hạm
đội Thái Bình Dương kiêm nhiệm. Lực lượng Hoa Kỳ, Anh và
đồng minh địa phương đánh nhau dữ dội với các lực lượng
Hải, Không và Lục quân Nhật hầu như khắp các nước và quần
đảo lớn trong Thái Bình Dương và trên Lục địa Trung Hoa, trừ
Đông Dương của Pháp, bị Đồng Minh Anh-Hoa Kỳ cô lập và bị
Nhật khống chế. Cuối cùng, trong đêm rạng ngày 9/3/l945 Nhật
“đảo chính” Pháp. Chính quyền thuộc địa và quân đội Pháp
ở Việt, Miên và Lào hoàn toàn sụp̣ đổ, tan rã. (7) Câu hỏi
được nêu lên là tại sao Hoa Kỳ và Anh kết liên minh chặt chẽ
trong Đệ II Thế Chiến từ Âu Châu, Phi Châu, sang Á Châu và
trên các đại dương nhưng không liên minh với thế lực Pháp ở
Đông Dương? Có tài liệu cho rằng Tổng thống Hoa Kỳ Franklin
D. Roosevelt có mặc cảm với chính quyền thực dân Pháp ở
đó. Tuy nhiên, bên trong còn nhiều uẩn khúc. Nên tìm hiểu
nguyên uỷ này mới hiểu rõ hơn về chiến tranh Đông Dương và
Việt Nam sau đó.
Ở mặt trận Âu Châu, từ ngày 10/5/1940, Đức Quốc Xã tung ba
Lộ quân A, B, C [Army Groups) và hai Tập đoàn Chiến xa Panzer
(Armored Armies) --tất cả hơn 3,000,000 quân-- tấn công Hoà Lan,
Bỉ và Pháp. Lộ quân B tấn ông chiếm Hoà Lan và phần lãnh
thổ phía đông nước Bỉ. Lộ quân A lớn mạnh nhất, tấn công
tuyến phòng thủ của Pháp vùng Ardennes. Lộ quân C chiếm
Luxembourg và tấn công quân Pháp ở chiến luỹ Maginot vùng
Alsace-Lorraine. Một cánh quân Ý tấn công quân Pháp vùng núi
Alpes (Alpine Mountains) phía đông nam Pháp. Ngày 20/5/1940,
tuyến phòng thủ của Pháp ở Sédan vùng rừng Ardennes,
khoảng 140 dặm đông bắc Paris bị các Quân đoàn Chiến xa Đức
chọc thủng. Từ đó, một Quân đoàn Panzer thuộc Lộ quân A
tiến ra Pas-de-Calais vùng biển Manche tấn công liên quân Đồng
Minh gồm Tập đoàn I của Pháp, Lực lượng Viễn chinh Anh và
Quân lực Bỉ (French First Army, British Expeditionary Force –BEF,
and Belgian Army) và phối hợp với Lộ quân B ở đông bắc bao
vây cô lập Dunkerque và lãnh thổ còn lại của Bỉ. Ngày
31/5/1940, Bỉ đầu hàng. Từ ngày 4/6/1940 cả hai Lộ quân B và
A của Đức và các Tập đoàn Chiến xa Panzer tấn công dữ dội
tuyến phòng thủ mới của Tướng Maxime Weygand, Tổng Tư lệnh
Quân lực Pháp, từ cảng Le Havre theo tả ngạn sông Seine nối
với chiến luỹ Maginot ở nam Luxembourg, phòng thủ Thủ đô
Paris và các tỉnh phía nam trong khi Lộ quân C Đức tiếp tục
tấn công tuyến Maginot. Ngày 10/6/1940 Chính phủ Pháp dời về
Bordeaux, phía nam. Ngày 13/6 Paris bỏ ngõ. Ngày 14/6 quân Đức
chiếm Paris. Ngày 16/6/1940 Thủ tướng Pháp Paul Reynaud từ
chức. Thống chế Henri Phillippe Pétain lập chính phủ ở Vichy
và điều đình với Đức. Ngày 21/6/1940 Đức Quốc Xã và Pháp
ký hoà ước: Pháp đầu hàng. Quân đội Pháp hầu như tan rã.
Trước đó, trong tuẩn lễ từ 28/5 đến 4/6/1940, Thủ tướng Anh
Churchill cho phép 850 tàu thuỷ Anh, đủ cỡ, cập bến cảng
Dunkerque di tản 338,000 dân Pháp và Bỉ sang Anh tị nạn, trong
đó có gần 140,000 quân nhân Pháp và Bỉ rã ngũ. Thiếu tướng
Charles A. de Gaulle, Tư lệnh Sư đoàn 4 Chiến xa Pháp và mới
được bổ nhậm Thứ trưởng Quốc phòng trong Chính phủ Reynaud,
bay sang Anh trong ngày 17/6/1940. Ở đó, ngày 18/6, de Gaulle
tuyên bố thành lập Lực lượng Pháp Tự do (LLPTD -Free French
Forces) để giải phóng đất nước. Như vậy, thời điểm đó Pháp
có hai thế lực: Trong nước là Chánh phủ Vichy của Thống
chế Pétain bị Đức khống chế. Tuy nhiên hầu hết chính quyền
thuộc địa Pháp ở Đông Dương và Bắc Phi theo chính phủ này.
Ngược lại, LLPTD của de Gaulle ở Anh quốc chừng 10,000 người.
Tướng de Gaulle với cá tính tự hãnh và lòng yêu nước cực
đoan, muốn LLPTD hoạt động độc lập và muốn LLPTD được đối
xử như một đồng minh ngang hàng với Hoa Kỳ và Anh quốc. Thủ
tướng Anh Winston Churchill tuy không thích de Gaulle, nhưng vẫn
yểm trợ LLPTD, trong khi Tổng Thống Franklin Roosevelt không
thừa nhận de Gaulle. Do những bất đồng chính kiến vớí
Churchill và thiếu sự yểm trợ của Roosevelt nên sau khi lực
lượng Đồng Minh đổ bộ phản công quân Đức ở Bắc Phi tháng
11/1942, de Gaulle rời Luân Đôn, dời bản doanh LLPTD sang
Algiers, thủ đô Algérie, tháng 5/1943. Ở đó de Gaulle được
các nhà chính trị và tướng lãnh Pháp trong nước và thuộc
địa ủng hộ, trừ chính quyền thuộc địa Đông Dương. Khi Đồng
Minh đổ bộ Normandie (Operation Overlord 6/6/1944), LLPTD của de
Gaulle đã lên đến trên 400,000 người. Tuy nhiên trong cuộc đổ
bộ này chỉ có 900 quân Nhảy Dù Pháp cùng nhảy chung với
Lữ đoàn Đặc biệt của Không quân Anh (the British Special Air
Service –SAS). Đó là đơn vị duy nhất của Pháp tham gia cuộc
đổ bộ Normandie.(8)
Roosevelt không công nhận de Gaulle với những quyết định và
hành động thấy rõ:
Thứ nhất, về kế hoạch Overlord đổ bộ Normandie của Đồng
Minh, Roosevelt khuyến cáo Churchill không cho de Gaullle biết.
Tuy nhiên Churchill cần sự tham chiến của LLPTD ở Âu Châu, đã
mời de Gaulle sang Luân Đôn hội diện ngày 4/6/1944 và cho de
Gaulle biết.
Thứ hai, Roosevelt muốn đặt “lãnh thổ Pháp giải phóng” dưới
sự quản chính --hay uỷ trị-- của một Chính phủ Hành chánh
Quân sự các Lãnh thổ bị Chiếm đóng (Allied Military
Government of Occupied Territories) cho đến khi Pháp tổ chức
bầu cử chính phủ mới. De Gaulle nổi giận. Ngày hôm sau,
5/6/1944 Ông tuyến bố LLPTD sẽ lãnh đạo một nước Pháp giải
phóng. Điều bất ngờ đã diễn ra chỉ hơn một tuần sau cuộc
đổ bộ Normandie làm thay đổi cục diện. Ngày 14/6/1944, khi
các cánh quân Đồng Minh Anh-Hoa Kỳ đang đánh nhau dữ dội với
quân Đức ở cả khu vực Normandie, de Gaulle đột ngột về Pháp
với các cấp lãnh đạo LLPTD. Ông đến thành phố nhỏ Bayeux,
mới tái chiếm ngày 7/6/1944, là nơi Tướng Sir Bernard Law
Montgomery, Tư lệnh Lộ quân XXI (21st British Army Group), Tư
lệnh Mặt trận Normandie đặt BTL/HQ, cách bãi đổ bộ chừng 5
dặm và thành phố Caen chừng 12 dặm. De Gaulle chỉ định sĩ
quan tuỳ viên là Francois Coulet thành lập chính quyền “Hành
Chánh Dân Vụ” --French Civil Administration-- tạm thời lấy
Bayeux làm thủ đô, nên gọi là “Bayeux Administration”. Sĩ quan
và đơn vị Đồng Minh trong vùng hành quân, lúc đó và sau đó,
đều liên lạc với Uỷ viên Cộng hoà Coulet --“Republican
Comissionner”. (9) Pháp không rơi vào tình trạng bị “uỷ trị”.
Điều quan trọng hơn là Đại tướng Dwight D. Eisenhower, Tổng Tư
lệnh Lực lượng Đồng Minh ở Âu Châu, nhiều lần tiếp xúc
riêng vớí de Gaulle, đã có những quyết định khác hơn
Roosevelt: để Tập đoàn I (French First Army) của LLPTD, mới
tái lập, do Tướng Jean de Lattre de Tassigny chỉ huy, cùng với
quân Đồng Minh phản công quân Đức ở Bắc Phi năm 1942 và tái
chiếm Pháp ở mặt trận phía Tây –Western Front-- cuối năm
1943. Eisenhower cũng đồng ý sẽ để cho LLPTD của de Gaulle
tiến vào Thủ đô Paris trước. Sư đoàn 2 Chiến xa (2nd Armored
Division) LLPTD do Tướng Philippe Leclerc de Hautelocque chỉ huy,
đổ bộ lên Normandie ngày 1/8/1944 phối thuộc Tập đoàn I Hoa
Kỳ của Tướng Omar Bradley tiến đánh Paris. Ngày 25/8, Tướng
Đức Dietrich von Cholitz, đầu hàng. De Gaulle vào Paris với
Tướng Leclerc. Hôm sau, ngày 26/8/1944, LLPTD diễn binh ở Champs
Elysées. Cuối cùng, ngày 29/8/1944, Anh Quốc và Hoa Kỳ cùng
thừa nhận LLPTD. Ngày 10/9/1944, LLPTD thành lập Chính phủ
Lâm thời Cộng Hoà Pháp Quốc với de Gaulle là Thủ tướng.
Sau đó, liên quân Đồng Minh tiến đánh vào lãnh thổ Đức.
Ở mặt trận “phía Đông” quân Liên Xô Nga tiến nhanh hơn quân
Đồng Minh ở mặt trận phía “Tây”. Nằm trong cánh quân này,
Tập đoàn I Pháp hơn 320,000 quân của Tướng Jean de Lattre
chiếm nhiều vùng lãnh thổ của Đức. Quân Đức khắp các mặt
trận thu hẹp và tan rã dần. Chắc chắn sẽ chiến thắng, lúc
đó Đồng Minh Hoa Kỳ-Anh-Liên Xô Nga dự định họp ở Yelta để
quyết định chia cắt nước Đức và phân vùng ảnh hưởng và
quản chính các lãnh thổ bị quân Đức Quốc Xã chiếm đóng
và của chính lãnh thổ Đức cho các lực lượng Đồng Minh,
đồng thời quy định cơ chế Tổ chức Liên Hiệp Quốc (United
Nations). Thứ ba, dù là Thủ tướng Pháp, de Gaulle không được
Đồng Minh Hoa Kỳ-Anh-Nga mời tham dự Hội nghị Yelta tháng
2/1945. Trước đó, Roosevetl yêu cầu Churchill và Stalin không
mời de Gaulle vì sự hiện diện của ông này chỉ thêm rắc rối
và không thích nghi. (10) Tuy vậy, trong hội nghị này,
Churchill viện nhiều lý lẽ giúp cho Pháp được chia vùng
quản chính một phần lãnh thổ nước Đức và Thủ đô Berlin
đồng thời trở thành một trong năm “Uỷ viên Thường trực”của
Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc có quyền “phủ quyết”. Nhưng
không lâu sau đó, chính Churchill cho rằng de Gaulle là kẻ
phản bội và là kẻ thù nguy hiểm nhất của Anh quốc. (11)
Đầu tháng 5/1945, quân Đồng Minh bao vây Thủ đô Berlin của Đức
Quốc Xã, Hitler tự sát. Ngày 8/5/1945 Đức đầu hàng vô điều
kiện. Trước đó, ngày 12/4/1945, Tổng thống Roosevelt từ
trần. Người kế vị, Tổng thống Harry S. Truman cũng gặp phải
sự đối dầu cứng rắn của de Gaulle. Truman ngán ngẩm de
Gaulle và dùng danh từ nặng với ông này. (12) Viện trợ cho
Pháp theo kế hoạch Marshall cũng hạn chế. Vì vậy, de Gaulle
căm hận Hoa Kỳ lẫn Anh, chờ dịp trả hận. Chính quyền Pháp
ở Đông Dương tiếp tục bị cô lập. Thứ tư, ba cường quốc Hoa
Kỳ, Anh và Liên Xô họp Hội nghị Potsdam tháng 7/1945 quyết
định về lãnh thổ Việt Nam sau chiến tranh, cũng không mời de
Gaulle tham dự. Trong hội nghị, Đồng Minh quyết định chia đôi
Việt Nam: Lực lượng Quốc Dân Đảng Trung Hoa được uỷ nhiệm
giải giới quân Nhật phía bắc Vĩ tuyển 16. Lực lượng Hoàng
gia Anh ở Viễn Đông phụ trách phía nam vĩ tuyến này. Như
vậy Đồng Minh quyết định chấm dứt vai trò Pháp ở Việt Nam
mà không cần cho Pháp biết. Điều này là một sĩ nhục lớn
cho Pháp làm de Gaulle nổi giận dữ dội. Ông này tuyên bố
“Pháp đã từng đổ máu trên chiến trường Việt Nam, nhất
quyết Pháp sẽ trở lại Việt Nam.” (13) Chẳng những đã thực
hiện lời hứa mà nhiều dịp sau đó de Gaulle còn gián trả
cho các... ân nhân Anh và Hoa Kỳ những đòn chính trị và
ngoại giao đau điếng mà các thế hệ kế tiếp không thể quên.
Chỉ riêng Việt Nam phải nhận chịu cuộc chiến đẫm máu sau
đó. Đất nước Việt Nam nhược tiểu nhiều lần bị các thế
lực cường quyền chia cắt. Dân Việt bị áp bức từ mọi phía,
chia rẽ và thù hận nhau triền miên.
III. Cuộc Chiến Uỷ Nhiệm Có Từ Bao Giờ Ở Việt Nam?
Đoạn dẫn sử trên đây cho thấy, cho đến ngày 9/3/1945, Nhật
đã triệt tiêu chính quyền Pháp ở Đông Dương và vì sao chính
quyền này bị Đồng Minh Anh–Hoa Kỳ cô lập. Các thế lực Cộng
Sản Quốc tế, Cộng Sản Trung Hoa, Lực lượng Quốc Dân Đảng
Trung Hoa, Lực lượng Hoàng gia Anh và Quân lực Hoa Kỳ chưa
từng bước vào Việt Nam. Nhưng không lâu sau đó, tất cả đều
đã trực tiếp hay gián tiếp vào và tạo nên một cuộc chiến
mới không kém khốc liệt gây nên những hậu quả tang thương
kéo dài trong nhiều thập niên sau đó. Riêng dân tộc Việt Nam
thì cuộc chiến đó tạo ra vết thương trầm trọng trong lòng
mọi người của nhiều thế hệ. Một vết thương không thể lành
mà vẫn âm ỉ loang máu.
Cũng nhắc lại hôm sau ngày Nhật đảo chánh 9/3/45 Đại sứ
Nhật vào triểu đình Huế diện kiến nhà Vua Bảo Đại. Ngày
11/3/1945, Nhà Vua triệu cuộc họp khẩn với Cơ Mật Viện.
Triều đình Huế ra tuyên ngôn huỷ bỏ Hiệp ước Patenote 1884,
và khôi phục chủ quyền Việt Nam. Học giả Trần Trọng Kim
được mời lập nội các. Ngày 17/4/1945, nội các thành lập
gồm những nhà trí thức yêu nước có thực tài. Nhiều sử gia
cho rằng đây là nội các trí thức đầu tiên của một quốc gia
thực hiện rõ nét những bước tiến dân chủ căn bản cho Việt
Nam. Chính phủ Trần Trọng Kim quyết định những cải tổ quan
trọng như: lập qui cho một nền hành chính chính xác, mẫu
mực và áp dụng một nền giáo dục tiến bộ, khoa học, làm
nền tảng cho tất cả các chính phủ Miền Nam sau này trong
Đệ I và Đệ II Cộng Hoà. Đổi quốc hiệu là “Đế Quốc Việt
Nam” gọi gọn là Việt Nam; tuy vẫn giữ bài “Đăng Đàn Cung”
làm quốc ca, nhưng đổi quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ; sọc ở
giữa khuyết một đoạn ngắn tạo cho ba sọc đó thành hình
“quẻ ly” --phương Nam-- trong Bát Quái theo Kinh Dịch (ngày
2/6/1948, ở Hồng Kông, trước sự hiện diện của các nhân sĩ
và trí thức mời Ông về chấp chánh, Cựu hoàng Bảo Đại vẽ
nối đoạn gẫy ở sọc đỏ giữa thành ba sọc liền. Chính phủ
QGVN cũng nghe theo lời khuyên của Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn
chọn bài “Thanh niên Hành khúc” của Lưu Hữu Phước đổi tên
thành “Quốc gia Hành khúc” làm quốc ca). Sau ngày 30/4/1975
người tị nạn cộng sản Việt Nam đưa quốc kỳ (bài quốc ca)
theo khắp nơi trên thế giới với tình yêu vô bờ. Tiếc thay
Chính phủ Trần Trọng Kim bị Nhật kềm chế, không có Bộ
Quốc phòng, không lập quân đội, nên đánh mất thời cơ hưng
quốc và kiến quốc trong tay những người Cộng sản. Nổ lực
cứu đói cho miền Bắc mùa hè năm đó gặp trở ngại lớn lao
là thiếu phương tiện chuyên chở gạo từ miền Nam ra Bắc; vả
lại Nhật thu tóm hầu hết lúa gạo khắp các nơi, kể cả
việc phá huỷ các cánh đồng lúa ở miền Bắc, lấy đất
trồng loại cây đay.
Chỉ bốn tháng sau, ngày 6/8 và ngày 9/8/1945, Không lực Hoa
Kỳ thả hai quả bom nguyên tử trên Hiroshima và Nagasaki. Ngày
10/8 Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Ở Việt Nam, ngày
14/8 quân Nhật bất động, chờ quân Đồng Minh vào giải giới.
Ngày 17/8 nhân một cuộc biểu tình của Tổng hội Công chức
và Giáo giới ở Nhà Hát lớn Hà Nội để ủng hộ Chính phủ
Trần Trọng Kim, các phần tử cộng sản (lúc đó gọi là Việt
Minh) lợi dụng mang cờ đỏ sao vàng và tung hô khẩu hiệu,
biến cuộc biểu tình đó thành cuộc biểu tình của Việt
Minh. Chính quyền địa phương bất lực. Từ ngày 19/8 đến ngày
23/8/1945, Việt Minh cướp cơ sở hành chính của chính phủ, ở
miền Bắc lẫn miền Nam. Sử ghi là “Việt Minh cướp Chính
quyền”. Ngày 23/8 Chính phủ Trần Trọng Kim giải tán. Ngày
26/8 Hồ Chí Minh và đơn vị võ trang tuyên truyền của Võ
Nguyên Giáp từ Tân Trào, Tuyên Quang, về Hà Nội. Ngày
28/8/1945, ở Huế, nhà Vua Bảo Đại tuyên chiếu thoái vị với
câu nói thực cảm động:“Trẫm để hạnh phúc của toàn dân trên
ngai vàng của Trẫm. Trẫm thà làm dân một nước độc lập còn
hơn làm vua một nước nô lệ.”(14) Ngày 2/9/1945, ở vườn hoa Ba
Đình, Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập và trình diện
“Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà”.Việt Minh
nhanh chóng thành lập chính quyền ở khắp nơi, từ tỉnh
thành đến huyện xã, với các “uỷ ban hành chính” và đơn vị
“du kích”. Nhưng chưa đầy một tuần sau, nỗi lo sợ khủng
khiếp bao trùm cả nước. Tao loạn bắt đầu. Những cuộc bắt
bớ và xử tử công khai hay âm thầm các phần tử mà Việt Minh
gọi là “Việt Gian” trở thành nỗi lo sợ lớn lao của của
mọi gia đình từ thành thị tới thôn quê, từ Bắc chí Nam.
Lúc bấy giờ người dân thường chỉ biết Việt Minh là cộng
sản. Sự hiểu biết đơn giản này lại rất đúng. “Việt Minh”
là tên gọi tắt của một tổ chức chính trị vũ trang “Việt
Nam Độc Lập Đồng Minh Hội” còn gọi là “Mặt trận Việt Minh”
do đảng “Cộng Sản Đông Dương” thành lập ngày 19/5/1941. Đảng
Cộng Sản Đông Dương lại do Hồ Chí Minh thành lập năm 1930.
Vì vậy Việt Minh là thứ vũ khí lợi hại của CSVN, nói rõ
hơn là của Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo đảng CSĐD.
Riêng ở Sài Gòn, Trần văn Giàu, một người cộng sản nổi
tiếng, thành lập “Ủy ban Hành chánh Nam Bộ”.
Ở thời điểm đó, Quyết nghị Potsdam của Đồng Minh được thi
hành. Ngày 18/8/1945, Quân đoàn Lư Hán của QDĐ/TH vào miền
Bắc Việt Nam. Ngày 13/9/1945, Sư đoàn Gurka của Anh do Tướng
Douglas Gracy chỉ huy vào miền Nam, có một đại đội nhảy dù
Pháp vào theo. Tướng Gracey đóng quân ở Sài Gòn, ra lệnh mở
cửa các trại giam thả tất cả người Pháp bị Nhật giam giữ
và trang bị vũ khí cho họ. Như vậy, ở Sài Gòn Pháp đã có
một lực lượng võ trang nhỏ. Ở các tỉnh, Việt Minh vẫn nắm
chính quyền, tập du kích, tiếp tục bắt giữ và xữ tội
“Việt Gian” và tổ chức “tuần lễ vàng” thu vàng bạc của
thị dân để ủng hộ kháng chiến...
Trong giai đoạn này, từ tháng 8 đến tháng ̣9, năm 1945, Đồng
Minh Anh-Hoa Kỳ có những thay đổi sách lược quan trọng về
cục diện thế giới: sau khi khối trục Đức-Ý-Nhật đầu hàng
và tan rã... Liên Xô Nga để lộ rõ bộ mặt “Đế quốc Mới”
bành trướng lãnh thổ rộng lớn, xâm chiếm các nước Đông Âu,
đồng thời chủ trương xích hoá thế giới, do đó ở Âu Châu
lẫn Á Châu, Anh và Hoa Kỳ cần sự hợp tác thực sự của
Pháp để cùng ngăn chặn làn sóng đỏ QTCS đang lan tràn khắp
nơi. Nên “Hiến Chương Đại Tây Dương” công bố ngày 14/8/1941 của
Anh và Hoa Kỳ, trong đó điều khoản đầu tiên đề cập đến
quyền tự trị của mọi dân tộc, tạm thời bị bỏ quên. Ngày
24/8/1945 Tổng thống Harry Truman thay đổi thái độ, đón tiếp
de Gaulle ở Washington và hứa trong mọi trường hợp không
chống lại chính quyền và quân đội Pháp trở lại Đông Dương.
(15) Lúc đó, Thủ tướng của Anh quốc là Clement Attlee, đảng
Lao Động (Labour Party), để cho Lực lượng Hoàng gia Anh ở
Viễn Đông tái lập chính quyền trên các thuộc địa cũ ở
Viễn Đông. Hoa Kỳ trở lại Phi Luật Tân. Vì Hội nghị Potsdam
đang được thực thi nên Anh và Hoa Kỳ ngầm giúp cho Pháp mang
quân trở lại Việt Nam. Nếu Pháp đánh được cộng sản ở Việt
Nam, chiếm lại được Đông Dương sẽ trở thành “lá chắn” cho
Anh- Hoa Kỳ vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương. Quan niệm
về “chiến tranh uỷ nhiệm” hình thành. “Đế quốc Mới Cộng
Sản Quốc Tế (the New International Communist Empire) và “Thế
giới Tư bản Tự do” (the Capitalist Free World) va chạm nhau về
tư tưởng, về thể chế chính trị, về quyền lợi kinh tế và
lãnh thổ, nên các quốc gia nhược tiểu sẽ là những vùng
đất bị tranh chấp. Sách lược khôn ngoan nhất của cả hai
khối là gầy dựng thế lực bản điạ đánh nhau thay họ. Ngay
như Pháp, từng là thế lực hùng cường trước đó nhưng sau
thế chiến đất nước bị tàn phá, nghèo, và yếu kém mà tham
vọng lớn, nên cũng bị đưa vào thế bất khả từ. De Gaulle,
vì cần tiền để tái thiết đất nước là nhất là để thực
hiện lời tuyên bố của mình nên đã trở lại Đông Dương trong
vai trò của một thế lực thực dân cũ vừa là một thế lực
được uỷ nhiệm đánh thuê, hiểu ngầm là sách lược mới của
Đồng Minh Anh-Hoa Kỳ. Việt Nam chiếm vị trí chiến lược quan
trọng ở vùng Đông Nam Á đã trở thành tiền đồn của Thế
giới Tự do. Ngay khi Nhật đầu hàng, de Gaulle đã bổ nhậm Đô
đốc Georges Thierry d’Argenlieu làm Cao uỷ Đông Dương và Đại
tướng Jacques Phillipe Leclerc de Hautecloque làm Tư lệnh Quân
đoàn Viễn chinh Pháp (Corps Expéditionnaire Francais
d’Extrême-Orient -CEFEO) vào Việt Nam trước tiên. Quân đoàn này
được Tư lệnh Lực lượng Hoàng gia Anh ở Viễn Đông, Đô đốc Sir
Mountbatten, trang bị và giúp phương tiện chuyên chở đã đổ
bộ tái chiếm Sài Gòn ngày 21/9/1945.
Thời điểm đó có những sự kiện đáng lưu ý: Ở miền Bắc,
khi Hồ Chí Minh và đơn vị võ trang của Võ Nguyên Giáp về
Hà Nội còn có đơn vị tình báo võ trang Hoa Kỳ, Toán “Deer
Team” hay “Team OSS-202” (OSS: Office of Strategic Services, tiền
thân của CIA --Central Intelligence Agency) do Thiếu tá
Archimedes Patti chỉ huy, cùng vào theo. Ở miền Nam, ngày
4/9/1945, một đơn vị tình báo võ trang khác, Toán OSS-404
(OSS Team-404) nhảy dù vào vùng phụ cận Sài Gòn giải thoát
hơn 200 binh sĩ Hoa Kỳ bị Nhật bắt làm tù binh trước đó.
Một tuần sau, Thiếu tá Peter Dewey chỉ huy toán OSS này bị
du kích Việt Minh phục kích giết chết. Tháng 12/1945, cả hai
Toán OSS-202 ở Hà Nội và OSS-404 ở Sài Gòn đều rút khỏi
Việt Nam. Từ đó, Hoa Kỳ không tiếp xúc với Chính phủ Hồ
Chí Minh. Tất nhiên Archimedes Patti chỉ huy Toán OSS-202 --và
các sĩ quan khác trong toán-- từng huấn luyện cho trung đội
võ trang tuyền truyền đầu tiên của Võ Nguyên Giáp ở Pác Bó
và từng sống chung với Hồ Chí Minh ở đó, hiểu rõ đơn vị
Việt Minh này là cộng sản và Hồ Chí Minh là lãnh tụ cộng
sản.
Bảy thập niên sau, trong một bài viết nhìn lại thời điểm
đó, một tiến sỉ CSVN cho rằng đáng lẽ cuộc chiến Việt Nam
“không thể có” vì nhiều lần Hồ Chí Minh gởi thơ và công
hàm cho Tổng thống Truman tỏ thiện chí muốn “hợp tác toàn
diện” với Hoa Kỳ, nhưng không được đáp ứng... Luận điểm
chính là nếu Hoa Kỳ công nhận chính phủ Hồ Chí Minh, Pháp
không thể trở lại Việt Nam, sẽ không có chiến tranh. Nhận
định này non nớt. Ở thời điểm đó Đồng Minh Hoa Kỳ-Anh đang
thành lập các khối liên minh quân sự –như khối Bắc Đại Tây
Dương (NATO, North Atlantic Treaty Organization) để ngăn cản sự
bành trướng của CSQT ở Âu châu thì làm sao công nhận và yểm
trợ một nước cộng sản mới hình thành... dù bất cứ ở đâu.
Vả lại, làm sao mà Truman và Attlee kềm chế nổi tham vọng
của de Gaulle? Chiến tranh không thể tránh. Tốt hơn lợi dụng
Pháp, cung cấp tài chính, quân bị và chiến cụ để Pháp
đánh CSQT ở Đông Dương... làm lá chắn cho mình ở Đông Nam Á
và Nam Thái Binh Dương là thượng sách.
IV. Lãnh Tụ Và Chế Độ
Đầu tháng ̣9/1945, Anh và Pháp ký hiệp ước song phương, Anh
công nhận chính quyền thuộc địa Pháp ở Nam Kỳ và một số
tỉnh ở nam Trung Kỳ nên khi Quân đoàn Viễn chinh Pháp đổ vào
Sài Gòn, quân Anh rút đi trong tháng ̣đó.
Chỉ hai ngày sau khi QĐVC của Leclerc vào Sài Gòn, Trần văn
Giàu đổi tên “Uỷ ban Hành chánh Nam Bộ” thành “Uỷ ban Hành
chánh Kháng chiến Nam Bộ.” Bộ đội du kích của Nguyễn Bình,
phụ tá của Giàu, đụng một vài trận nhỏ với quân Pháp
trong thành phố Sài Gòn. Ngày 23/9/1945, Trần văn Giàu tuyến
bố “tiêu thổ kháng chiến” và rút vào An Phú Đông, gầy dựng
thêm lực lượng ̣đánh du kích chiến. Các “Uỷ ban Hành chánh
Kháng chiến” ở các tỉnh, huyện theo gương. Nhiều nơi du kích
Việt Minh đốt chợ búa, phố phường và nhà cửa dân chúng
rồi rút vào vùng sâu hoang vắng --gọi là bưng biền. Sách
lược này, Giàu rút kinh nghiệm từ quân đội CS Nga ở Đệ II
Thế Chiến chống quân Đức. Ở trong Nam, thời kỳ đó có bài
hát với câu mở đầu“Mùa Thu này, ngày hăm ba, ta đi theo
tiếng kêu sơn hà nguy biến...” kích động nhiều người yêu
nước, nhất là thanh niên và học sinh, vào “bưng biền” kháng
chiến cứu quốc. Chỉ ít lâu sau, đa số trốn chạy Việt Minh
về với gia đình. Chiến tranh đã diễn ra ở miền Nam trước.
Dân thường lo sợ bỏ thành thị, bỏ nhà cửa, tản cư... chạy
giặc. Họ sợ Việt Minh lẫn Pháp. Đêm đêm thấp thỏm sợ du
kích Việt Minh bắt cóc, ám sát hay cho “mò tôm --là thủ
đoạn du kích giết người bằng cách trói tay chân nạn nhân
buộc đá thả cho chìm xuống đáy sông, ngộp nước... chết
dần. Ngày ngày thì trông chừng tin tức và tiếng... súng
rồi chạy trốn. Tản cư, tản cư... dài dài trước những cuộc
bố ráp của quân Pháp xuống các tỉnh, nhất là các tỉnh
miền Tây, dân tản cư sợ nhất là bị Thổ cáp-duồn. Thổ gặp
dân ở đâu chém đó bằng mã-tấu, bất kể già trẻ bé lớn.
“Thổ” là lính của các đơn vị “partisans” người Miên ở các
tỉnh miền tây Nam Kỳ, do Pháp thành lập. Chúng dẫn đường
cho các đơn vị lính lê dương của Pháp – Légionnaires, đa số
là lính Phi Châu-- hành quân, tiếng bình dân gọi là “đi
ruồng” hay “đi bố ráp” sâu trong đồng quê, thôn xóm, làng
mạc. Gia đình nào chạy không kịp thì đàn ông bị bắn hay
chém chết, đàn bà con gái bị hảm hiếp tập thể, chết lên
chết xuống; trẻ con bị... đập đầu, bẻ cổ giết chết. Khổ
sở trăm bề. Dân tản cư rất sợ hai chữ-kép, một của Việt
Minh là ”Việt-gian”; một của Thổ, lính Pháp, là “cáp-duồn”
hay chặt đầu. Chữ nào cũng đem lại cái chết hãi hùng.
Quân đoàn Viễn chinh Pháp đánh chiếm các tỉnh miền Nam và
tiến chiếm cao nguyên miền Trung. Pháp cũng đã thu phục được
Cao Miên và Lào bằng thương lượng không tốn viên đạn nào.
Đầu năm 1946, trong Nam, Cao uỷ Đông Dương d’Argenlieu thay đổi
sách lược, kêu gọi dân chúng hồi cư, đồng thời ra nghị định
cho Nam Kỳ thành lập “Chính Phủ Nam Kỳ Tự Trị”--CP/NKTT
(République Autonome de Cochinchine). Từ khi ép buộc nhà
Nguyễn ký Hoà ước Patenote năm 1884, thực dân Pháp vẫn coi
Nam Kỳ là xứ tự trị. Đầu năm 1946, sau khi đạo quân viễn
chinh trở lại Việt Nam, Pháp lập lại ý đồ cắt miền Nam
trù phú ra khỏi Việt Nam. Trước hoàn cảnh ly loạn, chết
chóc, phố thị tiêu điều, nhà trống người không, ruộng đồng
hoang phế, có những nhà trí thức Nam Kỳ muốn đem lại sự
bình yên cho xứ sở và quần chúng bằng giải pháp ôn hoà nên
chấp nhận tham gia chính phủ tự trị rồi sẽ tiến dần đến
những giải pháp khác. Nhân sĩ đầu tiên nhận lập nội các
CP/NKTT là Bác sĩ Nguyễn văn Thinh, du học và tốt nghiệp ở
Pháp. Nội các thành lập ngày 26/3/1946, Bác sĩ Thinh là
thủ tướng với tám bộ trưởng, một thứ trưởng an ninh và
công an Thủ đô Sài Gòn, và một cố vấn. Bên cạnh chính phủ
là Hội Đồng Nam Kỳ lúc đó đã từ 12 lên đến 42 người. Bên
trong hình như có sự hứa hẹn nào đó của Cao uỷ Pháp
d’Argenlieu và Uỷ viên Công hoà Pháp ở Nam Kỳ Jean Cedile
(“Commissaire République,” thay chức “Gouverneur”cũ --gọi là
Thống đốc hay Thống sứ) với Bác sĩ Thinh. Một thời gian
sau, biết mình bị lường gạt, bội tín, nhưng trước cường
quyền thực dân, không thể làm được gì hơn cho đồng bào,
ngày 10/11/1946 Bác sĩ Thinh tự vẫn chết. Phải chăng đây là
trường hợp của một Phan Thanh Giản thứ hai? (16) Bác sĩ Lê
văn Hoạch thay thể.
Trong thời gian đó, ở miền Bắc Việt Nam, từ khi Quân đoàn Lư
Hán đổ vào, đã trở thành gánh nặng và sự lo lắng lớn lao
cho Chính phủ VNDCCH của Hồ Chí Minh. Một là phải cung
phụng lương thực cho đoàn quân 200,000 người rất phức tạp
này. Sau khi bị nạn đói mùa hè năm 1945, trên 2,000,000 người
chết, miền Bắc kiệt quệ. Hai là mối tâm hoạn của Hồ: lo
sợ các đảng quốc gia Việt Nam từ Hoa Nam trở về, được
QDĐ/TH yểm trợ, gầy dựng lực lượng sẽ gây nguy hiểm cho lực
lượng Việt Minh và đảng Cộng Sản Đông Dương. Thực vậy,“Việt
Nam Quốc Dân Đảng” (Việt Quốc) của Vũ Hồng Khanh và hai
đảng quốc gia có uy tín khác là “Đại Việt Quốc Dân Đảng”
của Trương Tử Anh và “Đại Việt Dân Chính Đảng”của Nguyễn
Tường Tam, liên kết thành một mặt trận gọi là “Mặt Trận
Quốc Dân Đảng Việt Nam” đã về miền Bắc Việt Nam đồng thời
với “Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội” (Việt Cách) của
Nguyễn Hải Thần. Một đảng quốc gia khác là “Đại Việt Duy
Tân Cách Mệnh Đảng”của Lý Đông A thành lập cơ sở và lực
lượng vũ trang ở Hà Nam, Nam Định và Hoà Bình. Việt Cách
cũng thành lập những đơn vị đáng kể. Hồ Chí Minh và đảng
CSĐD lo sợ nhất là Việt Quốc. Lực lượng của đảng này lên
đến cấp sư đoàn chiếm căn cứ Lào Kay và Sa pa, kiểm soát
hoàn toàn vùng biên giới Hoa–Việt trên Đường Thuộc địa # 4
từ Lai Châu, Lào Kay, Cao Bằng, Lạng Sơn và thành lập bảy
“Khu Chiến” trong toàn quốc. (17) Trước tình thế đó, Hồ Chí
Minh và đảng CSĐD cần thay đổi chiến lược. Nên, ngày
24/2/1945, khi Tướng Tiêu Văn đại diện của Tưởng Giới Thạch
tổ chức cuộc họp tất cả các đảng phái quốc, cộng Việt
Nam ở Sứ quán Trung Hoa tại Hà Nội, yêu cầu Hồ Chí Minh mở
rộng chính phủ cộng sản và lập chính phủ liên hiệp có sự
tham gia của các đảng phái quốc gia và giải tán Đảng Cộng
Sản Đông Dương, Hồ Chí Minh nhượng bộ; tất nhiên, Hồ sợ áp
lực của cánh quân Lư Hán. Ngày 2/3/1945, Chính phủ Liên Hiệp
Kháng Chiến Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (CP/LHKC/VNDCCH) hình
thành có sự tham gia của các lãnh tụ Nguyễn Hải Thần,
Trương tử Anh, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tiến Hỹ,
Nghiêm Kế Tổ, Vũ Hồng Khanh... và các uỷ viên cấp cao các
đảng quốc gia cũng được đưa vào Quốc Hội (70 ghế), vào Cố
Vấn Đoàn, và vào Kháng Chiến Ủy Viên Hội... Một chánh phủ
liên hiệp quốc cộng bấp bênh như con thuyền gỗ rách bươm khi
vận nước tròng trành. Hồ Chí Minh ôm ấp âm mưu tiêu diệt
các lãnh tụ quốc gia khi tạm thời chịu giải tán Đảng Cộng
Sản Đông Dương (thực ra chỉ đổi tên thành “Hội Nghiên Cứu
Chủ Nghĩa Marx”). Ở thời điểm đó các nhà lãnh tụ các
đảng quốc gia thực tâm cộng tác với đảng cộng sản để cùng
chung lo cho nền độc lâp nước nhà, chưa nhìn thấy rõ mục
tiêu chính tiềm ẩn của CSĐD là đấu tranh bạo lực đoạt
chính quyền mở rộng đế quốc mới CSQT và trung thành theo
đuổi chủ nghĩa Mác-Lê.
Ở trong Nam, Tướng Leclerc Tư lệnh QĐVC Pháp sau khi chiếm
được Nam Kỳ và cao nguyên miền Trung muốn mang quân ra miền
Bắc. Từ bắc Vĩ tuyến 16 trở ra miền Bắc, thực tế là vùng
xôi đậu quốc cộng dù Hồ Chí Minh lãnh đạo CP/LHKC/VNDCCH.
Tướng Leclerc chỉ định Jean Sainteny (một sĩ quan tình báo
lỗi lạc, từng chỉ huy Toán Tình báo M-5 hay Mission-5 của
Pháp ở Hoa Nam, cũng từng quan hệ với Archimedes Patti chỉ
huy Toán OSS-202 Hoa Kỳ và Hồ Chí Minh trong thời kỳ hoạt
động ở Côn Minh đầu năm 1945, lúc đó Hồ Chí Minh có thể
được cả hai sĩ quan tình báo này tuyển chọn, nhưng cuối
cùng Hồ cộng tác với Patti, trở về biên giới, lập căn cứ
Tân Trào và lập lưới tình báo ở Việt Nam thu thập tin tức
quân Nhật cho Hoa Kỳ) thương lượng với Hồ về chuyện Pháp để
cho “Việt Nam độc lập” ngược lại Chính phủ Liên Hiệp Việt
Nam đồng ý để cho lực lượng Pháp ra miền Bắc thay thế lực
lượng QDĐ/TH. Trước đó, ngày 28/2/1946, Pháp đã ký với
Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của Tướng Giới Thạch Hiệp ước
Trùng Khánh với hai điều khoản quan trọng: -Pháp trả lại
các tô giới và nhượng địa trên lãnh thổ Trung Hoa và để cho
Trung Hoa một số quyền lợi ở miền Bắc Việt Nam; - ngược
lại, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc rút quân ra khỏi Bắc Việt
Nam và đồng ý cho quân Pháp vào thay thế. Sainteny tạo một
cơ hội bằng vàng cho Hồ Chí Minh thực hiện âm mưu tiêu diệt
các đảng quốc gia. Hồ Chí Minh đồng ý đề nghị “độc
lập”của Pháp và khuyến dụ Vũ Hồng Khanh, thủ lãnh VNQDĐ,
cùng ký “Hiệp ước Sơ bộ” ngày 6/3/1946 với Jean Sainteny là
người đại diện chính thức của Pháp. Văn bản dự thảo hiệp
ước sơ bộ được chính Cao uỷ Đông Dương d’Argenlieu đọc từng
chữ trước khi Sainteny ký với Hồ và Khanh. (18) Theo các
điều khoản của hiệp ước, Pháp công nhận Việt Nam là quốc
gia độc lập trong Liên Bang Đông Dương; ngược lại Chính phủ
LHKCVN để cho 15,000 quân Pháp thay thế 20 vạn quân của QDĐ/TH
ở miền Bắc; thực hiện ngưng bắn ở miền Nam. Quan trọng
nhất là hiệp định sơ bộ có hiệu lực thi hành ngay sau khi
ký. Như vậy vấn đề “độc lập” của Viêt Nam còn phải bàn
cãi thêm nhưng việc Pháp đem quân ra miền Bắc được thực hiện
ngay trong ngày 6/3/1946. (19) Thực vậy, Leclerc chỉ định
Tướng Jean Etienne Valluy đưa một cánh quân lớn của Quân Đoàn
Viễn Chinh Pháp danh chính ngôn thuận đổ bộ lên Hải Phòng
và tiến vể Hà Nội chờ quân của Lư Hán rút quân dần ra
khỏi Bắc Việt. Trong khi đó thì Hồ Chí Minh cho thành lập
phái đoàn của Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến đàm phán
với phái đoàn Pháp ở Đà Lạt trong tháng 5/1946. Đây là
phái đoàn liên hiệp duy nhất với thành phần chính gồm 12
đại biểu là những trí tuệ lớn Việt Nam thuở đó, do Nguyễn
Tường Tam, Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ LHKC/VNDCCH
làm trưởng phái đoàn, Võ Nguyên Giáp làm phó. Ngoài ra còn
có “Uỷ Ban Giám Định và Cố Vấn” gổm 12 nhà trí thức nữa
tham vấn. Phái đoàn Pháp do André Max làm trưởng phái đoàn
và 11 thành viên khác. Hội nghị diễn ra từ sáng ngày
19/4/1946 đến 11/5/1946, không đạt được một hiệp ước thoả
đáng. Lý do dễ hiểu là Pháp chưa muốn trả độc lập cho
Việt Nam, ngược lại chỉ muốn chiếm lại toàn bộ thuốc địa
cũ của họ. Hội nghị kết thúc với quyết nghị Việt- Pháp
sẽ đàm phán lại về độc lập của Việt Nam ở Fontainebleau
Pháp, tháng 7/1946.
Lần này, Hồ Chí Minh chỉ định Phạm văn Đồng làm trưởng
phái đoàn các thành viên cộng sản. Ngày 6/7/1946, Phái đoàn
của Đồng sang Pháp. Hồ Chí Minh cùng đi chung. Hồ Chí Minh
đi Pháp để làm gì? Phải chăng để lánh mặt sau khi ra mật
lệnh cho thủ hạ tiêu diệt tất cả lãnh tụ và các đảng
phái quốc gia --mối tâm hoạn của Hồ-- trong CP/LHKC. Trong số
những lãnh tụ các đảng phái quốc gia có những vị mà Hồ
mang ơn vì được họ che chở và cũng từng thực tâm chấp nhận
để cho Hồ mang cả tổ chức theo về cộng tác với mục đích
duy nhất là cùng nhau đánh thực dân thu hồi độc lập cho đất
nước và dân tộc. Nhưng là lãnh tụ cộng sản được Đệ III
CSQT đào tạo tại Mạc Tư Khoa, Hồ chỉ biết phục vụ cho “mặt
trời lý tưởng” của ông là chủ nghĩa Công sản Mác-Lê. Dù
phải thanh toán những ân nhân cũ, các lãnh tụ quốc gia
thành tâm nhưng thiếu bản lĩnh, để độc quyền tiến hành sứ
mệnh được các quan thầy giao phó là xích hóa đất nước, và
“giải phóng giai cấp” trên quan điểm vô sản, Hồ cũng làm.
Dân tộc là thứ yếu, tất nhiên Hồ phải dẹp sạch các trở
lực cản ngăn bước tiến của mình. Giết lãnh tụ, tiêu diệt
các đảng phái quốc gia từng bao dung Hồ khi còn trên đất
Tàu từ thập niên trước, và hợp tác với Hồ trong chính phủ
liên hiệp mới đó, ít ra Hồ Chí Minh không tự vấn và tự
dối lương tâm: “thà phản bạn hơn là phản thầy”. Vả lại,
những lãnh tụ các đảng phái quốc gia chỉ lo giành độc lập
dân tộc đâu phải là bạn của Hổ Chí Minh và đảng CSĐD; họ
là kẻ thù tư tưởng và giai cấp, cần thanh toán. Trong hơn
hai tháng –từ tháng 7 đến tháng 9/1946-- Hổ Chí Minh lánh
mặt ở Pháp thì ở Việt Nam, cuộc triệt hạ các đảng phái
quốc gia đã diễn ra đẫm máu bởi các đệ tử của Hồ. Cuộc
triệt hạ này đại qui mô, có kế hoạch và sự phối hợp của
lực lượng viễn chinh Pháp. Ngoài Bắc, bộ đội Võ Nguyên
Giáp phối hợp và dẫn đường cho lực lượng viễn chính Pháp
hành quân phối hợp tiêu diệt hoàn toàn các căn cứ võ trang
của các đảng phái khác ở khắp nơi – nhất là các căn cứ
địa đóng quân của Việt Nam Quốc Dân Đảng trên Đường Thuộc
địa # 4 ở biên giới Hoa-Việt, từ Lai Châu, Lào Kay qua Cao
Bằng đến Lạng Sơn. Quân QDĐ/TH không can thiệp vì hiệp ước
đã ký với Pháp tháng 2/1946. Trong nội thành Hà Nội, CSVN
vu khống các đảng phái quốc gia đã lập kế hoạch phá hoại
“cuộc diễn binh của lực lượng Pháp ở Hà Nội ngày lễ Độc
Lập 14/7 của Pháp”, như vậy là phá hoại tình hữu nghị của
Việt–Pháp và cuộc họp ở Fontainebleau. (20) Ngày 12/7/1946,
Trường Chinh Đặng Xuân Khu, Tổng bí thư đảng CSĐD và Võ
Nguyên Giáp, Bộ trưởng Nội vụ CP/LHKC, ra lệnh cho các đơn
vị công an Việt Minh tạo ra “Vụ án Ôn Như Hầu” đồng loạt
tấn công các trụ sở công khai của các đảng quốc gia: trụ
sở Việt Nam Quốc Dân Đảng của Vũ Hồng Khanh số 7, Đường Ôn
Như Hầu; trụ sở Đại Việt Quốc Dân Đảng của Trương Tử Anh,
số 132 Đường Duvigneau; trụ sở Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh
Hội của Nguyễn Hải Thần, số 80 Đường Quan Thánh. Các cuộc
tấn công này Việt Minh triệt hạ hầu hết đảng viên trung ương
của các đảng đó. Đặc biệt là các toán hành động của
Việt Minh tấn công trụ sở của VNCMĐMH Đường Quan Thánh được
chiến xa và đơn vị Pháp phối hợp yểm trợ mà các tài liệu
CSVN gọi là “can thiêp”. Đồng thời các trụ sở của Đại Việt
Dân Chính Đảng của Nguyễn Tường Tam và Đại Việt Quốc Gia
Xã Hội Đảng của Nguyễn Xuân Tiếu cũng chịu chung số phận.
Những thành phần của các đảng phái quốc gia công khai tham
gia chính phủ liên hiệp, trong quốc hội và trong uỷ hội
kháng chiến cũng bị Việt Minh thủ tiêu hay bắt giữ. Chính
phủ LHKC tất nhiên bị CSVN đập nát từng mảnh. Thủ lãnh các
đảng nổi tiếng như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyền
Tường Tam chạy thoát được sang Trung Hoa. Trương Tử Anh mất
tích, chắc chắn bị Việt Minh thủ tiêu. Ở vùng Hoà Bình và
Ninh Bình, Đại Việt Duy Tân Cách Mệnh Đảng của Lý Đông A
–hay Trần Khắc Tường-- cũng bị Viêt Minh đánh tan rã. Lý
Đông A bị giết chết. Ở miền Trung,Trần Huy Liệu và Tố Hữu
thủ tiêu hàng loạt lãnh tụ các đảng nói trên và những nhân
vật quốc gia khác. Ở miền Nam, Trần văn Giàu hạ thủ những
thủ lãnh trí thức Việt Nam nhóm Đệ IV Quốc tế Cộng sản
–hay nhóm “Trotskyst” (những người CSVN theo Đệ IV Quốc tế
của Leiba D. Trotsky, cánh tay mặt của Lenin, tranh chấp quyền
bính với Staline, bị loại trừ, lưu vong và bị ám sát chết
ở Mexico năm1940) như Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Phan văn Hùm,
Dương Bạch Mai, kể cả Giáo chủ giáo phái Hoà Hảo là đức
Thầy Huỳnh Phú Sổ. (21)
Sau trận thanh toán thảm khốc này của Hồ Chí Minh và các
lãnh tụ khác của CSVN, làn ranh quốc||cộng trở thành vết
hằn sâu rộng của hận thù không bao giờ hàn gắn lại được
nữa giữa những người Việt Nam thuở đó và của nhiều thế
hệ kế tiếp. Đến khi đó, những lãnh tụ các đảng phái quốc
gia sống sót đã nhìn rõ bản chất và hành động sắt máu
của những lãnh tụ cộng sản. Chính CSVN đã đẩy những nhà
cách mạng quốc gia chân chính đến cuối con đường thống
nhất, vì họ hoàn toàn khác về tư tưởng chủ đạo, về lập
trường chính trị, về khuynh hướng lập quyền và về hành
động kiến tạo. Một bên dùng bạo lực đấu tranh đoạt chính
quyền để thành lập thể chế toàn trị xã hội chủ nghĩa,
kết thêm một mảng quan trọng cho mạng lưới cộng sản quốc
tế to lớn hơn; họ mang thứ chủ nghĩa cộng sản tàn độc này
nhồi nhét vào đầu những người thiếu tri thức thuở đó và
vào đầu óc các thế hệ tương lai. Hành động đó ghê tởm gấp
trăm lần tội cõng rắn cắn gà nhà. Một bên, vì nền độc
lập quốc gia, vì muốn gieo mầm mống tự chủ với thể chế
dân chủ rộng mở cho dân tộc phát triển, tôn trọng nhân quyền
và quyền sinh sống tự do của con người, dù biết hay không
biết bản chất lật lọng của người cộng sản, nhưng vì quá
chân thật, quá thành tâm, nhất là thiếu bản lĩnh, mà lâm
vào cảnh bị phản bội, bị tàn sát. Tất nhiên những nhà
cách mạng quốc gia sống sót phải tìm con đường khác, những
lãnh tụ khác có uy tín, tái lập đảng để tiếp tục công
cuộc tranh đấu cho độc lập và tự do mà đồng bào mong mỏi.
Ngày 14/9/1945 sau khi Hội nghị Fontainebleau thất bại, Hồ
Chí Minh ở nán lại Paris và nằn nì ký một tạm ước --không
ra gì, chỉ làm lợi cho thực dân Pháp-- với Bộ trưởng Hải
ngoại Pháp Marius Moutet. Trở về Hà Nội trung tuần tháng
9/1946 sau khi các thuộc hạ từ Bắc chí Nam thanh toán gọn
các đảng quốc gia, Hồ Chí Minh thành lập Chính Phủ Liên
Hiệp Quốc Dân (?) ngày 3/11/1946. Về phía quân viễn chính
Pháp, sau khi thiết lập hệ thống căn cứ trên Đường Thuộc
địa # 4 biên giới, chiến hạm Pháp bất thần bắn phá cảng
Hải Phòng ngày 23/11/1946, hơn 6,000 người chết. Trận chiến
kéo vào Hà Nội. Đêm 19/12/1946, Việt Minh tấn công một vài
địa điểm của Pháp ở Hà Nội. Sau đó Hồ Chí Minh và bộ
đội Võ Nguyên Giáp rút lên biên giới Việt Bắc, tuyên bố
trường kỳ kháng chiến. Chiến tranh Việt Nam bắt đầu.
Ở miền Nam, Thiếu tướng quân đội Pháp Nguyễn văn Xuân, Thủ
tướng thứ ba của Chính Phủ Nam Kỳ Tự Trị, bay sang Hồng
Kông ngày 19/12/1946 yết kiến Cựu hoàng Bảo Đại xác nhận ý
định sát nhập Nam Kỳ vào một nước Việt Nam thống nhất và
mời Cựu hoàng về nước chấp chánh. Lần đó Bảo Đại do dự
vì biết rõ tham vọng của thực dân Pháp. Đầu năm 1946, Pháp
thành lập những đơn vị Vệ Binh Nam Kỳ Tự Trị, cấp đại đội
ở các tỉnh (ngày 9/6/1948 đổi tên thành Vệ Binh Nam Việt).
Ngày 12/4/1947, thành lập Việt Binh Đoàn ở Trung Kỳ, và
tháng 7/1948 thành lập Bảo Chính Đoàn ở Bắc Kỳ. Tất cả
các đơn vị này do sĩ quan Pháp chỉ huy. Trong khi đó thì
các nhân sĩ trí thức và các lãnh tụ cũ, mới, của các
đảng quốc gia từng bị CSVN triệt hạ kết hợp lại trong “Mặt
Trận Quốc Gia Thống Nhất” (MTQGTN –The National United Front) ở
Nam Kinh và Sài Gòn. Các đảng quốc gia cũng tái lập và
ngấm ngầm hoạt động ở cả ba miền Bắc, Trung và Nam Việt
Nam với những lãnh tụ trí thức mới. Tháng 3/1948, MTQGTN cử
một phái đoàn gồm những nhân sĩ cách mạng như Ngô Đình
Diệm, Phan Quang Đán, Nguyễn Tường Tam, Đinh Xuân Quảng, Trần
văn Tuyên, Nguyễn văn Sâm sang Hồng Kông gặp và mời Cựu hoàng
về nước lập chính phủ và đề xuất việc đàm phán với Pháp
về độc lập và thống nhất Việt Nam. Cựu hoàng chấp nhận.
Ngày 27/5/1948 Ông điện về Sài Gòn chỉ định Thiếu tướng
Nguyễn văn Xuân làm Thủ tướng Chính Phủ Lâm Thời Quốc Gia
Việt Nam và tiến hành việc đàm phán với Chính phủ Pháp.
“Nam Kỳ Tự Trị” giải tán. Ngày 5/6/1948, Thủ tướng Nguyễn
văn Xuân và Cao uỷ Đông Dương Emile Bollaert ký Thoả ước Vịnh
Hạ Long về thống nhất và độc lập cho Việt Nam. Nhưng Pháp
lần lữa mãi, nên cuộc tranh chấp của phía quốc gia tiếp
tục. Mãi đến ngày 8/3/1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol
mới chịu ký với Cựu hoàng Bảo Đại “Hiệp ước Elysée” gồm
các điều khoản quan trọng là thành lập Quân Đội Quốc Gia
Việt Nam, trả lại quyền nội trị và ngoại giao cho Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia độc lập trong Liên Hiệp Pháp. Ngày
13/6/1949 Bảo Đại về nước với tư cách Quốc trưởng, thành
lập Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam (l’État du Việt Nam) với
chính mình là Thủ tướng. Ngày 29/1/1950, Quốc Hội Pháp
chuẩn thuận Hiệp ước Elysée. Đến lúc đó, khối Đồng Minh
Tự do cho rằng ‘Giải pháp Bảo Đại” là giải pháp chính trị
cần thiết để chính danh giải quyết vấn nạn từ bấy lâu nay
là nền “độc lập của Việt Nam” mà Hồ Chí Minh và Việt Minh
nêu ra làm tiền đề cho cuộc chiến mà họ theo đuổi. Chỉ hơn
một tuần sau, ngày 7/2/1950 Hoa Kỳ công nhận Quốc Gia Việt
Nam và Chính phủ Bảo Đại, Anh và Úc tiếp theo, và sau đó
hơn bốn mươi quốc gia trong khối Tự do.Việt Nam tuần tự trở
thành thành viên của 37 tổ chức chuyên biệt của Liên Hiệp
Quốc. Trước đó, ngày 14/1/1950 Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc,
hay Trung Cộng, chính thức thừa nhận Chính phủ “Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hoà” của Việt Minh dưới sư lãnh đạo của Hồ Chí
Minh. Tiếp theo, ngày 31/1/1950 là Liên Xô; sau đó là các
nước cộng sản khác.
V. Làn Ranh Quốc |I| Cộng Sâu Rộng Và Đẫm Máu
Đến thời điểm đó, rõ ràng một làn ranh quốc|I|cộng đã
vạch ra đậm nét và đẫm máu giữa các lãnh tụ Việt Nam,
giữa các đảng phái quốc gia và đảng cộng sản Việt Nam,
giữa người quốc gia và cộng sản mặc dù đất nước chưa chia
cắt mà lòng người đã dị phân rồi.
Chính phủ QGVN của Quốc trưởng Bảo Đại theo khối Thế Giới
Tự Do chính thức hình thành trên toàn lãnh thổ với Chính
phủ Trung ương và chính quyền Bắc, Trung và Nam Phần (chữ
Kỳ đã đổi thành chữ Phần) gọi là phủ Thủ Hiến. Mỗi Phần
gồm nhiều tỉnh, quận và xã. Bên kia là Chính phủ VNDCCH do
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, chiếm các vùng núi rừng
miền Bắc, miền Trung và các vùng bưng biền miền Nam. Làn
ranh này không vạch rõ trên lãnh thổ mà là vết hằn sâu
hoắm trong trí não, trong tâm hồn, trong tim và mạch máu
lãnh tụ của cả đôi bên, nên họ đã trở thành những kẻ thù
không đội trời chung. Sau đó và sau đó nữa, cuộc đổ máu
kéo dài chỉ là sự chém giết lẫn nhau lặp lại giữa hai phe
cộng sản và quốc gia mà thôi. Kẻ biết mình dâng hiến đánh
thuê cho một thứ chủ nghĩa tam vô ngoại lai thì đã rành
rành, còn những kẻ có tấm lòng chân chính hành động cho
chính lý là nền độc lập và tự do cho đất nước cũng cam
phận bị gọi là người đánh thuê. Đó là sư thật. Những sự
thật não nề, bất khả đối, bất khả biện. Chiến tranh Việt
Nam là như thế đó. Nếu những lãnh tụ cộng sản như Hồ Chí
Minh, Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Võ Nguyên Gíáp, Lê Đức
Thọ biết rõ đã tận tuỵ phục vụ cho CSQT mà nhúng tay vào
máu của dân tộc thì những lãnh tụ các đảng quốc gia như
Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Trương tử Anh, Lý Đông Á,
kể cả Nguyễn Tường Tam, không đủ bản lãnh chính trị để
chống lại nhóm người cộng sản nói trên. Người ta hi vọng
vào giải pháp Bảo Đại. Vị Cựu hoàng này nhân hậu nhưng
chứng tỏ là một lãnh tụ nhận thức sáng suốt về thời
cuộc, không hành động vội vàng, không vọng động, không muốn
thấy đồng bào của mình đổ máu, nên đã chọn đường lối
hành xử ôn hoà và sách lược hợp lý ở thời điểm đó để
thu hồi độc lập bằng tranh đấu chính trị với người Pháp
theo xu thế thời đại khi các nước Hoa Kỳ, Anh, và Âu châu
khác trả độc lập cho các thuộc địa. Sách lược này tuy
không so được với sách lược “đấu tranh bất bạo động” của
Morandas R. Gandhi (1869-1948) tranh đấu cho nền độc lập của
Ấn Độ lúc đó, tuy nhiên không phải là không chính đáng.
Bằng cách nào đi nữa, với Hiệp ước Elysée, Cựu hoàng trở
thành Quốc trưởng của một quốc gia độc lập và tạo một
thế cân bằng chính trị đối lập của thế giới tự do trên
đất nước Việt Nam chống lại sự bành trướng cuả CSQT và
chủ nghiã Mác-Lê vô sản, vô thần và vô tổ quốc... Chính
phủ của Cựu hoàng là nền tảng cho hai nền Đệ I VNCH của
Ông Ngô Đình Diệm và Đệ II VNCH của Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
Lịch sử sẽ phán đoán về vai trò của tất cả lãnh tụ cả
hai bên. Bên thắng cuộc ư? Bên thua cuộc ư? Ai biết? Lịch sử
sẽ nói cho thế hệ tương lai của chúng ta biết rõ tất cả.
Vậy, xin ai là chứng nhân hay nạn nhân chiến tranh ngày đó
hãy nói cho các thế hệ Việt Nam nghe... Lịch sử ở đâu cũng
bắt đầu từ tiếng nói chân chính.
Chiến tranh ý thức hệ hình thành rõ rệt với hai phe quốc
gia và phe cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, nếu nghiêm cẩn
nghiệm xét và khách quan nhận định sẽ thấy cả hai bên Cộng
sản Việt Nam và Cộng hoà Việt Nam là những lực lượng
“đánh thuê” trong một cuộc chiến tranh uỷ nhiệm. Lãnh tụ
CSVN thì tự nguyện. Lãnh tụ quốc gia ở vào thế thụ động.
Sắc thái lực lượng đánh thuê cuả CSVN thể hiện rõ nét hơn,
rõ vô cùng. Đó là thứ quân tiền phong trong một “Proxy War”
không hơn không kém. Biện minh thế nào khi cầm súng của
người, học chiến thuật của người đánh nhau mà không có một
thứ tư tưởng nào hay sách lược nào do chính mình xây dựng
như tổ tiên của chúng ta ngày xưa.
Tổ tiên chúng ta giữ nước chống ngoại xâm, đấu tranh giành
độc lập đã dựa trên sức mạnh dân tộc, tự lực, và có sách
lược riêng đầy trí tuệ, hùng lược và nhân hậu. Một An Dương
Vương giữ nước với hệ ̣thống nỏ liên châu kiến tạo khoa
học, đặt trong Loa Thành bắn từng loạt tên sắc, mạnh, ra
mọi hướng trên địa bàn 360 độ; gọi là “Nỏ Thần”. Hai Bà
Trưng với chiến lược liên kết toàn dân, trai gái, quân dân,
hợp sức mạnh các bộ lạc với sức mạnh các lạc tướng lạc
hầu, các châu quận, với chiến thuật dùng kỵ mã chiến và
công thành bằng voi trận, khởi binh đánh đuổi Thái thú Tô
Định của nhà Hán, chiếm 65 thành từ Giao Chỉ, Cửu Chân lên
tận lãnh địa phía nam Động Đình Hồ. Ngô Quyền dùng cọc
nhọn bọc sắt, to, vững cắm trên sông Bạch Đằng, phục kích
đánh một trận thủy bộ kích làm Hoằng Thao nhà Đông Hán
khiếp vía, lập nền độc lập tự chủ đất nước một nghìn năm
sau. Lý Thường Kiệt với tuyên ngôn tự chủ “Nam Quốc Sơn Hà”
và sách lược “tiến là để thủ” tấn công vào nội địa nam
Trung Hoa làm rúng động triều đình nhà Tống. Vua quan, quân
tướng, thần dân nhà Trần với quyết tâm của Hội nghị Diên
Hồng, với thao lược của Trần Hưng Đạo khi tiến khi thoái,
khi khuyên vua dời đô vào kinh thành cũ Hoa Lư, khi mang quân
đánh quân Thoát Hoan trên Sông Bạch Đằng, gần ba mưới năm kiên
trì và dũng mãnh đánh tan giặc Mông Cổ --đoàn quân bách
chiến của con cháu Thành Cát Tư Hản, từng chinh phục và san
bằng nhiều nước Á, Âu, chiếm trọn Trung Hoa-- lập chiến công
lừng lẫy trong Việt Sử. Bình Định Vương Lê Lợi và vị tham
mưu tài trí Nguyễn Trãi với sách lược thu phục nhân tâm
trước, đánh thành trì sau –“tiên dĩ công tâm, hậu dĩ công
thành”--chiêu mộ nghĩa sĩ hội về Lam Sơn, sau mười năm gian
khổ đánh thắng giặc Minh, thu phục hàng nghìn tù binh rồi
cung cấp ngựa thuyền tha cho chúng về nước. Chính sách dũng
lược và nhân hậu này tuyên cáo rõ trong Bình Ngô Đại Cáo.
Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ với tầm nhìn xa thấy rộng, với
chiến thuật ‘tốc chiến tốc thắng” --độ quân thần tốc, tấn
công thần kỳ-- chưa đầy một tuần dùng kỳ binh từ miền Trung
ra đánh tan đạo quân 200,000 người của Mãn Thanh ở Hà Nội,
tiêu diệt và truy quét chúng ra khỏi lãnh thổ miền Bắc;
tiếc thay ông mất sớm chưa thực hiện được hoài bão tấn công
Trung Hoa chiếm lại Lưỡng Quảng của tổ tiên. Trong những đại
bậc anh thư và đại anh hùng cứu quốc nêu trên, xin chỉ cho
biết ai là người mượn sách lược và thế lực ngoại lai và
dùng vũ khí của người đánh giặc ngoại xâm cứu nước và
giữ nước? Thế hệ tương lai Việt Nam sáng suốt sẽ nhìn rõ
sách lược tự lực tự cường dựa trên sức mạnh hơp quần của
toàn dân của tiền nhân đánh ngoại xâm. CSVN làm ngược lại
tiền nhân. Lãnh tụ CSVN giết tập thể đồng bào, đồng bạn
và... đồng chí không gớm tay nên bị đa số dân lành nguyền
rủa, coi như như loài dã thú, hay súc vật, ngay trong chiến
tranh, sau đó và hiện nay. Rất rõ. Anh hùng cứu nước mà
đến như vậy. Tội thực!..
Trong chiến tranh Việt Nam, các lãnh tụ chính trị và quân
sự CSVN đã chu đáo học tập và áp dụng triệt để chiến
sách CSTQ, nhất là rập khuôn sách lược “Chiến tranh Nhân dân”
[“People’s War”] trong quyển “On Protracted War” của Mao Trạch
Đông, còn được mệnh danh là “Chiến tranh Cách mạng”
[“Revolutionary War”] trong một cuộc chiến trường kỳ bao gổm
nhiều giai đoạn: 1) du kích chiến và bạo động chiến
-guerrilla warfare & insurgency; 2) vận động chiến –mobile war;
3) trận địa chiến –conventional war; và 4) tổng công kích và
tổng khởi nghĩa -general attack & general surprising. Suốt
chiều đài cuộc chiến từ năm 1949 “Bộ Đội Nhân Dân” (the
People’s Army of Vietnam –PAVN) của CSVN được Liên Xô và Trung
Cộng và các nước CS Đông Âu cung cấp những chiến cụ, thiết
bị, và vũ khí cá nhân và cộng đồng tối tân nhất trong
từng giai đoạn của chiến cuộc. Các đơn vị bộ chiến được
trang bị súng AK-47 bắn từng loạt, các loại B-40, B-41 vừa
phá công sự vừa diệt tăng, các bích kích pháo 61mm, 82mm,
và 120mm. Từ đầu thập niên 1970’ bộ binh còn có thêm hỏa
tiễn SA-7 bắn trực thăng và phi cơ không kể các loại đại cao
xạ nhiều cỡ, hiệu năng cao. Đơn vị bộ binh mà tầm tác
chiến đa năng nhờ vũ khí nhẹ và gọn của khối CSQT tất
nhiên dễ di động và chế ngự chiến trrường. Pháo binh với
các loại trọng pháo cơ giới 85mm D-44; 122mm D-74 và D-30 canh
tân; đại pháo 130mm và 152mm D-20. Đơn vị chiến xa với các
loại thuỷ xa PT-76, chiến xa BTR-50, BTR85 và T-54. Ngoài ra
còn thêm các loại chiến xa T-70 trang bị đại bác tự hành
SU-76mm và chiến xa Joseph Staline 2 gắn đại bác tự hành
ISU-122mm. Phòng không dùng các loại pháo cao xạ cơ giới
23mm, 37mm, 80mm và 100mm, hoả tiễn địa không SA-2, SAM-7 của
Liên Xô. Không quân được Trung Cộng cung cấp MIG-15 và MIG F-17,
Liên Xô cung cấp MIG-19 và MIG-21. Ở thời điếm chiến tranh cao
độ, Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) có hơn 2,000 hoả tiển SA-2,
SAM-7 và 200 phi cơ MIG các loại. Hải quân được Trung Cộng
cung cấp hàng trăm pháo hạm Swatow và Shanghai; Đông Đức yểm
trợ khinh tốc đĩnh; Liên Xô viện trợ loại pháo hạm Komar và
phóng lôi PT-4 và PT-6. (22) Cũng cần ghi nhận thêm “On
Protracted War” của Mao Trạch Đông được CSVN –đặc biệt là Hồ
Chí Minh, Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp– áp dụng triệt để
trong tấu khúc “chiến tranh trường kỳ” hung bạo và man rợ
chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh giành độc lập của
Việt Nam qua từng thời kỳ mà ngay những người viết sử CSVN
cũng không che giấu. Nói rõ hơn, “On Protracted War” Mao viết
từng mảng cho Hồng Quân CSTQ áp dụng đánh quân QDĐ/TH của
Tưởng Giới Thạch thì sau đó được Việt Minh thực hiện rập
khuôn. Giai đoạn sơ khai là thành lập căn cứ địa, tổ chức
lực lượng, họ gọi là đấu tranh võ trang. Các đơn vị võ
trang thực hiện các chủ trương Dân vận, Địch vận và Binh
vận gọi là đấu tranh chính trị. Trong giai đoạn Du Kích
Chiến vì sợ ba phương thức đấu tranh chính trị nói trên
không thành công vì không thu phục được nhân tâm nên họ áp
dụng cả Bạo Động Chiến gây khủng khiếp cho đối phương và
dân lành vùng xôi đậu khiến phải đem nhân lực và tài lực
cung hiến cho “cách mạng”. Như vậy là vừa tuyên truyền vừa
giết chóc để phát triển lực lượng và căn cứ địa. Ai tự
nguyện thì tha, ai chống trả thì giết. Đấu tranh võ trang
và đấu tranh chính trị tiến hành song song. Tuy nhiên khi
chuyển lên Vận động Chiến và Trận địa Chiến, CSVN vứt bỏ
dân, binh và địch vận hay giết chóc thủ tiêu lẻ tẻ mà thay
thế bằng sự kết hợp quân sự, chính trị, và ngoại giao
trong “chiến tranh cách mạng” (“revolutionary war”, nói trên)
và tàn sát đối phương hay dân chúng với qui mô tập thể. Vì
vậy nên ở giai đoạn cuối cùng Tổng Công kích và Tổng Khởi
nghĩa, CSVN chỉ thực hiện được một vế Tổng Công kích.Vì
mất nhân tâm nên không thể có Tổng Khởi nghĩa. Ở Trung Quốc
cũng như ở Việt Nam. CSTQ và CSVN chỉ thắng được vì… Hoa Kỳ
bỏ cuộc. Nói cách khác, như Tổng thống Nguyễn văn Thiệu
nói, là “phản bội.” Trong bài tham luận “Lessons from the
Vietnam War”, tôi cũng ̣ viết:“Sometimes, I wonder how much the
U.S. has learned from its policies of ‘supporting and abandoning its
allies?’”[“Đôi khi tôi tự hỏi Hoa Kỳ đã rút tỉa kinh nghiệm
được mấy về sách lược yểm trợ và bỏ rơi đồng minh của
minh?”] (23) Ông Thiệu dùng chữ rõ ràng hơn “betrayal”.
Về phía quốc gia, cho đến khi Bảo Đại về chấp chính, tuy
Hiệp ước Elysée đã ký và duyệt y nhưng chính quyền Pháp ở
Đông Dương vẫn chưa thực sự thành lập quân đội quốc gia cho
Việt Nam. Chỉ có Nghị định cuả Bộ Quốc phòng ban hành
ngày 13/4/1949 thành lập lực lượng “Vệ Binh Quốc gia” [La
Guarde Nationale], kỳ thực đó chỉ là tên gọi chung của Vệ
Binh Nam Việt, Việt Quốc Đoàn, Bảo Chính Đoàn trước đây sát
nhập lại và thêm một đơn vị nữa là Vệ Binh Sơn Cước, nhưng
Pháp vẫn tiếp tục chỉ huy các đơn vị vệ binh này –tất cả
khoảng 60,000 quân- và chỉ đạo chiến tranh đánh nhau với
Việt Minh. Đến trước tháng 12/1949, lực lượng viễn chinh
Pháp tỏ ra khó kiểm soát hết các vùng đã chiếm đóng trong
Nam nên thuận để cho các lưc lượng Cao Đài thành lập ở miền
đông và lực lượng Hoà Hảo ở các tỉnh ở Hậu Giang. Hai lực
lượng này chống Viêt Minh cao độ, nhất là sau khi đức Thầy
Huỳnh Phú Sổ bị Việt Minh ám hại. Ngay tại Sài Gòn, các
tổ công tác thành của Việt Minh hoạt động ráo riết dân binh
địch vận trong nội thành, nên Pháp để cho Bảy Viễn hay Lê
văn Viễn thành lập đơn vị võ trang và nắm cơ quan công an. Ở
Miền Bắc Việt Nam quân viễn chinh Pháp thu được những kết
quả tương đối. Cuộc hành quân tảo thanh lớn nhất “Lee
Operation” do Tướng Tư lệnh Pháp Valluy tổ chức tháng 11/1947
Việt Bắc với 20 tiểu đoàn suýt bắt được Hồ Chí Minh và
Võ Nguyên Giáp ở Bắc Kạn, tuy nhiên cũng làm cho Việt Minh
tổn thất trên 9,000 cán binh, kể cả vài bộ trưởng của
Chính phủ Kháng chiến CSVN. (24) Thời điểm từ tháng 12/1946
đến tháng 12/1949, CSVN của Hồ Chí Minh và Việt Minh còn ở
trong Giai đoạn 1 “du kích và bạo động chiến” lo củng cố căn
cứ địa và xây dựng lực lượng võ trang” gây bạo động rối
loạn, ám sát, bắt cóc, thủ tiêu đồng thời tiến hành thầm
lén tuyên truyền “dân, binh và địch vận” từ Bắc chí Nam, vì
vậy quân viễn chinh Pháp chiếm thượng phong. Đối với chính
phủ Quốc Gia Việt Nam việc thực thi Hiệp ước Elysée, Quốc
trưởng Bảo Đai đã tìm cách và chọn nhiều chính khách có
uy tín nối tiếp nhau lập nội các để tiếp tục đấu tranh
trên căn bản của hiệp ước nhưng không thực hiện được các
điều khoản quan trọng đã ký vì khoảng thời gian nầy lực
lượng Pháp còn chiếm ưu thế ở chiến trường.
Tuy nhiên từ đầu năm 1950 trờ đi, cục diện chiến tranh ở Đông
Dương đã thay đổi, sau khi Chính phủ Truman, đảng Dân Chủ Hoa
Kỳ, đã tự bỏ rơi Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc và đạo quân
QDĐ/TH gần hai triệu người của Tưởng Giới Thạch. Nói rõ là
Hoa Kỳ bỏ Lục địa Trung Hoa cho đảng Cộng Sản Trung Quốc
của Mao Trạch Đông. Đây là lỗi lầm trọng đại nhất của Hoa
Kỳ. (25) Tháng 12/1945, Tổng thống Truman đưa Tướng George C.
Marshall, Chủ tịch Uỷ ban Tham mưu Liên quân Hoa Kỳ, sang Trung
Hoa như một “Đặc sứ toàn quyền” để hoà giải hai phe Quốc,
Cộng lần chót. Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch cùng ký
chung hiệp ước thành lập quân đội Trung Hoa tháng 2/1946.
Nhưng chỉ vài tuần sau, nội chiến tái diễn dữ dội hơn. Từ
tháng 3 đến tháng 6, 1946, quân QDĐ/TH của Tưởng đánh bật
quân CSTQ của Mao lên mạn Bắc Trung Hoa và Mãn Châu. Tuy nhiên,
chiến thắng của Tưởng làm cho Đặc sứ Marshalll không hài
lòng vì sự hợp tác giữa Quốc–Cộng Trung Hoa đã tan vỡ.
Ngày 29/6/1946, Marshall ra lệnh cắt viện trợ cho lực lượng
QQDĐ/TH và CSTQ. Quyết định này ảnh hưởng trực tiếp cho lực
lượng QDĐ của Tưởng Giới Thạch. Tháng ̣9/1946 các đơn vị
Thuỷ Quân Lục Chiến và các đại đơn vị khác của Hoa Kỳ
được lệnh rút ra khỏi lục địa Trung Hoa. Ngày 6/1/1947,
Marshall tuyên bố không hoàn thành nhiệm vụ ở Trung Hoa, trở
về Hoa Kỳ. Bỏ mặc quân QDĐ cho định mệnh của họ. Quân CSTQ
được Liên Xô trao toàn bộ vũ khí và trang bị, kho tàng thực
phẩm của một triệu quân Nhật bỏ lại Mãn Châu cho Lâm Bưu, Tư
lệnh Hồng quân CSTQ của Mao. CSTQ đã phản công toàn diện.
Trong hai năm liên tục, nhiều lộ quân QDĐ/TH chiến đấu trong
khốn cùng, không đạn dược và thiếu lương thực. Quân CSTQ
chiếm Bắc Kinh –tại đây ngày 1/10/1949, Mao Trạch Đông thành
lập nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc (The People’s Republic of
China). Hồng quân CSTQ tiếp tục vượt Hoàng Hà, vượt Trường
Giang, và chiếm Nam Kinh. Ngày 7/12/1949, tàn quân QDĐ/TH và
Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch hoàn tất
cuộc rút lui ra đảo Đài Loan. Đến lúc đó, Hoa Kỳ tái lập
viện trợ cho Tưởng Giới Thạch để giữ Đài Loan. Đã trễ và
đã thua. Thế giới hỏi tại sao?!. Không ai trả lời… Chính
giới Hoa Kỳ nổi sóng. Chỉ ít lâu sau họ quên đi, nhưng lịch
sử… không quên. Trung Cộng thay Trung Hoa Dân Quốc trở thành
một trong 5 uỷ viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên
Hiệp Quốc [ Security Committee of the United Nations]
CSTQ chiếm Lục địa Trung Hoa, lực lượng viễn chinh Pháp không
còn cơ hội để chiến thắng cuộc chiến ở Đông Dương, nhất là
ở Việt Nam. Võ nguyên Giáp tuyên bố là lực lượng Quân Đội
Nhân Dân Việt Nam (The People’s Army of Vietnam –PAVN) đã có một
triệu quân. Trên thực tế, bộ đội này của CSVN –gọi là “bộ
đội cụ Hồ” (bộ đội HCM)– lúc đó chính thức được Hồng quân
CSTQ huấn luyện, trang bị và tổ chức thành cấp đại đoàn,
sư đoàn chính quy, tại các căn cứ ở biên giới Vân Nam và
Quảng Tây. Đến đầu năm 1950, CSVN có 5 sư đoàn bộ chiến 304,
308, 312, 316, 320 và một sư đoàn lớn hỗn hợp bộ, pháo, công
binh cơ giới 325. Tất cả các đại đơn vị này, từ cấp tiểu
đoàn trở lên đều có cố vấn trong Đoàn Cố vấn Quân sự CSTQ,
gồm 281 cán bộ và cố vấn, do Tướng Vi Quốc Thanh chỉ đạo
đặt cạnh Bộ TTL/QĐND của Võ Nguyên Giáp. Ở cấp chỉ đạo
đảng CSVN và Chính phủ của Hồ Chí Minh có Đoàn Cố vấn
Chính trị do La Quý Ba, Uỷ viên Trung ương của đảng CSTQ chỉ
đạo. CSTQ còn đưa danh tướng Trần Canh sang đặt kế hoạch cho
bộ đội HCM trong các chiến dịch tấn công lực lượng Pháp ở
Đường # 4 biên giới Việt-Trung. Về phía Pháp, Cao uỷ
d’Argenlieu và Tư lệnh quân Pháp ở Đông Dương là Tướng Marcel
Carpentier chống đối việc thành lập Quân Đội Việt Nam. Như
vậy, đến đầu năm 1950, bộ đội HCM có 7 đại đơn vị cấp sư
đoàn và là lực lương võ trang đầu tiên có gần ba trăm cố
vấn TQCS với hàng khối vũ khí và thiết bị quân sự và ba
đại cố vấn CSTQ về chính trị và quân sự –chiến lược lẫn
chiến thuật. Tướng Võ Nguyên Giáp và các tướng CSVN khác
trở thành robots mặc dù đã đến thời điểm Bắc Kinh ra lệnh
triển khai giai đoạn II và III Chiến tranh Cách mạng
–Revolutionary War– của Mao Trạch Đông, vận động chiến và công
kiên chiến (mobile and conventional warfare). Trong khi đó Quân
Đội Quốc Gia Miền Nam chỉ được thành lập hạn chế với một
số Tiểu đoàn Việt Nam (Bataillons Vietnamiens) do sĩ quan Pháp
chỉ huy. Số sĩ quan Việt Nam do Pháp đào tạo chỉ được vài
mươi người. Nhưng về sau chính những sĩ quan này lãnh đạo
Miền Nam. Trong cuộc họp cấp uỷ viên trung ương đảng CSTQ
ngày 27/6/1950, Mao Trạch Đông tuyên bố:“Vì cuộc cách mạng
của chúng ta hoàn thành thắng lợi, chúng ta có trách nhiệm
giúp các nước khác. Đó gọi là chủ nghĩa quốc tế.”[Since
our revolution has achieved victory, we have the obligation to help
others. This is called internationalism]. (26) Ngày 16/9/1950,
chiến dịch trên Đường # 4 khởi diễn. Trận đánh này là điển
hành chiến thuật “công đồn đã viện” của Tướng Trần Canh
sáng tạo và chỉ đạo, được bộ đội HCM học tập, thực hành
lần đầu tiên này và áp dụng triệt để hơn hai thâp niên sau
trải suốt hai cuộc chiến Việt Nam. Trần Canh chọn căn cứ
đóng quân cấp tiểu đoàn Pháp (-) –khoảng dưới 300 quân– ở
Đông Khê, nằm trên trục lộ # 4, cách Cao Bằng 1/3 đoạn đường
xuống Lạng Sơn, cho một sư đoàn quân (10,000 người) Võ Nguyên
Giáp tấn công để thu hút quân tiếp viện của Pháp từ hai
tỉnh này kéo đến tiếp viện. Quả nhiên cánh quân thứ nhất
từ Lạng Sơn do Trung tá Le Page kéo lên Thất Khê rồi tiến lên
giải cứu Đông Khê. Cánh quân thứ hai của Trung tá Charton,
cũng bỏ Cao Bằng, kéo xuống Đông Khê cùng mục đích. Cả hai
cánh quân tiếp viện này đều lọt vào ổ phục kích của quân
Võ Nguyên Giáp phía bắc và nam căn cứ Đông Khê –cấp sư đoàn
(+) ở mỗi điểm phục kích. Hai cánh quân này bị đánh tan
rã, hai trung tá Pháp bị bắt; hàng trăm người chết và hàng
nghìn người bị bắt làm tù binh. Có thể Trần Canh đã sử
dụng ít nhất là bốn sư đoàn bộ và ba hay bốn trung đoàn
pháo của Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch biên giới tấn công
Đường # 4 này, không kể các sư đoàn trừ bị, mang lại kết
quả to lớn đầu tiên cho bộ đội HCM, chấn hưng cao độ tinh
thần cán binh bộ đội HCM. Công kiên và phục kích chiến trở
thành chiến thuật hữu dụng. Từ quan điểm chiến thuật này
sinh ra thêm lối đánh “tiền pháo hậu xung”. Dội pháo dữ dội
tiêu diệt cộng sự phòng thủ của địch quân trước, rồi xung
phong tràn ngập căn cứ với “biển người” [human waves]. Cũng
chính Trần Canh bày cho quân Võ Nguyên Giáp áp dụng ngay
trong trận Đông Khê. Vì vậy tổn thất của bộ đội HCM trong
chiến dịch nầy rất lớn. Sau trận này Tướng Marcel
Carpentier, Tư lệnh lực lượng Pháp ở Đông Dương ra lệnh bỏ
tất cả căn cứ của Pháp ở bắc, đông bắc Bắc Việt: Lào Kay,
Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, kể cả
một phần bắc Thái Nguyên. Tất nhiên, sau đó ông Tướng này,
kể cả ông Cao uỷ Đông Dương cũng mất chức. Tướng Trần Canh
được Bắc Kinh gọi về làm tư lệnh phó cho Tướng Bành Đức
Hoài trong cuộc chiến Hàn quốc. (27) Địa bàn
vận-động-chiến của bộ đội HCM mở rộng. Tháng 12/1950 Pháp
đưa Đại tướng De Lattre de Tassigny sang làm Cao uỷ kiêm Tư
lệnh quân lực Pháp ở Đông Dương. Chính Tướng De Lattre, một
danh tướng Pháp trong Đệ II TC mà chúng ta chưa quên, là nhà
chiến lược hiểu rõ hơn ai hết về một “cuộc chiến uỷ
nhiệm”. De Lattre rất muốn chính phủ Pháp thực hiện việc
thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Trong một bài diễn
văn, Ông kêu gọi thanh niên Việt Nam gia nhập quân đội để bảo
vệ quốc gia; Ông nói: -“Dĩ nhiên, mọi người có khuynh hướng
cho rằng Việt Nam không là quốc gia độc lập vì là một
thành viên của Liên Hiệp Pháp. Không đúng! Trong vũ trụ, đặc
biệt là trong thế giới của chúng ta ngày nay không thể có
những quốc gia độc lập tuyệt đối. Chỉ có những nền độc
lập liên hợp sinh lợi và những nền độc lập nguy hiểm. Các
bạn trẻ Việt Nam… đây là thời điểm để các bạn bảo vệ tổ
quốc.”(28) Câu nói sâu xa này vừa là lời biện minh cho lực
lượng Pháp… đang nhận tiền của Hoa Kỳ đánh CSQT ở Việt Nam
[vừa thoái thác vừa công nhận một cuộc chiến “uỷ nhiệm”
mà Pháp nhận lãnh] khi khôn khéo nêu rõ “không có gì gọi
là độc lập tuyệt đối” mà mọi quốc gia tuỳ thuộc lẫn nhau
[kêu gọi giới tuổi trẻ Việt Nam cùng tham gia “đánh giặc
mướn” chống CSQT có lợi cho Pháp và thế giới tự do, mà De
Lattre gọi là “bảo vệ tổ quốc”]. Sự kêu gọi nầy hùng hồn
không kém lời kêu gọi gian dối của Hồ Chí Minh kích thích
nhân dân Việt Nam hi sinh vì nền độc lập của đất nước mà
giấu nhẹm vai trò đánh thuê để góp công bành trướng “Đế
quốc Mới Đệ III CSQT”, nhưng De Lattre thành thực hơn. Ở
thành thị, khá đông thanh niên, sinh viên và học sinh tình
nguyện vào quân đội quốc gia, theo học Trường Võ bị Liên
quân Đà Lạt, hoặc động viên vào Trường Sĩ quan Trừ bị Nam
Định hay Thủ Đức, vào các trường Hạ sĩ quan… Rồi cả một
thế hệ hay đôi ba thế hệ Việt Nam yêu nước thuở đó tưởng
rằng mình đã hi sinh xương máu cho độc lập, tư dọ và hạnh
phúc của đồng bào và đất nước mình. Thế hệ của chúng tôi
đều bị lợi dụng và đã không biết, và nếu có biết thì
cũng bị guồng máy chiến tranh cuốn vào và bị nghiền nát
ra. Lý do chính là vì chúng tôi chỉ là dân lành yêu nước,
thấp cổ, bé miệng. Ai hiểu rõ những lý do ẩn tàng nầy,
những người bên thắng hay bên thua cuộc? Ai hiểu rõ tất cả
chúng ta đều là những người bị xua vào chiến cuộc bởi
những thế lực ngoại bang.?
Chính phủ Bảo Đại có Bộ Quốc phòng, tuy Tướng De Lattre
tuyên bố như vậy nhưng mãi đến tháng 5/1952 QĐQG/VN mới bắt
đầu thành lập, trước tiên là Bộ Tổng Tham Mưu với một Đại
tá Không Quân Pháp, gốc Việt, là Nguyễn văn Hinh làm Tổng
Tham Mưu Trưởng, mang cấp Trung tướng; tuy nhiên quân đội này
chưa có đại đơn vị mà chỉ tăng thêm số Tiểu đoàn Việt Nam
vẫn do sĩ quan Pháp chỉ huy. Rất ít tiểu đoàn do các sĩ
quan VN xuất thân từ Khóa 1 Nước Ngọt ở Bà Rịa và Khoá 2
Đập Đá ở Huế chỉ huy. Lúc đó, Trường Liên quân Võ bị Đà
Lạt và Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức cũng đã đào tạo
các khóa sĩ quan đầu tiên.
Đầu năm 1951, Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị đảng Lao Động
(tên gọi này cũng do Mao Trạch Đông đặt khi đảng CSĐD, thực
ra là đảng CSVN, tái thành lập) nghe theo Cố vấn Chính trị
La Quý Ba và Cố vấn Quân sự Vi Quốc Thanh tán thành giai
đoạn cuối cùng, TCK & TKN của “chiến tranh cách mạng” chống
Pháp. Võ Nguyên Giáp đưa hơn ba sư đoàn chính quy tấn công
xuống đồng bằng Sông Hồng [The Red River Delta]. Tướng De
Lattre hình như tiên đoán được ý định và sách lược của
CSVN, nên đã ra lệnh kiến tạo hệ thống phòng thủ vùng đồng
bằng này và bảo vệ chặt chẽ Hà Nội gọi là “Tuyến De
Lattre” [De Lattre Line]. Ông cũng chuẩn bị sẵn kế hoạch phản
công, đồng thời ra lệnh kiện toàn hệ thống cứ điểm ở tây
bắc, Sơn La, Nghĩa Lộ, Lai Châu và Cao nguyên Thái [Thai
Highland] trên Đường # 6, nhằm ngăn chặn bộ đội HCM tiến sang
Lào. Khi các Sư đoàn 308, 312 và 316 của Võ Nguyên Giáp tấn
công vào tuyến De Lattre lần thứ nhất ở Vĩnh Yên, 40 km bắc
Hà Nội ngày 13/1/1951, đã bị dội bom Napalm và quân Nhảy Dù
Pháp phản kích, nên tổn thất rất nặng, trên dưới 9,000 cán
binh bị giết, một số tương đương bị thương và 600 bị bắt.
Hai tháng sau, ngày 23/3, lần thứ hai Võ Nguyên Giáp đem ba sư
đoàn tấn công tuyến quân Pháp ở Mao Khê, vùng tây bắc Hà
Nội, cũng thất bại và tổn thất không kém lần trước vì
loại bom Naplam xăng đặc nầy. Như vậy cho thấy chiến thuật
công kiên tấn công biển người của Trần Canh không phải không
có khuyết điểm, nếu đối phương mạnh về không yểm và quân
tấn công thiếu lực lượng phòng không. Tuy nhiên bộ đôi HCM
cũng đã trì chân được ở vùng châu thổ Sông Hồng và Sông
Đáy. Có những trận đánh khác rất lớn diễn ra và Tướng De
Lattre luôn luôn ở thế thắng, trước sau gây cho bộ đội HCM
những thiệt hại trên dưới 50,000 quân, tuy ông cũng trả giá
bằng cái chết của đứa con trai duy nhất của ông và dòng
dõi De Lattre.
Có thể nói De Lattre de Tassigny là danh tướng duy nhất của
Pháp có thể chống lại bước tiến của Mao Trạch Đông đang
dùng đạo quân của HCM đánh chiếm và xích hoá toàn bộ Đông
Dương và nam tiến, như Mao chỉ thị cho thuộc hạ trong một
cuộc họp Bộ Chính trị và Uỷ ban Trung ương đảng CSTQ: “Bằng
mọi cách chúng ta phải chiếm cho được Đông Nam Á, kể cả
Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai và Singapore… Vùng
(đất đai) này giàu khoáng sản, xứng đáng trả giá đắt. Sau
khi chiếm xong Đông Nam Á, chúng ta có thể tăng trưởng lực
lượng trong vùng. Và chúng ta tất sẽ đủ mạnh để đối đầu
với Xô-Viết và khối Đông Âu; gió Đông sẽ mạnh hơn gió
Tây.”(29) Tham vọng của Mao Trạch Đông rất lớn và rõ rệt.
Để thực hiện giấc mộng lớn của mình, sau khi xây dựng lực
lượng của Hồ Chí Minh khá vững chãi đủ để xích hoá Đông
Dương và nam tiến, Mao đưa Tướng Bành Đức Hoài và tăng cường
thêm Tướng Trần Canh xua đạo quân gần 400,000 người cùng đạo
quân của Kim Nhật Thành, lãnh tụ Cộng sản Hàn Quốc, tấn
công chiếm Nam Hàn, gây ra chiến tranh Hàn Quốc năm 1950; đây
có thể là chiến lược lớn “dương đông kích tây” lôi kéo lực
lượng của Thế giới Tự Do vào hướng đông, để trống hướng
nam cho lực lượng HCM dễ dàng tung hoành. Cũng tiếc cho Pháp
và Thế giới Tự do, vì chỉ ít lâu sau các trận đánh ở châu
thổ Sông Hồng, De Lattre bị ung thư rất nặng phải về Pháp
trị bịnh và từ trần tháng 11/1951. Tướng Raoul Salan thay
thế Tướng De Lattre làm Tư lệnh quân lực Pháp và Jean
Letourneau sang Đông Dương với chức danh mới là Bộ trưởng Liên
bang Đông Dương –Minister of the Associated Nations of Indochina–
cao hơn chức Cao uỷ. Điều này chứng tỏ Pháp không muốn nhả
miếng mồi ngon này.
Đến thời điểm đó, có lẽ Hoa Kỳ đã nhận thấy sai lầm đã
bỏ Lục địa Trung Hoa cho CSTQ nhưng chưa nhận thấy chỉ có
lực lượng QDĐ của Tướng Giới Thạch mới đủ sức đánh quân
CSTQ của Mao Trạch Đông mà không phải là quân lực nước ngoài
trong một cuộc chiến đặc biệt của những “kẻ nội thù”. Hoa
Kỳ luôn luôn áp dụ̣ng chính sách “Giai Đoạn”. Bạn hay thù,
yểm trợ hay dứt bỏ… chỉ là giai đoạn của sách lược lâu
dài cố hữu: “vì sự lợi ích của Hoa Kỳ”. Điều này bất
khả luận, phải nhận là đúng, nhưng sách lược này làm Hoa
Kỳ mất mát nhiều sinh mạng, tài chính và uy tín, nhất là
để lại hậu quả dâu biển, tang thương cho các nước một thời
là đồng minh. Thực vậy, mặc dù lúc đó Hoa Kỳ, với chiến
thắng của MacArthur, đã giải quyết được chiến tranh Hàn
Quốc, tuy di hoạ vẫn còn… nhưng vẫn ngó về Việt Nam, và
sẵn sàng mở rộng thêm hầu-bao tuôn tiền qua đó, mặc dù cái
túi tiền này đã mở ra viện trợ quân sự cho Pháp năm 1950
là 10 triệu Mỹ kim và từ tháng 6/1950 Hoa Kỳ đã đưa sang
Sài Gòn Phái bộ Cố vấn Viện trợ Quân sự Đông Dương, MAAG-I
[the U.S. Military Assistance Advisory Group-Indochina] do Tướng
Francis G. Brink chỉ huy. Đến khi Carpentier bỏ Việt Bắc, viện
trợ quân sự của Hoa Kỳ cho Pháp ở Đông Dương đã quá mức 100
triệu Mỹ kim, nhưng tình hình chiến sự ở Việt Nam càng
ngày càng bất lợi thêm cho lực lượng Pháp từ cuối năm 1951
khi De Lattre mất.
Tháng 2/ 1952 Cố vấn quân sự Vi Quốc Thanh trình về Bắc Kinh
sơ thảo chiến dịch tấn công tây bắc Bắc Việt dự trù cho bộ
đội HCM. Tháng 4, kế hoạch được duyệt xét lại. Tháng 7 kế
hoạch được Quân uỷ Trung ương đảng CSTQ chấp thuận. Tháng
8/1952, Võ Nguyên Giáp ra lệnh tấn công căn cứ Pháp ở Nghĩa
Lộ, Yên Bái, và chiếm toàn bộ vùng sông Đà, kể cả Sơn La,
tây bắc Hà Nội, dọn đường đưa quân sang Lào. Để phản công,
Tư lệnh quân Pháp Tướng Salan mở cuộc hành quân Lorraine với
30,000 quân lên Phú Thọ, Yên Bái và Tuyên Quang vào cuối
tháng đó. Cuộc hành quân này chỉ trì hoãn quân của Pháp
tiến sang Lào và vì Tướng Salan sợ bị cắt đường tiếp vận
nên ra lệnh chấm dứt cuộc hành quân vào trung tuần tháng
11/1952. Trong tháng này, ở Hoa Kỳ, Tướng Eisenhower, ứng cử
viên đảng Cộng Hoà, đắc cử Tổng thống. Đến cuối năm 1952,
Hoa Kỳ đã chi phí cho Pháp ở Đông Dương đến hơn 700 triệu Mỹ
kim nhưng lực lượng Pháp của Salan đã không thể ngăn cản
được bộ đội HCM sang Lào.
Đầu năm 1953, khi vào Nhà Trắng, Eisenhower rất chú tâm về
cuộc chiến Đông Dương và đặc biệt chú ý về tình hình ở
Bắc Việt và ở Lào. Tháng 3/1953, phái đoàn Pháp, gồm Thủ
tướng René Mayer, Ngoại trưởng Georges Bidault và Bộ trưởng
Đông Dương Jean Letourneau sang Washington cầu viện xin thêm
chiến phí và được chấp thuận 385 triệu Mỹ Kim với điều
kiện Pháp phải gởi thêm sang Đông Dương hai sư đoàn bộ binh,
lập kế hoạch diệt trừ quân CSVN trong hai năm và kiện toàn
việc thành lập Quân Đội QGVN. Tháng 4, Phó Tổng thống
Richard Nixon được cử sang thị sát chiến trường Đông Dương.
Tháng 5, Chính phủ Pháp chỉ định Tướng Henri Navarre thay
thế Salan. Bộ trưởng Letourneau khi trở về Đông Dương không
lập được một kế hoạch thiết thực nào để đánh CSVN nhưng
có lối sống như một ông hoàng cao hơn các ông hoàng thực sự
của ba nước Việt, Miên và Lào. Pháp cũng không đưa thêm quân
sang Việt Nam. Việc kiện toàn Quân Đội QGVN tiến hành nhanh
hơn. Chính quyền QGVN ra lệnh động viên thanh niên từ 18 đến
33 tuổi. Ở trung ương, Bộ Tổng Tham Mưu, thêm một vài cơ quan.
Ở địa phương, thành lập các quân khu và các bộ tư lệnh.
Quân khu I gồm các tỉnh thuộc Nam Việt; Quân khu II, các tỉnh
duyên hải Trung Việt; Quân khu III các tỉnh Bắc Việt; và Quân
khu IV các tỉnh Cao nguyên Trung Việt, với các Tư lệnh Quân
khu cấp bậc Đại tá hay Thiếu tướng Việt Nam. Về tác chiến,
mỗi Quân khu thành lập một Liên đoàn Lưu động [Groupement
Mobile] gồm ba tiểu đoàn bộ binh và một tiểu đoàn pháo;
lập thêm một số Tiểu đoàn Việt Nam [Bataillons Vietnamiens]
phụ trách lãnh thổ; và thành lập thêm một số Tiểu đoàn
Khinh quân [Bataillons Légers] hành quân lưu động. Vì tình
hình chiến sự nên Quân khu III và IV, mỗi nơi có hai Liên
đoàn Lưu động [Goupements Mobiles]. Pháp cũng trả dần quyền
chỉ huy các đơn vị tác chiến cho các sĩ quan Việt Nam. Pháp
cũng chấp nhận các đơn vị vũ trang của các giáo phái Cao
Đài và Hoà Hảo và phong cấp tướng hay đại tá cho một số
các cấp chi huy giáo phái. Lê văn Viễn, chỉ huy đoàn quân ô
hợp Bình Xuyên ở Sài Gòn- Chợ Lớn cũng được phong cấp
Thiếu tướng. Các sự kiện thành lập các quân khu, các đơn
vị tác chiến Việt Nam, thu nhận các đơn vị võ trang giáo
phái, không là chứng minh thiện chí trả độc lập và quyền
“hành xử nội bộ” cho Chính phủ Quốc Gia Việt Nam theo các
điều khoản chính cuả Hiệp ước Elysée mà thực ra Letourneau
chỉ muốn có thêm quân bản xứ đánh CSQT ở Việt Nam, chết
thay cho quân Pháp. Trong khi đó thì Bộ Tham mưu Pháp chỉ huy
toàn bộ các cuộc hành quân dù nhỏ hay lớn. Bộ Tổng Tham
Mưu Quân Đội QGVN chỉ tuyển mộ, huấn luyện quân và điều
hành tiếp vận cung cấp cho chiến trường là chính. Các Bộ
Tư lệnh Quân khu cũng vậy. Rõ ràng Pháp bội ước, không đưa
hai sư đoàn bộ chiến sang Việt Nam. Họ sử dụng người Việt
để họ đánh thuê cho thế lực giàu mạnh hơn. Các sử gia nước
ngoài và Việt Nam ít người nêu rõ dã tâm này của Pháp.
Pháp nhận tiền của Hoa Kỳ rồi lợi dụng gan mật của giới
trẻ Việt Nam đem phơi ngoài bãi chiến…Vậy mà chúng tôi
những ngỡ là đánh giặc để giữ nước vì lòng yêu tổ quốc
của mình. Tất nhiên ít lâu sau đa số tỉnh thức, nhưng túng
thế phải tùng quyền. Quốc trưởng Bảo Đại, dù mang tâm
huyết đó cũng nhận thức được sự bất lực của mình, nên
giao chính sự cho những người mà ông tin rằng có khả năng
đối thoại với thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương, ra đi
lần nữa. Ông không muốn nỏi gì thêm với những tên thực dân
này.
Khi Navarre chính thức nhận chức ở Đông Dương là lúc sắp
diễn ra những thay đổi lớn lao cục diện chiến tranh. Trong
cuộc họp chóp bu ngày 22/8/1953, CSVN định bỏ kế hoạch đưa
quân sang Lào, ngược lại quyết định mở chiến dịch tổng tấn
công lần nữa vào tuyến De Lattre và châu thồ Sông Hồng. Cố
vấn Quân sự Vi Quốc Thanh, được tham dự buổi họp, báo cáo
về Bắc Kinh. Mao Trạch Đông gởi hai điện văn ngày 27 và 29/8
chỉ thị cho CSVN tấn công Lai Châu, tây bắc Việt Bắc, và
tiến sang Lào. Nội dung các bức điện đó, sau này giải mật,
được tác giả Qiang Zhai ghi lại phần quan trọng nhất, như
sau: “Diệt địch quân vùng Lai Châu, giải phóng thượng Lào và
trung Lào, và từ đó mở rộng chiến trường xuống hạ Lào và
Cao Miên để khống chế Sài Gòn.”(30) Với tin tức quân CSVN
tập trung vùng Lai Châu, Navarre quyết địng thiết lập căn cứ
ở Điện Biên Phủ vừa ngăn cản quân CSVN tiến sang Lào vừa
dẫn dụ đại quân của Giáp về đây đề tiêu diệt bằng không
quân. Cứ điểm này ở thung lũng Điện Biên Phủ, biên giới
Việt-Lào, ở hướng tây cách Hà Nội 188 dặm , trước sau có
15,000 quân do Đại tá De Castries chỉ huy. Theo nhiều tài liệu
cho rằng Tướng Vi Quốc Thanh lập kế hoạch và giám sát chi
tiết từng giai đoạn bao vây tấn công Điện Biên Phủ của bộ
đội HCM với hơn bốn sư đoàn bộ chiến và hai sư đoàn pháo do
Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Trước đó, theo Qiang Zhai, Mao Trạch
Đông chỉ thị lập thêm cho bộ đội HCM hai sư đoàn pháo binh
và hai trung đoàn công binh chiến đấu với kỹ sư và chuyên
viên chọn lọc từng chiến đấu ở Hàn Quốc có kinh nghiệm
đào giao thông hào tiến quân tiếp cận vị trí địch, tăng
cường cho Võ Nguyên Giáp. (31) Cuộc tấn công diễn ra ngày
12/3/1954. Võ Nguyên Giáp, muốn chiến thắng nhanh, cho lệnh
tấn công biển người, bị tổn thất nặng. Bắc Kinh ra lệnh Vi
Quốc Thanh chỉ dẫn cho Giáp dùng chiến thuật “chia cắt quân
địch thành từng cụm và bao vây tiêu diệt gọn chúng từng
phần” [separating and encircling the enemy and then wiping them out
bit by bit]. Các trung đoàn công binh, với chuyên viên CSTQ, phân
tán theo các đơn vị bộ binh của Giáp, đào giao thông hào
tiếp cận vào từng cụm cứ điểm của Pháp. Quân của Giáp di
chuyển theo giao thông hào tiến dần đến các pháo đài Pháp,
tấn công diệt từng cụm. Tiến công chậm, nhưng thành công
chắc. Trong khi đó các sư đoàn pháo mới thành lập, với
loại đại pháo cơ giới di động tối tân, bố trí vị trí pháo
đào sâu trên các sườn núi, giập đạn pháo dữ dội vào trung
tâm cứ điểm. Lúc đó, không quân Pháp bất lực trước lối
đánh độn thổ này. Tình hình nguy ngập. Tướng Paul Ely, Tổng
Tư lệnh Quân đội Pháp yêu cầu Hoa Kỳ yểm trợ căn cứ ĐBP
bằng không lực. TT. Eisenhower, trước tiên định cứu nguy ĐBD,
đã chỉ thị lập kế hoạch không yểm qui mô “Guernica Vulture”,
có thể sử dụng bom nguyên tử chiến thuật, nhưng sau vì
nhiều lý do, nên thay đổi ý định, để Pháp tự liệu. Ngày
1/5/1954, cụm pháo đài chỉ huy cứ điểm bi ̣tấn công dữ dội.
Ngày 7/5/1954, Navarre ra lệnh cho De Castries đầu hàng. (32)
Hoa Kỳ đã chi phí cho Pháp ở Đông Dương 1 tỷ Mỹ kim và 1 tỷ
khác ở chính quốc theo kế hoạch Marshall.
Hội nghị Genève từ đầu tháng 5/1954, kết thúc với Hiệp
định “Chia đôi Việt Nam” ký vào nửa khuya đêm 20/7/1954 giữa
Thiếu tướng Pháp Henri Delteil và Thứ trưởng Quốc phòng Tạ
Quang Bửu của CSVN. Như vậy, Pháp và CSVN cắt xẻ Việt Nam ở
Vĩ tuyến 17, lấy Sông Bến Hải làm ranh giới Miền Bắc và
Miền Nam. Ngoại trưởng Trần văn Đỗ của Chính phủ Quốc Gia
Việt Nam và đại diện Hoa Kỳ không ký. Hiệp định Genève
được thi hành, trong vòng 300-ngày di tản chính thức, từ
tháng 8/1954 đến tháng 5/1955, hơn 860,000 người di cư vào
Miền Nam. Tham vọng của Pháp vô lượng, muốn hoà hoãn vớí
CSVN ở Miền Bắc, nhưng vẫn muốn chiếm Miền Nam, không chịu
buông. Tướng Paul Ely được đưa sang Miền Nam. Ely sử dụng
Tướng Nguyễn văn Hinh tiếp tục nắm chặt Quân Đội Việt Nam.
Trước đó, ngày 16/6/1954 Quốc trưởng Bảo Đại chỉ định Ông
Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng thay Hoàng thân Bửu Hội. Ngày
26/ 6, Ông Diệm về nước. Ngày 7/7/ 1954 nội các NĐD thành
lập xong. Chính phủ của ông được Tổng thống Hoa Kỳ
Eisenhower yểm trợ cực lực. Eisenhower chủ trương thuyết
“Dominos”. Ông cho rằng một quân bài domino đầu ngã sẽ kéo
theo những quân bài dominos kế tiếp lần lượt ngã theo. Ông
coi Việt Nam ở thời điểm đó là quân bài domino đầu của Đông
Nam Á. Khi mà CSQT –nhất là CSTQ– muốn xích hoá vùng này
tất phải làm đổ sụp quân bài tiền đồn này trước tiên. CSBV
tất nhiên được Bắc Kinh sử dụng để Nam Tiến. Nếu bị ràng
buộc vào Hiệp định Genève, nhất thời CSBV không thể công
khai vượt khu phi quân sự (demilitarized zone -DMZ) Bến Hải thì
sẽ âm thầm tiến quân sang Lào. Vì vậy Lào là con đường
chiến lược của Bắc Kinh và CSVN, nên Eisenhower rất quan tâm
và đề cập đến nhiều lần. Còn Mao Trạch Đông thì nói rất
rõ ràng khi chỉ thị cho bộ đội HCM tiến sang Lào, từ đó
mới có trận chiến Điện Biên Phủ, như nói trên. Cội nguồn
là ở đó; sau này lãnh thổ trung và nam Lào đã trở thành
con “Đường mòn Hồ Chí Minh”, hay Đường Trường Sơn Tây của
CSBV. Có nhiều nhà biên soạn sử cho rằng “Thuyết Dominos”
của Eisenhower là sai lầm. Chính nhận định đó sai lầm.
Eisenhower không thể để cho Pháp, trong ý nghĩa nào đó là
một anh đánh mướn thua trận, tiếp tục ở Việt Nam và Đông
Dương. Pháp dứt khoát phải ra khỏi địa bàn đã không còn là
nơi dụng võ của họ. Hoa Kỳ dứt khoát gầy dựng lực lượng
của Nam Việt Nam mạnh để đứng vững, không đổ. Quân bài
domino Nam Việt Nam, lúc đó do một lãnh tụ quốc gia chống
cộng sản triệt để giữ gìn. Tất nhiên Hoa Kỳ phải yểm trợ
mạnh cho Ngô Đình Diệm để có một lực lượng quốc gia mạnh
đối đầu với lực lượng cộng sản của Hồ Chí Minh. Trước đó
mối thù quốc-cộng chỉ là làn ranh tư tưởng, dù đã đẫm
máu. Đến sau Hiệp định Genève tháng 7/1954 nó là một hiện
thể, là sông Bến Hải, như một vết thương rộng lớn bưng mũ,
phún máu, như vết chém ngang lưng của đất nước… mà đôi bờ
đều đầm đìa. Trước sau gì cũng do phe cộng sản gây ra. Cái
hư là sự xung đột tư tưởng và cái thực là chia đôi dòng
Bến Hải trở thành chiến tranh ý thức hệ, trở thành niềm
đau dân tộc. Chỉ có kẻ sống trên xương máu đồng bào chai
lì, ngu si nhưng kênh kệu, mới gọi nhau… bên thắng bên thua.
VI. Xây Dựng Và Tàn Sát
Đảng Lao Động hay Cộng Sản Việt Nam và Chính phủ Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hoà do Hồ Chí Minh lãnh đạo, chính thức vào
Hà Nội trung tuần tháng 10/1954, chiếm lĩnh lãnh thổ Miền
Bắc Việt Nam từ bắc Vĩ tuyến 17. Từ tháng 7/1954 lãnh thổ
Quốc Gia Việt Nam của Quốc trưởng Bảo Đại và Nội các Ngô
Đình Diệm bị thu hẹp lại từ nam vĩ tuyến đó đến mũi Cà
Mau. Vùng “phi quân sự” hai bên bờ sông Bến Hải trở thành
biên giới thực sự của hai nước Việt Nam, cộng sản và quốc
gia. Hai chính phủ Việt Nam này có 9 năm, từ đẩu 1955 đến
cuối năm 1963, để xây dựng chế độ và lực lượng. Nhưng thực
ra ở cả hai miền đều có chiến tranh cục bộ. Ở miền Bắc
là chiến tranh giữa đảng CSVN với nhân dân và trí thức. Ở
miền Nam là chiến tranh giữa Chính quyền Ngô Đình Diệm và
các thế lực cát cứ. Chúng tôi có lần cho rằng đó là cuộc
chiến của đạo đức và lương tri (ethical and conscientious war).
Ở Miền Bắc là cuộc chiế́n lương tri thế tận –conscientiously
catastrophic war. Ở Miền Nam là thứ chiến tranh lương tri nhân
vị –conscientiously personalistic war; chữ này không có trong
tự điển, nó thoát ra từ chủ nghĩa mà danh từ Pháp gọi là
“Personnalisme” hay chủ nghĩa “Cần lao Nhân vị”, có người gọi
là chủ nghĩa vị kỷ, lúc đó rất hiếm người hiểu và đến
nay thì không còn ai muốn hiểu nữa hoặc hiểu thấu đáo hơn
theo định nghĩa sau. Cuộc chiến thế tận của HCM thành công
vì sự tàn ác cực độ. Cuộc chiến nhân vị của NĐD thảm bại
vì tự cô lập.
Miền Bắc, sau khi gần một triệu người di cư vào Miền Nam, đa
số trí thức di tản vào Sài Gòn; chất xám ở Miền Nam giàu
thêm. Thiểu số không di tản được bị cuốn mất vào sức
nghiền của guồng máy vô sản toàn trị như lớp trí thức
thành thị không theo kháng chiến kể cả trí thức kháng
chiến ở mọi ngành, mọi cấp. Tất cả đều là kẻ thù của
đảng. Vì theo chủ nghiã Đệ III QTCS, noi gương Staline và sau
đó là Mao Trạch Đông, giết hàng triệu người, dù chỉ tình
nghi là những kẻ “nội thù”, rất nhiều trí thức trong hàng
ngũ của họ, bất kể đã lập công lớn, trong kháng chiến. Khi
đã chiếm được miền Bắc, Hồ Chí Minh và Trường Chinh Đặng
Xuân Khu, Tổng Bí thư Đảng Lao Động, hay đảng CSVN, chủ trương
“Củng cố miền Bắc, chiếu cố miền Nam”.
Về chủ trương Củng cố miền Bắc, CSVN có những bước “nhày
vọt” thần tình. Trong các cơ cấu đảng và chính phủ, chính
trị hay quân sự, hành chánh hay tài chánh, văn hoá hay xã
hội v.v… đều phải triệt để áp dụng hệ thống cấp bộ và
đảng bộ song hành (parallel hierarchy): chỉ huy nghiệp vụ
chuyên sâu và chính uỷ đảng trị chuyên chế. Họp hành tố
cáo đồng bạn, tự phê bình kiểm thảo, thường xuyên và trong
các đợt chỉnh huấn để loại trừ các phần tử trí thức và
tư sản… cho biến mất, cho đi cải tạo, cho đi canh tác ở các
khu kinh tế mới trong các vùng rừng sâu nước độc, cho trở
về cố lý nhưng cắt mọi nhu cầu sinh sống với chính sách
“cô lập” [isolation] nghĩa là bị hoàn toàn tách rời ra khỏi
mọi hoạt động xã hội, đi lại, liên lạc, mua bán, kể cả lao
động, cấm cả việc canh tác dù là ngọn rau, hạt đậu, chết
đói cả nhà. Trong quần chúng, đảng và chính quyền CSVN
tiến hành cải tạo xã hội với tất cả các biện pháp tinh
vi nhất và sâu độc nhất “bứng tận gốc bốc tận rễ” các
thành phần “trí, phú, địa, hào” nổ̉i bật nhất là hai sử
kiện bất hủ “Cải cách Ruộng Đất” và “Nhân Văn Giai Phẩm”.
Chiến dịch “Cải cách Ruộng Đất” học được của CSTQ, chính
Trường Chinh là người chủ động tố cáo và giết chết cha mẹ
ruột của mình, nêu gương để đồng bào tố cáo lẫn nhau do
cán bộ cải cách ruộng đất xúi bẩy bần cố nông tố cáo,
hài tội “địa chủ” công khai trước các “toà án nhân dân” để
xử tội chết hoặc tù đày. Bất cứ ai có một gian nhà nhỏ,
mảnh vườn quanh nhà, và một con heo hay mấy con gà trở lên
chúng gọi là “địa chủ”. Đa số gia đình của các “địa chủ”
nạn nhân cũng bị chết đói bởi chính sách “cô
lập”[isolation] nghĩa là cấm không được mua thực phẩm của
các hợp tác xã “mậu dịch quốc doanh”, cấm lao động sản
xuất và cấm cửa không cho ai ra khỏi nhà. Không có ăn tất
nhiên chết đói, trẻ con chết trước, rồi người già, rồi đến
những người khác trong gia đình. Gia đình này chết, cùng
lượt, hay kế tiếp những gia đình khác. Với chiến dịch này
CSBV đã giết trên 500,000 người trong 10,000 làng xã Miền
Bắc. (33) Quần chúng ở Nam Đàn và Quỳnh Lưu vũ trang gậy
gộc biểu tình phản đối CCRĐ và việc cấm không cho di cư vào
Miền Nam, Hồ Chí Minh ra lệnh điều động quân chính quy cấp
sư đoàn đàn áp, giết chết và bỏ tù hàng vạn ngưởi. Trí
thức mang tư tưởng cởi mở và tự do thuộc phong trào “Nhân
Văn và Giai Phẩ̉m” [NV & GP] của nhóm nhà thơ, nhà văn, nhà
báo, học giả, giáo sư và sinh viên thuộc các tổ chức hay cơ
cấu đảng, chính phủ, bộ đội và học đường Miền Mắc, trước
tiên là bất mãn với cấp lãnh tụ và chế độ và có lẽ
nhận thức được sự chuyên chế của đảng và nhà nước CSVN đã
nhúng tay thô bạo bóp chặt khối óc, mạch máu và dạ dày
của mọi tầng lớp xã hội và nhất là sau chiến dịch cải
cách ruộng đất của đảng gây tang chế cho cả Miền Bắc và
các cuộc đàn áp lương dân dã man của bộ đội, nói trên, đã
viết thành những tiểu phẩm văn học tuyệt tác trong hai tạp
chí Giai Phẩm và Nhân Văn tạo nên giai thoại chống lãnh tụ
và đảng bằng ngòi bút ảnh hưởng vô cùng rộng lớn trong
thanh niên và sinh viên học sinh như: gọi HCM là “chiếc bình
vôi”, càng già càng hẹp lượng. Hồ Chí Minh còn được ví như
một người thiếu nghị lực để cho đất nước bị cắt ngang
lưng, làm cho đất trời Miền Bắc rợp màu máu và bóng dáng
hung thần. Những hung thần, hay những lãnh tụ cộng sản sắt
máu này, là những tên khổng lồ “không có trái tim” tàn phá
khủng khiếp, giết chóc kinh hoàng. NV & GP còn gọi những tay
làm văn học một thời nổi danh, nhưng từ khi phục vụ cho
cộng sản đã trở thành những con ngựa già kiệt sức và
những người làm thơ một thời được yêu chuộng đã trở thành
những con robots-thơ. Sau nữa, nhóm NV & GP kêu gọi CSVN trả
tự do cho pháp luật, y khoa và văn học… Tuy nhóm chủ đạo
tuyên huấn và “văn học”cực đoan tôn thờ Staline kết tội phong
trào NV & GP, Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị đảng Lao Động
vẫn giả bộ làm ngơ. Nhưng khi sinh viên Hà Nội nhập cuộc
với tạp chí “Đất Mới”, lập tức Hồ ra lệnh đóng cửa các
tạp chí Nhân Văn, Giai Phẩm và Đất Mới, tịch thu các số đã
in ấn. Họp hành đấu, tố, lung tung. Cuối cùng những ai chủ
trương hay cộng tác với NV & GP như Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi,
Lê Đạt, Hoàng Cầm, Văn Cao, Trần Dần, Trần Duy, Sĩ Ngọc, Như
Mai, Phùng Cung, Phùng Quán, Bùi Quang Đoài, Trần Lê Văn,
Hoành Tích Linh, Tạ Hữu Thiện, Hữu Loan, Quang Dũng, nhà văn
giáo sư Nguyễn Bách Khoa Trương Tửu, học giả Đào Duy Anh, kể
cả các trí thức khoa bảng như TS. Trần Đức Thảo và TS.
Nguyễn Mạnh Tường từ Pháp về, kẻ bị lãnh án tù, kẻ bị
bắt cải tạo, tước đảng tịch, bị sa thải, suốt đời mai
một, cơ cực đói khổ với miếng cơm manh áo. Một ngày thoát
ra khỏi bàn tay lông lá của những tên lãnh tụ không tim, đến
Paris, Nguyễn Mạnh Tường cảm khái nỗi đau của mình khi cộng
tác với CSVN, viết quyển sách”Un Excomuniqué”. Tấm gương trí
thức cộng tác với CSVN để vứt bỏ cả một đời người này
đáng để những trí thức khoa bảng hải ngoại ngày nay nhìn
mà suy ngẫm… Thương tâm nhất là tất cả sinh viên nhóm Đất
Mới hoặc là sinh viên hay học sinh ở Hà Nội hay ở các tỉnh
chỉ là độc giả cuả NV & GP và Đất Mới cũng bị bắt cải
tạo, vô số: nhiều người tự sát trong tù, nhưng đa số các cô
cậu học trò này có đi tù-không-án và mãi mãi không còn ai
trở về, chỉ vì họ bị nhiễm độc tư tưởng phản động và
chống đảng. Mọi phong trào đều bị giập tắt, toàn Miền
Bắc, quần chúng già, trẻ, trai, gái từ thành thị đến thôn
quê đều bị cưỡng bách vào đội ngũ do đảng chỉ đạo. Hệ
thống “mậu dịch quốc doanh” bóp chặt hầu bao của họ. Bất
tuân lệnh là chết đói. Cho nên, Hồ Chí Minh và các lãnh tụ
CSVN thống trị Miền Bắc không cần chinh phục khối óc và
trái tim quần chúng, ngược lại… tàn sát tập thể dân lành,
nếu cần, để đè đầu cưỡi cổ những người còn lại. Đó là
thứ “lương tri thế tận” man rợ. Về đường lối “Chiếu cố
Miền Nam”, sau chiến thắng Điện Biên Phủ và sau Hiệp ước
Genevève 1954, CSBV chỉ rút bớt quân nhưng vẫn để lại 4,000
cán bộ chỉ huy bộ đội Pathet-Lào của Souphanouvong. Ông này
và Sieu Heng lãnh tu ̣đảng Cộng Sản Cao Miên trước đây do Hồ
Chí Minh huấn luyện ở Pác Bó, Tuyên Quang. Võ Nguyên Giáp
còn để lại ở trung và hạ Lào nhiều đơn vị cấp trung đoàn,
nhất là một đơn vị lớn do Đồng Sĩ Nguyên chỉ huy, thám sát
con đường mòn cũ của các tay buôn lậu thời thực dân Pháp,
từ đèo Mụ Già ở trung Lào. chạy xuôi vùng núi rừng, cập
theo dãy Trường Sơn vào tận vùng đất đỏ Đôn Luân, Lộc Ninh
và cập vùng lưỡi câu biên giới Miên xuống tận Tây Ninh. Đoàn
xây dựng “Đường mòn Hổ Chí Minh” do Võ Bầm chỉ huy triển
khai mở con đường mòn này thành hành lang xâm nhập không lâu
sau đó. Hành lang này là con đường chiến lược “chiếm trung
và nam Lào để khống chế Sài Gòn” mà Mao Trạch Đông từng
chỉ thị cho Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đem quân tiến sang
Lào cuối năm 1953, từ đó diễn ra trận Điện Biên Phủ. Đường
mòn HCM là tai hoạ lớn cho Miền Nam sau này. Thêm vào đó,
HCM cho thành lập Trung ương Cục Miền Nam và sau đó thành
lập thêm Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam với nhóm “chính
khách sa-lon” Nguyễn Hữu Thọ và Huỳnh Tấn Phát, Trương Như
Tảng, Dương Quỳnh Hoa v.v… Trong khi đó, ở Miền Bắc, sau khi
thanh toán xong lớp thanh niên trí thức, sinh viên và học sinh
bị nhiễm độc tư tưởng của phong trào NV & GP, Hồ Chí Minh
và Bộ Chính trị đảng CSVN bắt đầu đào tạo thế hệ mới
“sinh Bắc, tử Nam” để chuẩn bị tung vào chiến trường Miền
Nam qua ngả Lào và Miên.
Miền Nam, Chính phủ Ngô Đình Diệm được Tổng thống Hoa Kỳ
Eisenhower yểm trợ mạnh mẽ về chính trị, ngoại giao, quân
sự và kinh tế. Dưới áp lực của Hoa Kỳ và tình hình nội
bộ bất ổn, Pháp trao quyền chỉ huy Quân Đội Quốc Gia cho
Chính phủ Quốc Gia Việt Nam tháng 1/1955 và rút hết quân
viễn chinh về nước trong vòng một năm. Quốc trưởng Bảo Đại
lần sau cùng đóng góp vào sự gầy dựng một quốc gia độc
lập với một chính quyền mạnh đã can thiệp với chính quyền
Pháp và chính mình ra lệnh cho Trung tướng Nguyễn văn Hinh,
người chủ trương lật đổ Ông Diệm, phải rời chức vụ Tổng
Tham Mưu Trưởng QĐVN và trở về Pháp. Tướng Hinh, quốc tịch
Pháp –là con của Đốc Phủ Sứ Nguyễn văn Tâm,Thủ tướng QGVN,
tiền nhiệm của Hoàng thân Bửu Hội– phục vụ trở lại cho
Không Quân Pháp và lần lượt thăng đến cấp Đại tướng, Tư
lệnh Lực lượng Nguyên tử Phòng không Pháp. Ông Diệm từ đó
nắm trọn quân đội, khoảng chừng trên 100,000 quân và toàn
quyền hành động để ổn định Miền Nam.
Về quân sự, việc thành lập một lực lượng vũ trang duy nhất
và mạnh, nhờ sự yểm trợ trực tiếp của Phái bộ TRIM [The
Training Relation Instruction Mission] Hoa Kỳ do Tướng John
O’Daniel chỉ huy, hoàn toàn thay thế chương trình huấn luyện
của Tướng Pháp Paul Ely trước đây. Trường Võ bị Liên quân Đà
Lạt trở thành Trường Võ bị Quốc gia [The National Military
Academy], Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, và các Trường Hạ
Sĩ quan Đồng Đế Nha Trang và Cây Điệp, Hóc Môn, đến đầu năm
1955, đã đào tạo được thêm khoảng 18,000 sĩ quan và hạ sĩ
quan. Nhưng quân số của quân đội cũng chưa vượt quá 122,000
người. Bộ Tổng Tham Mưu với Thiếu tướng Lê văn Tỵ làm Tổng
Tham Mưu Trưởng và Đại tá Trần văn Đôn làm Tham Mưu Trưởng,
từ thành Ô-Ma [Camp Aux Mars] đường Galiéni chuyển lên căn cứ
Chanson [Camp Chanson] ở Tân Sơn Nhứt, tổ chức thêm Phòng 3
Hành Quân, Phòng 5 Quân Huấn, Phòng Nghiên Cứu và thành lập
Bộ Chỉ huy Viễn Thông. Từ tháng 8/1955 tất cả Phòng thuộc
BTTM đều do sĩ quan cấp tá VN chỉ huy. Đã có phân nhiệm rõ
ràng giữa Bộ Quốc Phòng và Bộ Tổng Tham Mưu. Ở cấp bộ
trung ương, thành lập Liên đoàn Nhảy Dù do Trung tá Đỗ Cao
Trí chỉ huy gồm các Tiểu đoàn Nhảy Dù 1, 3, 4, 5, 6, và 7.
Thuỷ Quân Lục Chiến chỉ có mấy đơn vị cấp đại đội, trực
thuộc Bộ Tư lệnh Hải Quân. Binh chủng Thiết Giáp có 4 trung
đoàn thiết giáp và 1 trung đoàn thuỷ xa. Pháo Binh có 9
tiểu đoàn biệt lập, và Công Binh thành lập Bộ Chỉ huy ở
Trung ương và 3 liên đoàn công binh cơ động. Tháng 3/1955, Đại
tá Dương văn Minh và Trung tá Nguyễn Khánh được chỉ định
làm tư lệnh và tư lệnh phó các chiến dịch đánh dẹp lực
lượng Bình Xuyên ở Chợ Lớn. Tháng 5 và 6 bình phục lực
lượng Hoà Hảo Trần Quang Vinh hay Ba Cụt ở miển Tây. Trừ ông
này bị tòa án quân sự xữ tử hình, và là người duy nhất,
tất cả cấp chỉ huy giáo phái đều được sát nhập vào Quân
Đội Quốc Gia với cấp bậc sĩ quan, cấp tá hay úy, tùy khả
năng. Ông Trình Minh Thế lực lượng giáo phái Cao Đài hợp
tác với chính phủ Ngô Đình Diệm và được phong Tướng (sau
đó tử trận khi đánh Bình Xuyên) nhiều sĩ quan khác được
phong cấp tướng. Quân đội Quốc gia Việt Nam mạnh hơn với sự
sát nhập của lực lượng giáo phái. Bộ Tư lệnh Không Quân
Việt Nam [Vietnam Air Force –VNAF] được chính thức thành lập
tháng 1/1955. Bộ Tư lệnh Hải Quân Việt Nam [Vietnam Navy -VNN]
được thành lập tháng 8/1955. Cả hai quân chủng này chưa có
thực lực hành quân. Riêng về Bộ Binh khi Ông Diệm về chấp
chánh đã có 82 tiểu đoàn lãnh thổ, 81 tiểu đoàn khinh binh,
6 tiểu đoàn ngự lâm quân và 8 tiểu đoàn sơn cước. Các đơn
vị này chỉ có khả năng hoạt động riêng rẽ, trong khi đó
Miền Bắc CSVB đến cuối năm 1955 đã có tất cả 18 sư đoàn bộ
chiến, cơ giới, phòng không và pháo binh, kinh nghiệm công
kiên chiến và vận động chiến; các sư đoàn bộ chiến 304,
308, 312, 316, 320, 325, 328, 332, 350, 305, 324, 330, 328 và 335;
sư đoàn Phòng không 367; ba sư đoàn Pháo binh 45, 75 và 349.
Lực lượng di động tác chiến có thể trên 350,000 chưa kể các
đơn vị chiến xa, công binh và truyền tin dã chiến và những
đơn vị biệt lập và phòng thủ diện địa lên đến 24 trung
đoàn và 91 tiểu đoàn; không quân; hải quân; dân quân du kích
điạ phương và 170,000 cán bộ hành chánh võ trang. Tổng cộng
Miền Bắc có một lực lượng quân sự trên dưới 1,000,000
người, trong đó có thể sử dụng từ 35% đến 40% đánh giao
thông vận động chiến hay mở cuộc tấn công diện địa ngay sau
Hiệp ước Genève 1954. Quan trọng hơn, miền Bắc đã có trên
102,000 cố vấn các ngành nghề, trên 60% trong Đoàn Cố vấn
Quân sự của Tướng Vi Quốc Thanh. La Quý Ba trở thành Đại sứ
đẩ̀u tiên của Bắc Kinh ở Hà Nội. HCM và CSVN bị kẹp sát,
nên hiểm hoạ cho Miền Nam chưa biết bùng nổ lúc nào. Vì
vậy, Hoa Kỳ giúp Quân Đội Quốc Gia Miền Nam thành lập đại
đơn vị cấp sư đoàn gồm: 4 Sư đoàn Dã chiến (3, 21, 31 và
32); 6 Sư đoàn Khinh chiến (11, 12, 13, 14, 15 và 16) bằng cách
sát nhập các tiểu đoàn đã có từ trước và huấn luyện
hành quân phối hợp. Ngoài ra QĐQG còn có 13 trung đoàn địa
phương và 6 trung đoàn giáo phái. Tổng cộng chừng 170,000
quân. Hoa Kỳ ước tính là trong trường hợp Miền Nam bị tấn
công qui mô trong thời điểm đó –như Bắc Hàn từng tấn công Nam
Hàn 5 năm trước– thì với các đại đơn vị này Miền Nam có
thể cầm cự được cho đến khi Tổ chức Liên phòng Đông Nam Á
[South-East Asia Treaty Organization, SEATO] can thiệp. SEATO được
Đồng Minh Hoa Kỳ và Anh tổ chức tháng 2/1955 gồm có Anh,
Úc, Hoa Kỳ, Nam Dương, Pháp, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, và
Thái Lan.
Về chính trị, trong bức thư ngày 1/10/1954 gởi Thủ tướng Ngô
Đình Diệm, Tổng thống Eisenhower giải thích rõ sự yểm trợ
về chính trị, quân sự và kinh tế lớn lao của Hoa Kỳ: “Mục
đích của sự yểm trợ này là giúp Chính phủ Việt Nam phát
triển và trở thành một quốc gia mạnh, đủ sức chống lại
mọi âm mưu lật đổ hay bành trướng bằng mô thức quân sự…”
(34) Eisenhower sợ quân bài domino Việt Nam bị… đổ. ông Diệm
gặt được những bước thành công đẩu tiên khi chấp chánh với
toàn quyền hành xử là được sự ủng hộ của các đảng phái
quốc gia, quân đội và quần chúng vì sự tận tâm giúp đỡ
của Ông cho việc an cư lạc nghiệp của đồng bào di cư miền
Bắc và ổn định trật tự xã hội với vật giá thị trường
thấp. Việc sinh sống của dân chúng dễ dàng. Đồng bào miền
Bắc vào không hối hận về việc định cư trong Miền Nam và đa
số yêu mảnh đất lành trù phú và cởi mở này. Sau khi ổn
định xong các giáo phái tháng 7/1955 Ông triệu tập “Ủy ban
Cách mạng” gồm 200 đại biểu của 18 đảng phái và đoàn ngũ.
Tháng 10, Uỷ ban nầy trở thành Quốc Hội và biểu quyết tổ
chức “trưng cầu dân ý” ngày 23/10/1955 [October-23 Plebiscite]
truất phế Quốc trưởng Bảo Đại, lập ông Ngô Đình Diệm làm
Tổng thống của nền Đệ I Cộng Hoà Việt Nam. Tháng 3/1956,
tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến với 123 dân biểu soạn
thảo Hiến pháp thiết lập cơ chế căn bản cho nền Cộng Hoà
Miền Nam. Quân Đội Quốc Gia đổi tên thành Quân Đội Cộng Hoà
Việt Nam. Giả sử ông Diệm không tổ chức “trưng cầu dân ý”
để truất phế Bảo Đạo và thiết lập Đệ I Cộng Hoà, thì vị
cựu hoàng này cũng không bao giờ trở lại cầm quyền, vì Ông
là bậc trí giả, hiểu rõ sự hưng phế của các triều đại
trong lịch sử và cũng tự biết vai trò của Ông đã chấm dứt
và Triều đại nhà Nguyễn cũng đã chấm dứt từ mươi năm
trước rồi. Và, chúng tôi cũng không tin rằng một người tuy
là công giáo nhưng rất thủ cựu, vẫn giữ nề nếp sống theo
luân lý Khổng, Mạnh, rất đạo đức, lại từng là Thượng thư
bộ Lại của Hoàng triều Bảo Đại –nhất trụ đại thần– như
ông Ngô Đình Diệm, dù không đồng quan điểm về sách lược trị
nước an dân với nhà vua, một lần đã từ chức ra đi, nhưng
chắc không nở làm cái chuyện thay quân tiếm vị… Thiển nghĩ,
sở dĩ có chuyện phế lập cuối năm 1955 chắc chắn vì Hoa
Kỳ, trong thời kỳ muốn chận đứng làn sóng đỏ tràn xuống
Đông Nam Á, không thể để một tiền đồn quan trọng như Việt
Nam có một thể chế chính trị không rõ ràng và một quân
đội yếu kém nên… chuyện tất phải diễn ra đã diễn ra như
chính sử đã ghi, mà ông Ngô Đình Diệm, nếu muốn cho đất
nước mạnh, tất phải theo cái lý hợp lý (logic) nhất. Thành
lập một thể chế chính trị mạnh và một quân đội mạnh để
chống CSVN. Có thể đây cũng là một trong những điều bất
khả cưỡng mà các nhà lãnh đạo Miền Nam trước thế lực chỉ
đạo Thế giới Tự do. Tổng thống Diệm và ông em, Cố vấn Ngô
Đình Nhu, với chính sách “Ấp Chiến Lược” thành công tiêu
diệt gần như toàn bộ 16,000 CSVN để lại miền Nam từ năm
1954-1955 không tập kết, tiếp tục khuấy động giai đoan I du
kích chiến ở thôn quê Miền Nam. Trên bình diện rộng lớn hơn,
ông Cố vấn Ngô Đình Nhu –một học giả và chiến lược gia– đã
đem thuyết ‘Cần lao Nhân vị” (Personnalisme, theo Pháp ngữ,
không có chữ này trong tự điển Anh ngữ) áp dụng như chủ
thuyết căn bản tôn trọng phẩm cách và quyền sống của con
người để chống lại thuyết cộng sản vô thần. Tuy nhiên, thay
vì tuyên truyền công khai trong quần chúng và giải thích
nguyên lý tinh thần cao đẹp của thuyết này cho chính giới
Hoa Kỳ hiểu, đem áp dụng rộng rãi hầu thu phục nhân tâm,
ngược lại chỉ âm thầm tiệm tiến như một hội kín, thu nhận
những phần tử và sĩ quan tín cấ̉n rất hạn chế và sử
dụng những thành phần này điểu khiển chính quyền và quân
đội tạo nên sự thưởng phạt bất công, nên sự đoàn kết không
còn chặt chẽ nữa. Các đảng phái quốc gia mất tin tưởng
vào chính quyền. Thí dụ như nhà cách mạng Nhất Linh Nguyễn
Tường Tam cao ẩn ở một gốc núi yên tĩnh ở Đà Lạt và
nhiều nhà cách mạng khác như Phan Khắc Sửu, Phan Quang Đán,
Trần văn Ân, Hồ Hữu Tường v.v… bị bắt đày đi Côn Đảo. Ở
miền Trung, có chính quyền các có quân đội nhưng quyền xử
lý thực sự ở trong tay ông Ngô Đình Cần. Từ đầu năm 1960,
người ta nghe rất nhiều về chữ “chính quyền gia đình trị,
độc tài và tham nhũng.” Quyền lực quốc gia nằm trong tay
của mốt số ít người… Nhóm chính trị trí thức “Caravelle”
ra tuyên ngôn ngày 26/4/1960 chỉ trích chính quyền Tổng thống
Diệm. Phật giáo miền Trung âm ỉ. Các giới chức chính trị
và quân sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn không hiểu “cần lao nhân vị”
là gì, nhưng CIA và Toà Đại sứ Hoa Kỳ đã để mắt quan sát.
Sự bất mãn trong quân đội bộc phát khi Lữ đoàn Nhảy Dù do
Đại tá Nguyễn Chánh Thi chỉ huy cuộc đảo chánh, tấn công
dinh Độc Lập ngày 11/11/1960. SĐ21BB ở miền tây do Thiếu
tướng Trần Thiện Khiêm tiến lên Sài Gòn cứu viện. Một bí
ẩn là, trong ngày đó, Thiếu tướng Nguyễn Khánh liên lạc
được với Trung tá Lâm Quang Thơ, Tỉnh trưởng Mỹ Tho, mang một
đơn vị thiết giáp đến trước dinh Độc Lập và gặp em là
Trung úy Lâm Quang Thới đang chỉ huy một đại đội thuộc Tiểu
đoàn 1 Nhảy Dù tấn công cổng chính và mặt tiền dinh. Chính
sự dàn xếp của anh em Lâm Quang và các cánh quân cứu ứng
của Tướng Trần Thiện Khiêm và Tôn Thất Đính đến nên cuộc
đảo chính của Nguyễn Chánh Thi thất bại. Ông Diệm được cứu
thoát.
Cũng tháng này, ở Hoa Kỳ, trong cuộc cuộc bầu cử tổng
quát, ứng cử viên trẻ của đảng Dân Chủ John F. Kennedy đắc
cử tổng thống nhiệm kỳ 1961-1965. Lúc đó, các nhà bình
luận chính trị và quân sự quốc tế, khi quan sát cục diện
thế giới, cho rằng sẽ có những thay đổi lớn ở Việt Nam.
Nhiều vị ghi nhận, Tổng thống Eisenhower –một chiến lược
gia, một nhà chính trị lão luyện– đã thực hiện được chính
sách của Roosevelt là đẩy Pháp ra khỏi Đông Dương, đồng thời
thừa kế được sách lược của Truman lập các liên minh quân sự
ở các đại dương và các châu lục, trước tiên tung tiền cho
Pháp đánh thuê, nhưng khi Pháp bất lực, đã quyết định xây
dựng lực lượng của Chính phủ Ngô Đình Diệm để giữ quân
bài domino Việt Nam đứng vững. Tuy nhiên, có thể Eisenhower
đã không thực hiện được sách lược của mình ở Việt Nam vì
dù ông Diệm là một lãnh tụ đạo đức, nhưng thủ cựu –ngay
cả như ông Cố vấn Ngô Đình Nhu, một lý thuyết gia thâm trầm–
cũng không biết có nhận thức được rõ ràng “Chiến tranh
Cách mạng” [Revolutionary War] mà CSVN đang áp dụng, không chỉ
là du kích và bạo động chiến mà là một một cuộc chiến
toàn diện quy mô rộng lớn nhằm đoạt chính quyền và chiếm
lãnh thổ hay không? Có lẽ vì vậy, khi bàn giao chức vụ,
Eisenhower khuyên cáo Kennedy nên chú trọng đặc biệt về lãnh
thổ Lào mà CSVN đang lợi dụng để nam tiến và nếu Kennedy
định mang quân vào Lào, Ông sẽ yểm trợ. Tuy nhiên Chính phủ
Kennedy đã làm khác hơn. Thứ nhất, các cố vấn chính trị
của Kennedy cho rằng Chính quyền Ngô Đình Diệm đã bị ông bà
Cố vấn Ngô Đình Nhu thao túng, nên càng ngày càng bị các
đảng phái và các tôn giáo chống đối cho là độc tài, gia
đình trị, phân biệt tôn giáo, nên trước tiên họ muốn loại
ông bà Nhu. Bị từ chối, họ tiến thêm một mức nữa là đặt
vấn đề “thay hay không thay” ông Ngô Đình Diệm? Thứ nhì,
chính khách “diều hâu” trong Chính phủ Kennedy chẳng những
huỷ bỏ quan niệm chiến tranh uỷ nhiệm, muốn đem quân Hoa Kỳ
vào Nam Việt Nam để trực tiếp điều khiển tiền đồn tự do
này chống CSQT mà còn đưa chiến tranh đặc biệt ra miền Bắc
Việt Nam. Kennedy cho thành lập Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ
và thành lập ở Ngũ Giác Đài cơ quan gọi là “Phòng Phụ tá
Đặc biệt Chống Chiến tranh Phiếm loạn và Hoạt động Đặc
biệt” [The Office of the Special Assistant for Counter-Insurgency
and Special Activities”]; đổi tên MAAG ở Miền Nam thành MACV
[Military Assistance Command–Vietnam] và đặt một cơ quan gọi là
MACV/SOG [MACV’s Studies and Observation Group] để điểu khiển
các đơn vị thi hành kế hoạch hành quân mật “Operation Plan
34A” phá hoại và tuyên truyền gây rối loạn ở Miền Bắc,
trong đó có đài phát thanh mật “Gươm Thiêng Ái Quốc”[Secred
Sword Patriot’s League] của Cục Tâm Lý Chiến QĐVNCH. MACV/SOG
nhận chỉ thị và báo cáo trực tiếp cho Phòng Phụ tá Đặc
Biệt nói trên không phải thông qua Tướng Paul Harkin bấy giờ
là Tư lệnh MACV. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất của
Washington vẫn là sách lược đưa quân tác chiến [combat troops]
Hoa Kỳ vào Việt Nam, sử dụng Miền Nam như mảnh đất thí
nghiệm sách lược “chống chiến tranh phiến loạn”
–counter-insurgency strategy– mà Kennedy cho rằng sẽ phải áp
dụng trong tương lai ở nhiều nơi trên thế giới, khi mà chiến
tranh lạnh giữa Liên Xô Nga và Hoa Kỳ đã bắt đầu và một
cuộc chiến quy mô chưa thể diễn ra. Chính Kennedy tuyên bố
trong một cuộc hội thảo ngày 5/5/1961:“Hoa Kỳ sẽ coi trọng
việc sử dụng lực lượng Hoa Kỳ để giúp Miền Nam chống áp
lực cộng sản, nếu cần.”(35) Tổng thống Diệm thông báo cho
Đại sứ Hoa Kỳ Nolting biết là dân chúng miền Nam không chấp
nhận quân lực Hoa Kỳ vào Miền Nam. Thứ Ba, thay vì định đưa
lực lượng Hoa Kỳ vào Nam Việt Nam, tốt hơn nên đưa sang Lào
như tầm nhìn chiến lược của Eisenhower, để chiếm thượng
phong và nếu phải đánh nhau với bộ đội Hồ Chí Minh ở đó
thì cũng vạch được bộ mặt xâm lăng của CSVN trước dư luận
quốc tế. Chính phủ Kennedy chấp thuận giải pháp chính trị
lừng khừng của Phụ tá Ngoại giao Averell Hariman và phụ tá
của ông này là William Sullivan lập thêm thế lực thứ ba giữa
hai thế lực quốc gia Phoumi Nosavan và cộng sản Souphanouvong
là biến một ông đại uý thành tướng hai sao –Khong Le hay Kong
Le– rồi triệu tập Hội nghị lần hai ở Genève tháng 5/1962
gồm 14 quốc gia ký “Hiệp ước Trung lập Lào” bỏ vùng Sầm
Nứa xuống tận nam Lào cho Pathet-Lào kiểm soát. Trên thực
tế là giao vùng lãnh thổ này cho bộ đội Võ Nguyên Giáp
khai thác. Đoàn 559 Đặc biệt với hơn 35,000 cán binh bộ đội
và thanh niên xung phong Miền Bắc do Võ Bầm chỉ huy lợi dung
cơ hội đình chiến và trung lập ở Lào công khai xây dựng và
mở rộng “Đường mòn Hồ Chí Minh” mà binh sĩ Hoa Kỳ sau nầy
gọi là “Đại lộ Sullivan”vì chính ông Sullivan khi đó được
bổ nhậm làm Đại sứ ở Lào cấm tuyệt mọi hoạt động quân
sự của các lực lượng Hoa Kỳ khác, trừ cuộc chiến mật [the
tacit war] mà ông ta lãnh đạo ở đó. Ông này còn yểm trợ cho
Vang Pao thành lập lực lượng gần 20,000 quân người Nùng ở
thượng Lào để chống quân Bắc Việt và Pathet-Lào. Các tay
chính trị này tự gây tai hoạ lớn lao cho Hoa Kỳ sau đó. Thứ
tư, Washington lập Đoàn “Đặc nhiệm Quân sự Sài Gòn” [Saigon
Military Mission -MSS] nhưng do CIA Sài Gòn chỉ đạo, vừa thành
lập và huấn luyện những đơn vị đặc biệt của QĐCHVN và
Cảnh Sát Quốc Gia, vừa theo sát hoạt động quân sự lẫn
chính trị của Chính quyền Sài Gòn. Phật giáo miền Trung
gây rối loạn, viện lý do chính quyền Huế cấm treo cờ Phật
giáo trong buổi lễ Phật Đản ở Chùa Từ Đàm, các lãnh tụ
Phật giáo điều động Phật tử biểu tình cướp đài phát thanh
Huế ngày 8/5/1963 đả kích chính quyền, bị giập tắt với
một ít người chết. Phong trào Phật giáo xuống đường lan
rộng. Dàn dựng cả tu sĩ tự thiêu ở ngay thủ đô Sài Gòn;
bị bà Ngô Đình Nhu lật tẩy. Sau khi chính quyền dùng Lực
Lượng Đặc Biệt và Cảnh Sát Dã chiến mạnh bạo giải tán
các cuộc biểu tình và báo chí Sai Gòn chỉ trích chính
sách can thiệp thô bạo của Hoa Kỳ vào Nam Việt Nam, ngày
22/8/1963 Kennedy chỉ định Henry Cabot Lodge đột ngột thay thế
Frederic Nolting làm Đại sứ ở Sài Gòn. Lodge tức khắc nắm
lấy Đoàn “Đặc nhiệm Quân sự Sài Gòn” để tổ chức đảo
chính Chính phủ Ngô Đình Diệm.
Đảo chính 1/11/1963 giết Tổng thống Ngô Đình Điệm và Cố
vấn Ngô Đình Nhu. Chỉ hai ngày sau, ngày 24/8, Lodge điện về
Bạch Ố́́c, qua Phụ tá Bộ Ngoại giao Roger Hilsman, phụ trách
Viễn Đông Sự Vụ, cho biết là Toà Đại sứ Sài Gòn đã tiếp
xúc với vài tướng lãnh QĐCHVN và họ sẵn sàng làm cuộc
đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ở Washington,
một số tay chính trị thân cận Tổng thống Kennedy và ở bộ
Ngoại giao yểm trợ Lodge. Lodge dùng Trung tá Lucien Conein,
nhân viên CIA và là thành viên của “Saigon Military Mission”,
một điệp viên cừ khôi, tiếp xúc với một vài tướng lãnh như
Dương văn Minh, Trần văn Đôn và Lê văn Kim đặt kế hoạch đảo
chính. Dù Tướng Paul Harkin, Tư lệnh MACV phản đối, nhưng
cuộc đão chính vẫn được tiến hành. Ngày 1/11/1963, Tướng
Tôn Thất Đính chỉ huy tổng quát lực lượng đảo chính cho đơn
vị chiến xa và Thuỷ Quân Lục Chiến tấn công Bộ Chỉ huy Liên
đoàn Phòng vệ Tổng thống ở Thành Cộng Hoà và SĐ5BB của
Đại tá Nguyễn văn Thiệu bao vây dinh Gia Long –là nơi làm
việc tạm của Tống Thống Diệm– vì dinh Độc Lập bị hai sĩ
quan KQVN Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử ném bom năm trước,
ngày 27/2 1962, hư hại nặng (đang san bằng xây dựng lại một
dinh thự quy mô khác). Trong khi đó, Tướng Dương văn Minh triệu
tập cuộc họp tất cả tướng lãnh và các tư lệnh quân, binh
chủng đồn trú ở Sài Gòn và phụ cận ở Phòng họp
BTTM/QĐCHVN. Trung tá CIA Lucien Conein ở trong một phòng riêng
gần đó, với hệ thống truyền tin nối được với Toà Đại sứ
Hoa Kỳ ở Sài Gòn và cả với Washington, và một chiếc cặp
đầy dollars. Dưới họng súng của Quân Cảnh do các cận vệ
của Tướng Minh chỉ huy, tất cả các ông tư lệnh này điều ký
tên vào tuyên ngôn đảo chính của Dương văn Minh. Đại tá Lê
Quang Tung, Tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt và em là Thiếu tá Lê
Quang Triệu bị bắn chết. Đại tá Hồ Tấn Quyền, Tư lệnh Hải
Quân, bị giết trước đó ở Thủ Đức. Đại tá Cao văn Viên Tư
lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù nhờ được Tướng Trần Thiện Khiêm giúp
che chở nên thoát chết. Tổng thống Diệm và Cố vấn Nhu
thoát ra khỏi dinh Gia Long và trong đêm 1/11 liên lạc được
với Cabot Lodge. Trong cuộc đàm thoại này Lodge hứa giúp
phương tiện cho hai anh em ông Diệm ra nước ngoài. Nhưng đến
sáng hôm sau, không có thứ phương tiện nào và không có sự
tiếp xúc nào nữa của Lodge với TT. Diệm. Khoảng 10 sáng
ngày 2/11/1963, dân chúng Sài Gòn đều biết tin Tổng thống
Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu bị giết chết trong
một thiết vận xa M-113. Một phóng viên chụp được ảnh hai ông
chết trong tư thế hai tay bị trói quặp sau lưng, trên thân thể
mang nhiều vết đâm đẫm máu… (Ít lâu sau, ông Ngô Đình Cẩn ở
Huế bị bắt đưa vào Sài Gòn và bị xử bắn). Hai nhà lãnh
đạo VN này đã từ chối không để lãnh thổ bị sử dụng như
một thí điểm của một chiến thuật chiến tranh mới, hay nói
rõ hơn là chống lại thế lực Washington trong việc chỉ đạo
cuộc chiến Việt Nam. ông Diệm mất đi, Miền Nam mất một lãnh
tụ yêu nước, đức độ và có khả năng lãnh đạo quân dân miền
Nam chống CSVN. Chính quyền Nam Việt Nam rơi vào tay những ông
tướng nhiều tham vọng nhưng kém khả năng, sau đó tranh giành
quyền bính, chia chác địa vị, đấm đá lẫn nhau, mặc dù tri
thức chính trị kém cỏi và kém khả năng lãnh đạo. Cuộc
chiến thua từ quan niệm sai lầm của Chính quyền Kennedy với
những chính trị gia thiếu hiểu biết về đất nước và dân
tộc Việt Nam. Có thể Tổng thống Kennedy hối hận về cuộc
đảo chính 1/11/1963 làm Miền Nam mất một lãnh tụ mà không
dự trù người đủ khả năng thay thế. Chỉ ba tuần sau, ngày
22/11/1963 vị tổng thống trẻ tuổi và quyết đoán này bị ám
sát chết ở Dallas, Texas. Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson
tuyên thệ nhậm chức kế vị trên chiếc Không lực Một [Airforce
One] từ Dallas về Washington. Ông thừa kế di sản do vị tiền
nhiệm để lại là cuộc chiến tranh lạnh với Liên Xô đua nhau
đi vào không gian và trên địa hạt phát triển tiềm năng vũ
khí hạt nhân. Ông cũng thừa hưởng hậu quả của một cuộc
đảo chánh thảm hại ở Nam Việt Nam, ngoài sự xáo trộn trong
xã hội sau cái chết của Tổng thống Kennedy. Có thể Ông đã
đưa lên bàn cân để thận trọng cân nhắc về kế hoạch xây dựng
an sinh xã hội [to build a Great Society for the American people]
hay là theo đuổi cuộc chiến đang lâm nguy bởi các ông tướng
ở Nam Việt Nam. Tiền đồn này bỏ trống sẽ gây ảnh hưởng
lớn lao đến sự an nguy của Hoa Kỳ trên thế giới, nói chung.
Thời điểm đó nếu lép vế CSQT là thua cuộc ở Việt Nam, các
đệ tam quốc gia sẽ trở cờ theo chủ nghĩa cộng sản. Hoa Kỳ
sẽ suy sụp trên mọi bình diện. Chỉ trong vòng một ngày và
một đêm, tân Tồng thống Johnson tuyên bố tiếp tục yểm trợ
các tướng lãnh Nam Việt Nam chống CSVN. Đồng thời Ông tiến
hành cải tổ an sinh xã hội với một hệ thống bao cấp lớn
lao đúng với nghĩa “A Great Society”. Chiến cuộc Việt Nam các
năm sau làm cho Hoa Kỳ suy thoái trầm trọng.
VII. Một Cuộc Chiến Hạn Chế Và Quan Niệm Phòng Thủ Diện
Địa Với Khả Năng Cao [A Limited War With The Concept Of A
“High-Profile Defensive War”]
Trước tiên, nên ghi nhận là nhất thời Tổng thống Johnson
tiếp tục sách lược của Kennedy về Việt Nam. Chỉ dấu rõ
ràng nhất là Johnson sử dụng lại gần toàn bộ các giới
chức chính trị và tướng lãnh đã từng đưa ra những chiến
lược và chiến thuật áp dụng ở Đông Dương –nhất là ở Việt
Nam– như Ngoại trưởng Dean Rusk, Thứ trưởng Arevell Harriman,
hai anh Bundy (McGeorge Bundy và William D. Bundy), Michael
Forrestial, Clark Clifford, nhất là Bộ trưởng Quốc phòng
Robert McNamara và Tướng Marwell Taylor. Nhiều nhà viết sử Hoa
Kỳ và nước ngoài cho rằng Johnson thừa hưởng thứ sách lược
“chiến tranh phòng thủ cục bộ” không để cho chiến tranh lan
rộng mặc dù Kennedy đã chủ động đem quân tác chiến sang Nam
Việt Nam và áp dụng chiến tranh đặc biệt phá rối Bắc Việt
Nam bằng thả những toán biệt kích Việt Nam ra Miền Bắc và
những đơn vị phối hợp sử dụng loại tàu chiến nhỏ chở các
toán biệt hải Mỹ-Việt đột nhập ven biển Miền Bắc lên đến
vĩ tuyến 20 phá hoại cầu, kho tàng, nhà máy v.v… Đây là
lối đánh giặc nửa lén lút nửa công khai đúng theo quan niệm
của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ McNamara:“The greatest
contribution Vietnam is making –right or wrong is beside the point–
is that it is developing the ability in the United States to fight a
limited war, to go to war without the necessity of arousing the
public ire.”(“Công trình cống hiến lớn nhất cho Việt Nam đã
thực hiện –đúng hay sai không thành vấn đề– là Hoa Kỳ đã
khai triển được khả năng trong mộc cuộc chiến hạn chế, theo
đuổi chiến tranh mà không cần thiết làm dấy động sự phẫn
nộ của quần chúng.”)(36) Như vậy tiếng nói của McNamara là
tiếng nói chính thức về cuộc chiến của Hoa Kỳ ở Việt Nam
như một ẩn dụ phi hiến, nhưng rất rõ ràng là không thề
dùng lực lượng lớn để tấn công đối phương vì không thông qua
sự chấp thuận của Quốc hội. Phòng thủ nghĩa là không muốn
chiến thắng. Nhưng phòng thủ ở cấp bộ nào?
Trong thời kỳ Kennedy, Hoa Kỳ đã tăng nhân số cố vấn và
huấn luyên viên Hoa Kỳ ở Miền Nam từ 900 đến 16,000 người,
thêm 3,000 nhân viên và chuyên viên các cơ quan chuyên môn dân
sự, 4,000 sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ Lực Lượng Đặc
Biệt cố vấn và huấn luyện viên cho các cơ quan và tổ chức
Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam. Các phi đội trực thăng “Eagle-
Flights” với 300 phi công và chuyên viên. Tính chung, nhân số
Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam thời kỳ cuối Đệ I Cộng Hoà có thể
lên đến 24,000 người. Không lâu sau khi Johnson nhậm chức, nhân
số tăng dần lên đến con số kỷ lục, hơn nửa triệu quân và
chuyên viên mọi ngành, nhưng quan niệm chiến lược không thay
đổi. Giáo sư sử gia Hoa Kỳ John Dellinger nhận định đó là
một cuộc chiến… hạn chế cho đến khi địch thủ bị đánh bại
vì tiêu hao:“Escalating the number of American troops to more than
a haft-million while fighting a restricted war until the enemy could
be defeated by attrition.”(37) Chiến lược áp dụng vẫn là
phòng thủ diện địa ở mức độ quân số cao [a “high-profile
defensive war”] Ghi nhận của sử gia này có thể phản ảnh
đúng quan điểm chiến lược của Hoa Kỳ. Nhưng nếu đúng thì
là một nghịch lý dẫn đến sự thất bại vì Hoa Kỳ không bao
giờ sở trường trong một cuộc chiến “trì hoãn”, và không
thể che giấu mãi quần chúng như chủ trương của McNamara. Trên
thực tế, lúc đó chính quyền Johnson phải đương đầu với một
cuộc chiến khó khăn tạo nên bởi các tướng phản loạn ở Nam
Việt Nam. Một là họ tranh giành quyền bính lẫn nhau kéo
theo một đa số sĩ quan cấp tá –lớp tướng tá nầy đa số do
Pháp đào tạo– đến đỗi một phóng viên Pháp khi quan sát
chiến trường Nam Việt Nam trong các năm 1964-1966 đã viết bài
phóng sự cho rằng đó là “Cuộc Chiến của Những Ông Đại uý”
–La Guerre des Capitaines”. Đại uý trung đoàn trưởng, đại uý
tiểu đoàn trưởng, đại uý đại đội trưởng ở ngoài mặt
trận; đại uý điều hành nha sở yểm trợ trung ương. Tất cả
những ông đại uý nầy là các cấp trung uý thâm niên 7, 8, hay
9 năm, bị dậm chân tại chỗ thời kỳ Đệ I Công Hoà, vì không
thuộc “cần lao nhân vị” hay không được các ông lớn “nhân vị”
đỡ đầu. Họ được thăng cấp xả cảng sau tháng 2/1964 khoảng
năm, sáu nghìn, hay hơn nữa. Cuộc tranh giành quyền bính của
các ông tướng “tham quyền cố vị” này kéo dài gần ba năm
làm cho tình trạng chính trị Miền Nam rối loạn tạo nên sự
rối loạn xã hội trầm trọng. Dân chúng thành thị mất niềm
tin, dân chúng nông thôn bị cộng sản thao túng sau khi tất cả
các “ấp chiến lược” bị sụp đổ theo chính quyền TT. Diệm.
Hai là, nhân tình trạng bất ổn chính trị ở Miền Nam và
tình trạng trung lập lỏng lẻo ở Lào, sau khi Đường mòn HCM
được mở rộng, Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị đảng CSVN cho
xâm nhập vào Miền Nam gần như toàn bộ cán bộ Việt Minh sinh
quán ở miền Nam trở về hoạt động lén lút trong làng quê
cũ của họ và nhiều trung đoàn chính quy của bộ đội HCM
vào vùng “Ba Biên Giới” Lào-Miên-Việt, tức Mặt Trận B-3
CSBV. Các trại dân sự chiến đấu CIDG [Civilian Irregular
Defense Group] ở các thôn bản của đồng bào thiểu số suốt
đọc biên giới Cao Nguyên Trung phần –CSBV gọi là Tây Nguyên–
bị tấn công, các sắc dân thiểu số trong nhiều thôn bản đó
đã theo cộng sản với số lượng đáng kể. Ở các tỉnh miền
đông và miền tây, các tiểu đoàn cộng sản địa phương tái
hoạt động mạnh hơn… TT. Johnson triệu hồi Cabot Lodge và
Tướng Paul Harkin về Washington, đưa Tướng Marwell Taylor sang
làm Đại sứ và Tướng William Westmoreland làm Tư lệnh MACV.
Với tầm nhìn toàn diện, có thể nhận định rằng từ đầu năm
1964, Chính quyền Johnson đã phải đối đầu với hai cuộc
chiến khó khăn ở Đông Dương. Cuộc chiến mật ở Lào do
Sullivan độc quyền chỉ huy và cuộc chiến ở Nam Việt Nam do
Taylor và Westmoreland chỉ huy. Rõ ràng quan niệm cục bộ đã
được áp dụng. Tinh thần bất nhất cũng được ghi nhận. Tuy
nhiên trên thực tế thì hai cuộc chiến riêng rẽ này lại nối
với nhau bằng con đường mòn Hồ Chí Minh. Sở dĩ có tình
trạng vô lý này xảy ra vì chính ở Washington, Johnson đã coi
nhẹ vai trò của các tướng lãnh trong Bộ Tham Mưu Liên Quân
[The Joint Chiefs of Staff of the US. Forces] ngược lại Ông tín
cẩn nhóm chính trị thường họp mặt chỉ đạo chiến tranh
Việt Nam trong các buổi ăn trưa ngày Thứ Ba hằng tuần ở
Bạch Ốc gọi là nhóm “Lunch Bunch”. Nhóm chính trị gia này
hoạch định và quyết định chi tiết tất cả chính sách chính
trị quân sự lẫn chiến thuật hành quân ở Việt Nam. Riêng
cuộc chiến mật ở Lào lại do Thứ trưởng Ngoại giao Awerell
Harriman và đệ tử là Sullivan quyết định. Một sự chỉ đạo
chiến tranh lạ lùng chưa từng thấy. Vì vậy, chiến tranh thua
ngay từ Bạch Ốc. Các Tướng Tham Mưu Trưởng ở Ngũ Giác Đài
chỉ lo quân và phương tiện chiến tranh cho mấy ông chính tri
bàn giấy [the bureaurats] này chỉ đạo mấy ông tướng Hoa Kỳ
ở Nam Việt Nam đánh giặc. Giết một tổng thống và đánh một
trận giặc kỳ lạ với các loạn tướng địa phương chỉ biết
có tư lợi, không ai chịu thua ai, thì làm sao mà thắng CSVN.
Thua ở Washington, thua ở Sài Gòn. Chỉ khổ cho quân dân Miền
Nam.
Đại lược, ngày 6/1/1964, các phản tướng Miền Nam thành lập
nhóm lãnh đạo “tam đầu chế” gồm Dương văn Minh, Trần văn Đôn
và Trần Thiện Khiêm. Washington gọi nhóm lãnh đạo nầy là
“military junta”. Ngày 30/1/1964, Tướng Nguyễn Khánh, Tư lệnh
Quân khu II, với sự giúp rập của Tướng Khiêm lật đổ tam đầu
chế “Minh-Đôn-Khiêm”, nắm chính quyền và thành lập lại nhóm
tam đầu chế “Khánh-Minh-Khiêm”; Khánh ra lệnh bắt nhốt nhóm
Trung tướng Đôn, Kim, Xuân, Đính và Vỹ ở Đà Lạt. Sau đó lại
đưa Khiêm sang làm Đại sứ ở Hoa Kỳ, tự nắm quyền. Dương văn
Minh hai lần đảo chính Khánh đều thất bại. Tình hình chiến
sự khẩn trương hơn; chính Khánh yêu cầu Hoa Kỳ gởi 10,000
quân tác chiến sang Miền Nam. Tổng thống Johnson đưa McNamara
sang thị sát chiến trường. Trở về Washington, ông này cho
rằng nếu Hoa Kỳ không can thiệp mạnh Miền Nam sẽ mất không
lâu sau đó; Miền Nam cần tổng động viên để tăng thêm quân.
Ngày 17/3/1964, Johnson triệu tập cuộc họp khẩn cấp nhóm
chính trị gia và ra lệnh lập kế hoạch 37-64 [OPLAN 37-64]
chuẩn bị oanh tạc Miền Bắc và tái lập kế hoạch 34A [OPLAN
34-A] trước đây của Kennedy phá hoại ven biển Miền Bắc, nhất
là các bến cảng chuyển chiến phẩm của CSBV xâm nhập Miền
Nam. Johnson cũng áp dụng sách lược “cây gậy và củ cà-rốt”
[Stick and Carot Policy] mong dàn xếp hoà bình với CSBV trên
căn bản Hiệp định Genève 1954 qua đại diện Canada, Đại sứ
James Blair Seaborn (từ 16/6/1964 đến 18/8/1964). CSBV từ chối
và Miền Bắc chuẩn bị chiến tranh. (38) Trong khi đó thì nội
chiến ở Lào tái diễn. Lực lượng Pathet-Lao của Souphanouvong
tái tấn công quân đội Hoàng gia dữ dội. Washington lập kế
hoạch không kích dội bom Đường mòn HCM mạnh hơn. Tình trạng
Đông Dương lâm nguy tất phải được Washington giải quyết bằng
cách nào đó… Ngày 2/8/1964, diễn ra “Sự kiện Maddox”. Chiến
hạm Maddox của Hạm đội 7 Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương tuần
thám hải phận quốc tế trong Vịnh Bắc Việt bị các tàu nhỏ
của CSBV tấn công. Sau đó, chiến hạm C. Turner Joy được lệnh
tiếp cận với Maddox cũng bị tấn công. Ngày 5/8/1964, Tổng
thống Johnson ra lệnh cho thi hành kế hoạch OPLAN 37-64 không
kích Bắc Việt. Lúc 11 giờ ngày đó, 64 chiến đấu cơ Hải
Quân Hoa Kỳ đánh bom tập trung vào thành phố Vinh, phía bắc
vùng phi quân sự. Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến ở Việt Nam.
Ngày 7/8/1964, Quốc hội Hoa Kỳ chấp thuận ‘Nghị quyết Vịnh
Bắc Việt” [the Gulf of Tonkin Resolution] với 417/0 phiếu thuận
ở Hạ viện và 82/2 phiếu thuận ở Thượng viện. Hoa Kỳ chính
thức tuyên chiến với CSBV. Chiến tranh leo thang, nhưng theo
kiểu đánh nhà giàu: Chỉ tấn công đối phương bằng không tập,
không tấn công bằng lực lượng bộ chiến. Thà phí bom đạn hơn
là thí nhân mạng. Đây là sở đoản của Hoa Kỳ trong mọi cuộc
chiến. Sự thiệt hại nhân mạng sẽ làm tổn thương đến mọi
gia đình trong xã hội trù phú Hoa Kỳ.
Ở Miền Nam, sau mấy cuộc đảo chánh nữa, kết quả là Tướng
Nguyễn Khánh chịu mời ông Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng và
ông Trần văn Hương làm Thủ tướng vào tháng 8/1964. Nguyễn
Khánh, lúc đó đã mang cấp Đại tướng, lui về giữ chức vụ
Tổng Tư lệnh Quân đội. Nhưng sau một cuộc đảo chính khác
ngày 19/2/1965 và một cuộc thương lượng với các tướng trẻ,
Nguyễn Khánh chịu rời chính quyền ngày 25/2/1965 lên đường
làm Đại sứ… lưu động, lưu vong ở Pháp, rồi sang Hoa Kỳ.
Chính quyền quốc gia thực sự nằm trong tay “Hội đồng Tướng
lãnh” –các giới chức Hoa Kỳ gọi là “The Young Turks”– do
Trung tướng Nguyễn văn Thiệu lãnh đạo. Các ông tướng lập
“Hội đồng Quân lực” [the Armed Forces Council], vẫn giữ ông
Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng nhưng ngày 27/2/1965 mời Bác
sĩ Phan Huy Quát làm Thủ tướng thay ông Trần văn Hương bị
Tướng Khánh bắt giữ và quản thúc ở Vũng Tàu, không rõ lý
do. Trước đó ba tuần tình hình chiến sự trở nên sôi động.
Ngày 7/2/1965, đặc công cộng sản đột nhập vào một căn cứ
của Hoa Kỳ ở Pleiku giết chết 9 binh sĩ và làm 66 người
khác bị thương. Tổng thống Johnson ra lệnh trả đũa bằng
không tập Đồng Hới và Vinh, bắc Vĩ tuyến 17, với kế hoạch
“Sấm Rền” [Rolling Thunder]. Tuy nhiên,Tướng Westmoreland, Tư
lệnh MACV cho rằng đánh Bắc Việt bằng không tập không mang
lại kết quả. Cần phải đưa quân tác chiến vào Nam Việt Nam.
Tướng Taylor cũng đồng quan điểm. Washington quyết định đưa
hai tiểu đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến [TQLC] vào Đà Nẵng ngày
8/3/1965. Chỉ mấy tuần sau, 4 tiểu đoàn TQLC nữa được đưa
thêm vào. Trong 6 tuần, Hoa Kỳ đưa vào Nam Việt Nam 82,000 quân
và trọn năm 1965 tất cả là 182,000. Nhịp độ tăng quân tiến
hành đến chóng mặt, giữa năm 1966 là 300,000 và đến năm 1967
tổng cộng hơn 550,000 quân tác chiến. Tuy nhiên Hoa Kỳ đã
không sử dụng số quân lớn lao nầy đế tấn công trong một
cuộc chiến tất thắng mà cũng chỉ để phòng thủ Miền Nam.
Ngay khi mới nhận chức Tư lệnh MACV, Tướng Westmoreland đã
nhìn thấy vị trị chiến lược quan trọng của Lào như
Eisenhower đã nhìn thấy và khuyên Kennedy nên mang quân tác
chiến vào lãnh thổ Lào. Westmoreland lập kế hoạch sơ khởi
sử dụng một quân đoàn chừng 60,000 quân mở rộng Đường 9 từ
Đông Hà, Quảng Trị, Cam Lộ lên Khe Sanh băng qua Schépone nam
Lào đến Savanakhét, tả ngạn sông Mékong, biên giới Lào-Thái
Lan, cắt ngang Đường mòn HCM. Sẽ đánh nhau với CSBV ở nam
Lào và con đường này sẽ là tuyến trận địa chiến. Có hai
điều lợi: về chính trị, CSBV không thể nói với thế giới
là họ “đánh Mỹ cứu nước”; về quân sự̣ Hoa Kỳ có ưu thế
về không quân với B-52 chiến lược và CBU là loại bom sát
thương rộng lớn. Vậy nếu phòng thủ thì nên phòng thủ trên
tuyến này hơn là trên cả một hành lang biên giới phía tây
Nam Việt Nam, nhiêu khê, quá dài và thụ động. Đại sứ
Ellsworth Bunker vừa thay thế Tướng Taylor hoàn toàn yểm trợ
kế hoạch này của Tướng Westmoreland và chuyển trình về
Washington. Đại sứ Bunker sau đó tiết lộ:“Shortly after I
arrived, I sent a message to the President urging that we go into
Laos, If we cut the trail, the Viet Cong, I thought, would wither on
the vine. What kept them going were supplies, weapons, and
ammunitions from Hanoi.”[Không lâu sau khi nhậm chức, tôi gởi
một điệp văn cho Tổng thống thúc giục chúng ta cần phải
vào Lào. Tôi nghĩ nếu chúng ta cắt đứt đường mòn, Việt
Cộng sẽ héo dần như nho ép rượu. Những gì giúp chúng tiếp
tục chiến tranh là tiếp phẩm, vũ khí và đạn dược từ Hà
Nội đưa vào.”(39) Nhưng nhóm “Lunch Bunch” bác bỏ kế hoạch
này, Johnson nghe theo. Bắt buộc Tướng Westmoreland phải áp
dụng chiến thuật hành quân “Lùng và Diệt” [Search and Destroy
Operations] quân CSVN trong nội địa Nam Việt Nam. Chủ động nhỏ
trong thế thụ động lớn, tất nhiên Bắc Việt triệt để khai
thác Đường mòn HCM cho xâm nhập hàng trăm nghìn người và
hàng chục sư đoàn chính quy vào nam Lào và biên giới hoặc
trong nội địa Miền Nam. Tất nhiên việc phải đến sẽ đến,
mặc dù Miền Nam đã ổn định về chính trị và QLVNCH đã tổ
chức đến cấp sư đoàn, có quân số chính quy, Địa phuơng quân
và Nghĩa quân lên đến hơn 550,000. Hoa Kỳ cũng có số quân
tương đương và các nước Đồng minh Hoa Kỳ như Úc, Tân Tây Lan,
Thái Lan, Nam Hàn cũng đưa vào Miền Nam trên 60,000 quân. Tuy
nhiên một triệu quân phòng thủ phân tán mỏng cũng không thể…
thắng trong chiến tranh; không bằng một lực lượng với 250,000
trong thế tập trung tấn công.
Ngày 19/6/1965, Hội đồng Quân lực uỷ nhiệm Trung tướng
Nguyễn văn Thiệu làm Chủ tịch Uỷ ban Lãnh đạo Quốc gia
(Quốc trưởng) và Thiếu tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ làm
Chủ tịch Uỷ ban Hành pháp Trung ương (Thủ tướng). Tướng Kỳ
đưa Tướng Cao văn Viên chỉ huy các đơn vị Nhảy Dù và Thuỷ
Quân Lục Chiến ra Đà Nẵng và Huế dẹp phong trào Phật giáo
miền Trung đã lôi kéo các đơn vị quân sự nổi loạn chống
chính quyền trung ương sau khi Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh
QĐI & QK1, bị bãi chức. Đó là lần cuối cùng Phật giáo dấy
loạn. Tướng Thi bị truc xuất và lưu vong ở Hoa Kỳ. Một số
tướng kỳ cựu như Đôn, Kim, Xuân, ̣Đính đều bị giải ngũ. Quân
Đội Viêt Nam đổi danh thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà
[QLVNCH]. Ngày 7/3/1966, Tướng Thiệu và Kỳ sang Hawaii họp
với Tổng thống Jonhson, rõ ràng là bàn bạc về việc thành
lập một chính phủ dân cử chính thức cho Miền Nam nhưng được
che dấu với những tiền đề khác… Tháng 9 năm 1967 bầu cử
tổng quát; liên danh Thiệu-Kỳ đắc cử Tổng thống và Phó
Tổng thống. Miền Nam thành lập xong nền Đệ II Cộng Hoà. Dĩ
nhiên số phận của nền cộng hoà này tuỳ thuộc vào Hoa Kỳ.
Một sự thực không thể phủ nhận vì Nam Việt Nam lệ thuộc
Hoa Kỳ từ một viên đạn đến một hạt thóc; tuy nhiên người
dân thường hưởng được không khí tự do của một nền dân chủ
vừa manh nha nhưng nở rộ đến tha hoá với những tệ đoan mới
du nhập từ những anh “GIs” Hoa Kỳ. Giới bình dân giễu cợt
cái xã hội đó bằng câu mỉa mai về thứ bậc xã hội: “nhất
đĩ, nhì sư, tam cha, tứ tướng”. Đó là thứ bậc của những
đồng đô-la bỏ vào túi hàng tháng và mức độ hưởng thụ vật
chất của từng giới. Trong khi đó thì sĩ quan cấp thấp, hạ
sĩ quan và binh sĩ bắt đầu hi sinh nhiều hơn ở chiến
trường. Họ đem xương máu xây phù đồ cho ai đó mà vẫn thản
nhiên với tiếng hát từ chiến địa vọng về “túy ngoạ sa
trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi…” Suốt
năm 1967, nhiều trận đánh lớn “công đồn đã viện” đã diễn ra
ở Vùng 2 và 3 Chiến Thuật (các Quân Khu cải danh thành các
Vùng Chiến Thuật). Nhiều trận Lực lượng Hoa Kỳ chết hàng
trăm người và bị thương nhiều trăm người khác trong khi đó
thì số chết của quân CSBV ít ra là gấp 5 lần hơn. Nghĩa là
hàng năm bảy trăm người chết không kể bị thương. CSVN sẵn
sàng thí quân để chiếm miền Nam. Chiến dịch Đông Xuân
1967-1968, Võ Nguyên Giáp thành lập Mặt trận Đường 9, gồm
một quân đoàn với ba sư đoàn bộ binh và một sư đoàn pháo
chuẩn bị đánh cứ điểm Khe Sanh của Hoa Kỳ ở gần biên giới
Lào-Việt. Một sư đoàn bộ binh và bốn trung đoàn biệt lập
xâm nhập vào vùng phía nam khu phi quân sự Bến Hải, đánh
phá các căn cứ Côn Thiên đến QL-1 ở Gio Linh của TQLC/HK đang
thành lập hàng rào phòng thủ điện tử “McNamara” dưới khu
phi quân sự cập theo bờ nam sông Bến Hả̉i. Đến cuối năm sư
đoàn CSBV này đã cắt đứt đường tiếp vận của TQLC/HK trên
QL-9, từ căn cứ Calu đến phía đông cầu quận Hương Hoá. Cứ
điểm Khe Sanh do lực lượng bộ và pháo TQLC Hoa Kỳ trú đóng,
được tăng cường Tiểu đoàn 37 BĐQ/QLVNCH, tổng số khoảng 6,680
quân, bị cô lập. Westmoreland hủy bỏ hàng rào McNamara, đem
tất cả số máy điện tử còn lại lập hệ thống vòng ngoài
hệ thống phòng thủ chính cửa cứ điểm Khe Sanh, kể cả các
tiển đồn trên bốn ngọn đồi kế cận; tăng cường Pháo binh
175mm cho các căn cứ hoả lực Rockpile và Caroll trên QL-9 phía
tây Cam Lộ; và lập kế hoạch không yểm chiến lược
“Niagara”với loại bom B-52 cho cứ điểm Khe Sanh. Đồng thời
tại Vùng I và II Chiến Thuật, Westmoreland đã bố trí tất
cả 50 tiểu đoàn tác chiến. Tuy nhiên, Washington vẫn thấp
thỏm về Khe Sanh, mọi con mắt đều nhìn về đó. Biết đâu Khe
Sanh không là một Điện Biên Phủ thứ hai! Dư luận Mỹ xôn xao
khi cứ điểm chỉ được tiếp tế bằng không vận và bị những
đợt pháo dữ dội vào tháng 2/1968 làm nổ tung một kho đạn
lớn và số binh sĩ chết và bị thương tăng từng ngày. Khác
hơn mọi người nghĩ, Westmoreland đang chờ quân CSBV tập trung
nhiều hơn tấn công Khe Sanh…
Nhưng điều bất ngờ đã diễn ra mà tất cả các cơ quan tình
báo chiến lược, chiến thuật của Hoa Kỳ và VNCH đều không
biết: CSBV xua quân đột ngột tấn công đồng loạt toàn Miền
Nam trong dịp Tết Nguyên Đán Mậu Thân, nhằm ngày 31 tháng 1
năm 1968. Chính xác hơn các đơn vị Việt Cộng do Trung ương
Cục Miền Nam [TUC/MN] cộng thêm các sư đoàn chính quy Bắc
Việt [MACV và Washington đã sai khi phân biệt “Việt Cộng” hay
VC là các đơn vị của MTGP/MN và North Vietnamese Army, hay NVA,
là các đơn vị xâm nhập từ Miền Bắc. Chúng tôi gọi chung là
quân CSVN, CSBV, hay bộ đội HCM, cho đúng “chính danh”] thực
hiện chiến dịch “Tổng Công kích và Tổng Khởi nghĩa” [TCK &
TKN] tấn công toàn diện 42 tỉnh lỵ, 64 quận lỵ và 29 vị
trí quân sự quan trọng của Hoa Kỳ và QLVNCH, kể cả thành
phố Sài Gòn và Huế, Toà Đại sứ Hoa Kỳ, Bộ TTM/QLVNCH và
căn cứ chiến lược Long Bình của lực lượng Hoa Kỳ. Hai sự
kiện quan trọng nhất làm rúng động Toà Bạch Ốc và quần
chúng Hoa Kỳ mà báo chí Mỹ đã phóng đại và quan trọng
hoá là Toà Đại sứ Hoa Kỳ ở trung tâm thủ đô Miền Nam bị
quân CS tấn công và đột nhập và cứ điểm Khe Sanh, nói trên,
đang bị một quân đoàn CSBV bao vây, có thể bị triệt hạ.
Trong khi đó thì toàn dân miền Nam đều ghê tởm về sự dã man
của quân CSVN khi chúng chiếm cố đô Huế và tàn sát trên hơn
5,500 cư dân bằng mọi cách. Không hề có tổng khởi nghĩa,
bất cứ ở đâu khi quân CSVN tấn công, dân chúng theo các đơn
vị QLVNCH để được che chở, hay tiếp tế, hoặc cùng chiến
đấu sát cánh với binh sĩ các đơn vị chống lại chúng. Vì
vậy có thể nói trong Tết Mậu Thân CSVN chỉ tổng công kích
toàn diện miền Nam. Nhưng bất cứ ở đâu quân CSVN cũng bị
đánh tan, đẩy lui hay tiêu diệt. Trừ Huế, đợt tổng công kích
nầy ở khắp các nơi chỉ kéo dài từ một tuần đến mươi ngày
và ghi nhận chính thức thiệt hại của cộng sản là 32,000
chết, 5,000 bị bắt và số bỏ ngũ hồi chánh lên đến 60,000
hay 70,000 người. Trận Khe Sanh, quân CSBV chết trong vòng đai
điện tử khi định xâm nhập tấn công hệ thống phòng thủ
chính, và ở các điểm tập trung chung quanh căn cứ ước tính
từ 12,000 đến 15,000 chết vì bom B-52. Tuy nhiên, bên trong cứ
điểm số tổn thất của Hoa Kỳ cũng lên đến hàng trăm chết
và hàng nghìn bị thương vì bị pháo kích dữ dội. Ngày
28/2/1968, kinh thành Huế được giải toả. Mọi người chỉ biết
ngậm ngùi nhìn cảnh đổ nát và nhỏ lệ trước những nấm mồ
tập thể. Tháng 4/1968 Tướng Westmoreland mở cuộc hành quân
“Pegasus” phối hợp các lực lượng Hoa Kỳ và Nhảy Dù VNCH
giải toả cứ điểm Khe Sanh; “Mặt trận Đường 9” của CSBV cũng
tan rã. Hoa Kỳ hủy bỏ cứ Điểm Khe Sanh. Tháng 5, CSBV mở
đợt tổng công kích đợt hai ở một số tỉnh thành và cứ
điểm quan trọng do những đơn vị cấp sư đoàn chính quy CSBV
chủ công. Và một lần nữa, chiến sĩ QLVNCH, từ chủ lực
quân, địa phương quân đến nghĩa quân đã chứng tỏ tinh thần
chiến đấu dũng cảm và sự thiện chiến, đánh tan mọi mũi
tấn công của địch quân. Tổng kết cả hai trận tổng công kích
thiệt hại của địch lên hơn 120,000 vừa chết vừa bị bắt và
hồi chánh. Lực lượng của CSVN ở Miền Nam hầu như tan rã.
Thua đậm về quân sự, nhưng CSBV đã thắng trận giặc tuyên
truyền, chính trị và tâm lý lớn lao nhất trong chiến tranh
Việt Nam là đã thắng Chính phủ, Quốc Hội, nhất là quần
chúng Hoa Kỳ. Hoa Kỳ trúng ngọn đòn cân não nặng nề nhất.
Xã hội Hoa Kỳ trở mình thức tỉnh, phong trào phản chiến
lan rộng từ Thủ đô Washington ra toàn quốc, nhất là ở các
trường đại học của những thành phố lớn đều có biểu tình
phản chiến của sinh viên nghèo và da đen là những lớp người
hi sinh nhiều nhất ở chiến trường Việt Nam.
Ở Washington, sau khi Tướng Westmoreland yêu cầu xin thêm 200,000
cho Miền Nam bị tiết lộ, báo chí đăng tải trong tháng
3/1968, toàn Hoa Kỳ như lên cơn sốt. Biểu tình phản chiến lên
cao, Quốc Hội đòi điều tra về Tết Mậu Thân. Ngày 22/3/1968,
Tổng thống Johnson tuyên bố không nhận uỷ nhiệm của đảng Dân
Chủ ứng cử nhiệm kỳ hai. Johnson đã bị quần chúng Hoa Kỳ
đánh bại… Trận TCK Tết Mậu Thân của CSVN làm thay đổi cục
diện chiến tranh Việt Nam. Sách lược “high-profile defensive
war” và hành động trực tiếp điều khiển chiến tranh của
nhóm chính trị “Lunch Bunch” thất bại với hơn 50,000 binh sĩ
Hoa Kỳ chết và mất tích đến thời điểm đó. Tháng 5/1968,
qua trung gian của Tổng Thơ ký Liên Hiệp Quốc U Thant và
Chính phủ Pháp, Johnson đồng ý triệu tập hội nghị “bốn
bên” ở Paris ngày 12/5/1968 gồm các phái đoàn Hoa Kỳ, Việt
Nam Cộng Hoà, CSBV và Chính phủ Lâm thời MN/VN [hay
MTGP/MNVN].
Tháng 11/1968, Richard M. Nixon, đảng Cộng Hoà đắc cử Tống
thống Hoa Kỳ. Một chính khách khác thay nhóm “Lunch Bunch”
thao túng chính trường Hoa Kỳ làm thay đổi cục diện thế
giới đến nhiều thập niên sau, Henry Kissinger. Giới chính trị
Hoa Kỳ cho rằng ông này một chiến lược gia sáng suốt đã
đóng góp lớn cho nền anh ninh Hoa Kỳ. Thực ra ông này chỉ
là một mưu sĩ tồi và đần độn nhất vì ông ta không thể
hiểu nổi sự thâm sâu của những tay chính trị lãnh đạo Trung
Quốc từng có bề dầy kinh nghiệm bốn nghìn năm chiến tranh
và phát triển với những tư tưởng vô cùng lớn, căn bản của
nền triết học Đông Phương. Đánh và đàm là sở trường của
họ. Từ “hợp tung”, “liên hoành” của Tô Tần và Trương Nghi và
binh thư của những nhà quân sự nổi tiếng như Ngô Khởi và Tôn
Tử đã… sinh sản ra một khủng đế Tần Thỉ Hoàng và một bạo
chính Mao Trạch Đông, đều là những tay kinh thiên động địa.
Trung Quốc luôn là một quốc gia đáng sợ… Kissinger giúp Nixon
đem Hoa Kỳ thử lửa đỏ cực độ khi bắt tay với Cộng sản
Trung Quốc. Chính Kissenger đã gieo di hoạ về sau cho Hoa Kỳ
và thế giới tự do. Ngày 20/1/1969 vào nhậm chức ở Bạch
Ốc, Nixon đã nghe tiếng loa của đoàn biểu tình phản chiến
vọng đến từ Đài Tưởng niệm Lincoln ở cuối chiếc hồ dài
nguy nga ngay mặt sau dinh. Chiến tranh Việt Nam sẽ phải được
giải quyết từ tiếng vọng đó xuyên qua lục điạ rộng lớn Mỹ
Châu, xuyên qua những đại dương từ Âu sang Á. Nhiền nhà quan
sát nhận định rằng Nixon sẽ đi tìm hoà bình trong danh dự
như một đoạn ngắn trong bài diễn văn nhậm chức của ông:“The
great honor history can bestow is the title of peacemaker. This
honor now beckons America –the chance to help lead the world at last
out of the valley of turmoil and on to that high ground of peace
that man had dreamed of since the dawn of civilization.”[Danh dự
lớn lao mà lịch sử có thể ban cho là tước hiệu của người
kiến tạo hoà bình. Dand dự đó hôm nay kêu gọi Mỹ sau cùng
có cơ hội dẫn đạo thế giới ra khỏi thung lũng tao loạn và
đưa lên vùng cao địa hoà bình mà con người hằng mong ước từ
buổi bình minh của văn minh.”](40) May mắn thay, trong hơn hai
năm của nhiệm kỳ đầu tổng thống, Nixon chưa gặp ngay những
nan đề lớn của chiến tranh Việt Nam. Thực ra, sau cuộc tổng
công kích Tết Mậu Thân và tháng 5/1968 CSBV đã kiệt quệ,
các đơn vị chính quy và địa phương cộng sản ở Miền Nam
hoàn toàn tan rã không còn đủ sức khuấy động chiến tranh.
Chính phủ Nguyễn văn Thiệu sau Tết được các đảng phái,
quần chúng và quân đội yểm trợ. Chiến thắng quân sự lớn
lao đó chứng tỏ QLVNCH đã trưởng thành với trên dưới
1,000,000 của bộ binh chính quy, địa phương quân và nghĩa
quân, không quân và hải quân. Trong thời gian sau đó, dân chúng
miền Nam sinh sống tự do và kinh tế phát triển khá hơn. Có
thể nói chính quyền kiểm soát hơn 95% lãnh thổ, trừ vùng
biên giới cao nguyên và các mật khu ở liên biên giới Việt
Miên vùng Bình Long, Tây Ninh và Kiến Phong. Nixon và
Kissinger, Cố vấn An ninh Quốc gia, rảnh tay hơn trong việc
đối phó với Liên Xô và Trung Cộng lúc đó là hai kẻ thù
của nhau về tranh chấp biên giới. Nixon-Kissinger chủ trương
hoà hoãn với Liên Xô, qua việc tiến hành thương thuyết về
hạn chế vũ khí chiến lược [a flexible “détente” with the
Soviet Union throught the Strategic Arms Limitation Talks –SALT] và
bắt tay liên lạc ngoại giao với Trung Quốc. Với sách lược
nầy, Washington hi vọng hạn chế sự bành trướng cuả CSQT,
khoét sâu vết rạn nứt giữa Liên Xô và CSTQ và có thể dễ
dàng hơn trong việc thiết lập lại trật tự mới cho thế
giới. Vì vậy khi thực hiện các chủ trương đó Hoa Kỳ đã coi
Việt Nam như “một màn diễn phụ” –a sideshow. Chữ này do
chính Kissenger dùng, như là một cách nói trịch thượng,
thực ra Việt Nam vẫn là mối tâm hoạn của Chính quyền Nixon.
Vì ở đó, Hoa Kỳ còn 550,000 quân và có trên 10% hi sinh cho
tổ quốc và đã trở về quê hương trong những chiếc áo quan
bọc quốc kỳ sọc xanh trắng đỏ với những vì sao long lanh
như những giọt nước mắt của các gia đình Mỹ, hay lấp lánh
như ánh sáng vinh dự. Thêm nữa, còn hàng ngàn binh sĩ mất
tích và hàng trăm tù binh bị CSBV bắt. Chính quyền Nixon
cần thực hiện hoà bình trong danh dự và làm dịu cơn giận
dữ của quần chúng. Kissinger đề nghị Nixon kế hoạch rút
toàn bộ quân tác chiến Hoa Kỳ về nước để chiến cuộc lại
cho QLVNCH gọi là “Vietnamization”–Việt Nam hoá Chiến tranh.
CSVN mỉa mai gọi là kế hoạch “đổi màu da trên xác chết.”
Điều nay sai vì chiến sĩ VNCH đã từng hi sinh nhiều ở chiến
trường từ trước.
Theo cách suy luận của các nhà chiến lược nếu Kissinger coi
việc bắt tay với Trung Cộng –người chỉ đạo thực sự quân
đội Miền Bắc định thôn tính Miền Nam– là màn kịch chính
mainshow, và cuộc chiến còn chưa giải quyết ở Viêt Nam là
màn diễn phụ “sideshow”, thì nhất định phải có vấn đề mật
đàm giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc để giải quyết hai việc cùng
một lúc. Và dè dặt hơn Kissinger còn áp dụng lại sách
lược “cái gậy và củ cà-rốt” với cả hai Miền Việt Nam.
Hội nghị đang diễn ra ở Paris chỉ là đề hợp thức hoá
những gì mà người ta ve vãn và hứa hẹn với nhau trong bóng
tối như cặp tình nhân mới: anh Mỹ trẻ chị Tàu già. Miền
Nam là người được bảo trợ… nên nói phải nghe. Miền Bắc là
tên hung hản, âm thầm đem của dụ dỗ nó trước rồi tính sau.
Vậy nên, những gì diễn ra mà sau này phù hợp với giả
thuyết trên. Các tài liệu Hoa Kỳ giải mật hai ba mươi năm sau
chứng minh giả thuyết đó đúng gần như tuyệt đối. Khi cuộc
đàm phán ở Paris chưa đi đến đâu thì người ta thấy Kissinger
đi đêm với Chu Ân Lai. Đồng thời Kissinger cũng đi đêm với Lê
Đức Thọ, ngay ở Paris. Các cuộc gặp gỡ riêng còn đôi co bớt
một thêm hai nên và Hội nghị Paris đến đầu năm 1970 còn dậm
chân tại chỗ. Trong gần hai năm đàm phán nhì nhằng đó CSVN
có được cơ hội bằng vàng đổ hàng trăm ngàn cán, binh, xâm
nhập theo Đường mòn HCM vào các mật khu ở biên giới, xây
dựng lại lực lượng chính quy gồm 100% thanh, thiếu niên “sinh
Bắc tử Nam”. Trong khi đó, ở Miền Nam, Hoa Kỳ bắt đầu cho
rút quân đi với mức độ nhanh như khi đổ quân vào. Tháng
6/1969, Tổng thống Nixon tuyên bố đợt rút quân đầu tiên gồm
25,000 người sẽ thực hiện trong tháng 7/1969. Đó là củ
cà-rốt nhỏ. Bắc Việt chưa hài lòng. Lập tức, Ngũ Giác
Đài thi hành kế hoạch “Thực Đơn” [Operations Menu] không tập
chiến lược bom B-52 vào các mật khu CSBV dọc biên giới Tây
Ninh lên tận Ban Hét, trong vùng “Ba Biên Giới” và không kích
các đoàn xe CSBV vận chuyển trên Đường mòn HCM. Kế hoạch
này chỉ làm cho hoà đàm Paris trì trệ. Phái đoàn CSBV bỏ
các phiên họp. Lê Đức Thọ không gặp Kissinger sau buổi họp
mật tháng 8/1969. Kế hoạch không tập “Menu” bị nhật báo “The
New York Times” tiết lộ. Ngày 15/11/1969, khoảng 250,000 người,
nhiều nhất là sinh viên đại học ở các nơi tụ về biểu tình
ở Washington. Các phòng trào phản chiến có cơ quan lãnh đạo
hẳn hoi. Vì sự tiết lộ các bí mật hành quân này, Tổng
thống Nixon ra lệnh thi hành một hành động vi hiến trầm
trọng là đặt máy lén thu băng điện thoại của một số giới
chức và các báo ở Bạch Ốc. Vụ scandal gọi là “Watergate”
sau này bị tố giác làm cho Nixon phải từ chức. Tuy nhiên, ở
thời điểm đó, dù sinh viên biểu tình dữ dội thì họ cũng
bị đàn áp và bắt bớ dữ dội, nhiều chục nghìn người bỏ
trốn ra nước ngoài, họ xé thẻ trưng binh, có nơi họ đốt
hình nộm Nixon, kể cả bạo động… Nixon tuy cho lệnh rút quân
nhanh hơn dự định ở Miền Nam, nhưng vẫn chủ trương leo thang
chiến tranh. Giới quan sát quốc tế ghi nhận ngày 29/4/1970
QLVNCH tổ chức những cuộc hành quân “Toàn Thắng” vượt biên
sang lãnh thổ Cao Miên. Ở đó chính quyền Hoàng gia Sihanouk
bị lật đổ, khi ông vua này sang viếng thăm Bắc Kinh tháng
3/1970. Tướng Lon Nol lập Chính phủ Cộng hoà và làm Tổng
thống. Các cuộc hành quân Toàn Thắng của Tướng Đỗ Cao Trí
ở biên giới Quân khu 3 (cải danh trở lại) vào sâu lãnh thổ
Cao Miên đến tả ngạn sông Mékong thành công lớn, phá huỷ
hoàn toàn các căn cứ hậu cần và mật khu CSBV dọc biên
giới, tịch thu hàng trăm tấn vũ khí đạn dược có thể trang
bị cho 50 tiểu đoàn và các kho gạo đủ cho 50 tiể̉u đoàn ăn
6 tháng.
Tuy nhiên, đến tháng 1/1971, khi Tổng thống Nguyễn văn Thiệu
ra lệnh mở cuộc Hành quân Lam Sơn 719, đem các đơn vị thiện
chiến nhất của QLVNCH tiến theo hành lang Liên Quốc lô ̣9 sang
Schépone, hạ Lào, giới quan sát am tường cho rằng VNCH không
thể tự mình vẽ ra một kế hoạch táo bạo như thế. Phải là
Washington, nhưng ai ở Bạch Ốc đã thảo kế hoạch này. Ồng
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Melwin Laird cho rằng“Kissenger
là nhà nhà lãnh đạo sách lược đối ngoại sâu
sắc.”[Kissinger was a thoughtful foreign policy leader.”](41) Còn
Ngoại trưởng William Rogers chống lại kế hoạch đó. (42) Tác
giả phải là Kissinger có sự giúp rập của người phụ tá
quân sự, Tướng Alexander Haig. Vậy Kissinger muốn gì làm gì
ở Đường 9 và Schépone? Thí quân thiện chiến nhất cuả QLCNCH
hay muốn triệt hạ lực lượng CSBV để tạo một chiến thắng
lớn buộc CSVN trở lại hội nghị? Dù ai chết hay ai thua ở
đó Hoa Kỳ đều có lợi cho việc rút quân nhanh và tạo hoà
bình sớm trong “danh dự”. Trước đó không lâu có điều đáng
nghi ngờ hơn là hai danh tướng QLVNCH Đỗ Cao Trí và Nguyễn
Viết Thanh, Tư lệnh các Quân Đoàn III và IV đều chết trong
tại nạn trực thăng khi còn đang cầm quân tấn công CSBV ở Cao
Miên. Ai giết? Mặt trận ở Miên và Lào tàn lụi. Quân CSBV
lớn mạnh hơn ở biên giới hai nước nầy và Miền Nam. Hội
nghị Paris và mật đàm giữa Kissinger-Lê Đức Thọ nối tiếp.
Cũng chưa đi đến đâu. Phải chăng cả hai đều muốn chiến thắng
lớn ở chiến trường để có ưu thế trong đàm phán hay cả hai
đểu muốn loại một đối thủ – theo họ là trở lực lớn nhất
cho cuộc mặc cả: QLVNCH? Ở thế chủ công CSBV bao giờ cũng
muốn chiếm thượng phong. Hoa Kỳ không có sách lược chủ
thắng, nhưng không thiếu những cơn giận dữ của một mãnh sư…
bất kể bạn và thù.
VIII. Chiến Tranh Và Hoà Bình, Phản Bội Và Ruồng Bỏ
Khi người ta mang vũ khí đánh nhau gieo tang tóc cho con người
và điêu tàn cho đất đai, gọi là “thời chiến tranh”. Khi không
gây chiến tranh, không bắn giết nhau, thiên hạ yên vui sinh
sống, gọi là “thời hoà bình”. Nhưng khi người ký hiệp ước
hoà bình rồi mà vẫn xả súng bắn giết nhau, xương rã rừng
sâu, máu tràn phố thị, gây tang điền thương hải, thì gọi là
thời gì? Không có câu trả lời. Không có chữ nào khả dĩ ghi
vào tự điển. Thôi xin tạm gọi là “thời bội ước” hay “thời
bội tín”. Mùa Hè, đầu tháng 4 năm 1972, khi hoà đàm Paris
chưa ngã ngũ, đột nhiên CSBV tung 14 sư đoàn chính quy bộ
binh, 26 trung đoàn chuyên môn và độc lập gồm pháo binh, công
binh, chiến xa, phòng không, đặc công, tương đương 22 sư đoàn,
từ 180,000 đến 200,000 quân tác chiến, không kể một số gấp
đôi yểm trợ hậu cần trên các tuyến vận chuyển vũ khí và
lương thực, chia làm ba mũi dùi tấn công Miền Nam. Mũi thứ
nhất tấn công QĐI & QK1, chiếm Gio Linh, Đông Hà và Cam Lộ,
vượt Thạch Hản, chiếm cổ thành Quảng Trị. Mũi thứ hai,
tấn công QĐII & QK2, chiếm Dak-To, Tân Cảnh, bao vây Kon-Tum ở
cao nguyên; chiếm Tam Quang, Bồng Sơn, Phù Mỹ ở duyên hải.
Mũi tấn công thứ ba, từ biên giới Miên tấn công vào Tây Ninh
và Bình Long, chiếm Lộc Ninh, bao vây tấn công định chiếm
tỉnh lỵ An Lộc để ra mắt Chính phủ Lâm thời Miền Nam Việt
Nam. Chiến dịch tổng công kích này của CSBV kéo dài đến
tháng 7/1972. Ở mọi mặt trận QLVNCH đã chứng tỏ cho CSBV,
cho Hoa Kỳ, và cho thế giới thấy rõ là một quân đội đã
thực sự trưởng thành trên mọi mặt, thiện chiến, dũng cảm
và kỹ luật. Dưới sự chỉ huy của tướng lãnh trẻ thao lược,
các sĩ quan cấp tá và uý trẻ kiến thức và can trường,
chiến sĩ hải lục không quân đánh tan tất cả cả các mũi
tấn công của CSBV ở mọi mặt trận. Dĩ nhiên, QLVNCH đã được
sự yểm trợ hoả lực mạnh của Không và Hải quân Hoa Kỳ.
Cũng dĩ nhiên Tổng thống Nixon phải quyết định cứng rắn
yểm trợ Nam Việt Nam vì sách lược “Việt Nam hoá Chiến
tranh” để “rút quân trong danh dự” chưa hoàn tất. Khi chiến
dịch TCK mùa Hè của CSBV [“Eastertide Offensive”] mở màn, tất
cả các đơn vị tác chiến đồng minh đã rút hết, Hoa Kỳ rút
được 90% trên tổng số 558,000 quân tác chiến. Tuy nhiên, lý do
quan trọng nhất là năm 1972, ở Hoa Kỳ, cuộc bầu cử tổng
quát diễn ra. Nixon không thể để thua ở Miền Nam, vì sẽ kéo
theo sự thất bại của đảng Cộng Hoà ở quốc hội và ở tất
cả các tiểu bang. Quan trọng hơn tất cả là Nixon sẽ mất
Bạch Ốc. Nixon yểm trợ mạnh mẽ cho QLVNCH trong năm bản lề
nầy thực ra là để bảo vệ cho sự nghiệp chính trị của Ông.
Vì vậy, chẳng những ra lệnh yểm trợ không quân chiến lược
tối đa cho QLVNCH trong cả hai giai đoạn phòng thủ và phản
công ở Miền Nam đầu tháng 5/1972, Ông còn ra lệnh cho phong
toả Cảng Hải Phòng và Vịnh BắcViệt [Kế hoạch Pocket
Money], đồng thời không tập Bắc Việt không hạn chế mục tiêu
[“Kế hoạch Linebacker I & II”]. Cảng Hải Phòng trước khi bị
phong toả, tiếp nhận tất cả vũ khí đạn dược thiết bị
chiến tranh từ Liên Xô (và khối Cộng Sản Đông Âu) đến, là
bãi đổ của hai đội chuyển vận hạm Hải quân Liên xô. Đội
thứ nhất gồm 125 chiếc xuất phát từ quân cảng Odessa; đội
thứ hai gồm 25 chiếc xuất phát từ Vladivostok. Liên xô và
Trung Quốc Cộng sản đã trở thành hai kẻ thù từ mươi năm
trước, nên hai tuyến vận chuyển hoả xa chiến lược Côn
Minh-Hà Nội và Nam Ninh-Hà Nội chỉ còn chuyển riêng vũ khí
và chiến phẩm của Trung Quốc cho CSVN. Money Pocket thành
công, tuyệt đường tiếp vận của Liên Xô cho Bắc Việt, nhưng
Linebacker bị phản ứng vô cùng dữ dội. Lúc đó, BTL Không
quân và Phòng không Bắc Việt đã có hệ thống phòng không
gồm 200 chiến đấu cơ Mig-17, Mig-19 và Mig-21 và 2,000 hỏa
tiễn địa không SA-2 và SA-7. Trời đất Miền Bắc đỏ lửa,
nhưng hàng trăm phản lực cơ và B-52 Hoa Kỳ bị bắn rơi trong
hai đợt không tập Linbacker. Một điều đáng nêu lên mà từ
trước nhiều nhà viết quân sử đã không đề cập đến là khi
Hạm Đội 7 Hoa Kỳ thực hiện hai kế hoạch trả đũa Pocket
Money và Linebacker I ở Miền Bắc thì trận chiến trong Miền
Nam, ở Quảng Trị, Kon Tum và An Lộc cũng đang diễn ra dữ
dội. Trong khi mọi nơi trên thế giới đã tạm thời hưởng an
bình, cả cuộc chiến tranh lạnh cũng dịu dần, thì chỉ riêng
một góc trời Việt Nam rực lửa. Mỗi người trong thế hệ
chúng tôi hình như là một nạn nhân trong một bi kịch lớn
nhất của nhân loại hay ít nhất cũng là chứng nhân của một
hí trường rơi nước mắt, lòng rười rượi buồn mà hỏi “tạo
hoá gây chi cuộc hí trường”… trước sự thay đổi lớn lao của
khung trời Viêt Nam chẳng khác nào nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan
đã từng bâng khuâng hỏi khi nhìn đất trời Thăng Long ngày
nào. Có thể chưa ai quên, tháng 2/1972, sau khi Kissinger dàn
xếp mật với các giới chức CSTQ, Nixon chính thức viếng Bắc
Kinh trong vòng một tuần (21-28/2/1972) họp một lần với Mao
Trạch Đông, nhưng rất nhiều lần với Chu Ân Lai. Đến tháng
5/1972, Nixon sang viếng thăm Moscow trong tám ngày
(22-30/5/1972) gặp Tổng Bí thơ ĐCS/LX Leonid Brezhnew và Thủ
tướng Alexei Kosygin, ký các hiệp ước quan trọng
“Anti-Ballistics Missile” [ABM] và “Strategic Arms Limitation
Treaty” [SALT] thì trật tự của một thế giới mới đã được
sắp xếp và cuộc chiến Việt Nam đã đi vào giai đoạn kết
thúc. Nhưng sao lại kết thúc một cách long trời lở đất như
vậy? Thực ra Việt-Nam-sideshow và cục-diện-thế-giới-mới
chỉ là một trong con mắt của Nixon và Kissinger. Giải quyết
nan đề Việt Nam gần như giải quyết mọi nan đề khác. Đối
với Nixon, một mục đích duy nhất là củng cố vị thế của
Ông, chưa hẳn là mang lại danh dự và ích lợi cho Hoa Kỳ.
Nhóm từ sau là sản phẩm màu mè. Vì quyền lợi và danh dự
của một người mà làm tổn thương và đau lòng một dân tộc,
mắt của thế hệ chúng tôi không chỉ nhìn thấy có một người
mà hàng “tá”. Nhưng chúng tôi chỉ hận một người, Kissinger,
một đạo diễn tồi, một cố vấn tối ngu của Nixon, nhưng là
một ông vua không ngai, đã tạo một hí trường máu như một
Néron. Ông vua nầy nổi lửa đốt một La Mã để mua một trận
cười, Kissinger đốt cháy một Việt Nam, giết chết trên 6
triệu người và đưa vào hoả ngục 60,000,000 người khác để
tạo một tiếng cười cho Nixon hay cái tiếng tăm cho riêng
mình. Sau mùa Hè 1972, nếu Miền Nam thua, hoặc Miền Bắc
không trở lại bàn hội nghị, có nghĩa là Nixon thua cuộc,
mất Bạch Ốc…Vì vậy, Kissinger đã có thể âm mưu cùng Chu Ân
Lai xúi bẩy Miền Bắc tấn công Miền Nam, để Hoa Kỳ đốt cháy
cả hai miền Nam Bắc Việt Nam, diệt bớt sức mạnh để dễ
dàng thao túng. Đây là lý giải thích hợp nhất cho một
chiến cuộc leo thang bất chợt của năm bản lề 1972. Cả hai
miền thành vật tế thần cho Nixon đăng quang lần thứ hai. Như
vậy cũng có nghĩa là Hoa Kỳ đã cam kết đền công cho CSTQ.
Còn đền công, hay đền ơn, ở mức độ nào là điều cần phải
nói bằng hàng nghìn trang giấy. Lịch sử sẽ chứng minh các
điều trên đây chớ không phải những tài liệu được giải mật,
không phải “Memories”của Nixon và Kissenger. Kissinger từng thổ
lộ với một phụ tá là “sẽ áp dụng phương thức tàn nhẫn
nhất để giải quyết chiến tranh không thể để kéo dài thêm
bốn năm nữa trong nhiệm kỳ hai của Tổng thống Nixon.” Trong
khi đó thì Winston Lord, một phụ tá khác của Kissinger tiết
lộ:“The President felt that he had to demonstrate he couldn’t be
trifled with –and frankly, to demonstrate our toughness to Thieu—
this was the rationale for the bombing.”[Tổng thống cảm thấy
cần phải chứng tỏ là Ông không thể bị coi thường –và,
thành thực mà nói-- muốn chứng tỏ cho Thiệu biết sự cứng
rắn của chúng tôi. Điều này hợp lý nhất... về việc dội
bom”(43) Chính xác. Hoa Kỳ dội bom Miền Bắc dữ dội và áp
bức Tổng thống Thiệu của Miền Nam dữ dội hơn để có được
một hiệp ước hoà bình trong... “danh dự”. Sau các trận không
tập Linebacker I, ngày 1/10/1972, Lê Đức Thọ yêu cầu Kissinger
tái họp. Ngày 8/10/1972, Thọ trao cho Kissinger bản dự thảo
“Chấm dứt Chiến tranh và Phục hồi Hoà bình” [ “Ending the
War and Restoring Peace” in Vietnam]. Washington chấp nhận. Dự
thảo có hai phần quan trọng: về quân sự Hoa Kỳ rút toàn bộ
quân lực về nhưng Bắc Việt vẫn lưu giữ 150,000 quân ở lại
Miền Nam. Trao đổi tù binh… Về chính trị sẽ thành lập Hội
đồng Hoà giải Quốc gia [National Council of Reconciliation]. Sau
một thời gian ngắn co kéo, o ép, và đình hoãn và đánh bom
kinh khiếp ngay cả thủ đô Hà Nội làm cho dư luận Hoa Kỳ
tưởng rằng chiến tranh sẽ chấm dứt với sự thắng lợi đầy
danh dự cho Hoa Kỳ. Kết quả là Nixon tái đắc cử nhiệm kỳ
hai với 60.7% tổng số phiếu bầu. Từ tháng 8/1972 toàn bộ
đơn vị tác chiến Hoa Kỳ đã rút khỏi Miền Nam. Ngày
29/12/1972, Nixon ra lệnh chấm dứt chiến dịch Linebacker II.
Trên thực tế, nếu Hoa Kỳ chỉ cần đánh bom thêm một tuần lễ
nữa, Bắc Việt sẽ đầu hàng. Tuy nhiên, Hoa Kỳ không muốn cho
CSVN thua, vì lý do ràng buộc nào đó với… CSTQ, giữa
Kissinger và Chu Ân Lai. Ngày 18/10/1972, Tổng thống Thiệu đã
lạnh nhạt đón Kissinger đến dinh Độc Lập với bản văn hiệp
định đã được Hoa Kỳ và CSBV đồng ý, là thành quả mật đàm
giữa Thọ và Kissinger mà trước đó Ông chưa hề được tham
khảo ý kiến. Người ta chỉ yêu cầu Ông ký…và họ dự định
ký vào ngày 31/12/1972. Ông Thiệu có yêu cầu xét lại các
điều khoản về quân sự và chính trị nêu trên, nhưng dưới áp
lực cảnh cáo đình chỉ mọi viên trợ, cuối cùng Ông đã phải
ép lòng chịu cho ký hiệp ước, chỉ được tu chỉnh một ít
tiểu tiết. Hiệp ước Paris được ký ngày 27/1/1972 thực chất
gồm các “điều khoản thua trận” của Hoa Kỳ: rút toàn bộ
quân lực khỏi Việt Nam, triệt bỏ tất cả căn cứ quân sự và
không được mang quân trở lại Đông Dương để gây thêm chiến
tranh; vét mìn đã phong toả Vịnh Bắc Việt và Cảng Hải
Phòng; bồi hoàn chiến tranh cho ba nước Đông Dương. Hoa Kỳ
chỉ có cái lợi duy nhất là đem về được 566 tù binh. Hiệp
ước cũng hàm chứa sự ruồng bỏ Nam Việt Nam của Hoa Kỳ,
mặc CHVN cho số phận bi đát có thể… tính trước ngày chết.
Trong một lần thảo luận, chính Nixon đã nói với Kissinger:
“South Vietnam probably can never even survire any way.”[“Bằng mọi
cách, Nam Việt Nam chắc không bao giờ còn tồn tại.” Về thời
gian Miền Nam sụp đổ thì Kissinger nói rõ với Nixon: “We got
to find some formula that holds the thing together a year or two,
after which –after a year, Mr. President, Vietnam will be a
backwater. If we settle it, say, this October, by January 1974, no
one will give a damn.”[Chúng ta cần phải tìm một công thức
giữ mọi thứ ổn định trong một hoặc hai năm, sau đó –sau một
năm, thưa Tổng thống, Việt Nam sẽ là một vùng khỉ ho cò
gáy, không còn ai chú ý đến nữa. Nếu chúng ta thực hiện
được công thức này, có thể nói, bây giờ là tháng 11…đến
tháng 1/1974, còn ai thán oán gì nữa...](44) Lối ruồng bỏ
vô nhân này, Frank Snepp, một nhân viên CIA từng phục vụ ở
Việt Nam, viết thành quyển sách gọi là “Decent Interval” có
thể dịch là “Khoảng cách An toàn”. Kissinger nghĩ rằng sau
một năm khi Hiệp định Paris được thi hành, Việt Nam trở
thành một nơi hẻo lánh, Nam Việt Nam có sụp̣ đổ Hoa Kỳ
không liên luỵ gì nữa và cũng không ai còn để ý đến nữa.
Câu chuyện ở buổi đàm đạo này của Nixon-Kissinger diễn ra
trong tháng 11/1972 (trước khi Hiệp định Paris ký kết) sau đó
được tiết lộ, cho thấy cặp bài trùng này đã dùng công
thức [“formula”] sau đây: “Hiệp ước Paris 1973 + 4.75 tỷ Mỹ kim
viện trợ CSVN + cắt tối đa viện trợ quân sự cho Miền Nam”.
Tất cả mô hình kiến trúc “ruồng bỏ và lẩn tránh trách
nhiệm” này đã được thực hiện. Về sau, Kissinger còn đem mô
hình đó giúp cho Tổng thống Bush thứ hai áp dụng ở Iraq cho
đến đỗi các sử gia Hoa Kỳ gọi là “Kissinger’s Strategy Decent
Interval”. Tuy nhiên lịch sử chứng minh ngược lại. Và kẻ ngu
là kẻ coi thường lịch sử. Trở lại thời điểm đó, CSBV tất
nhiên đã chiếm tất cả mọi thắng lợi của Hiệp định
Paris-1973, Cảng Hải Phòng mở rộng thêm tiếp nhận hàng trăm
tấn vũ khí và chiến phẩm hàng tuần, Đường mòn HCM tự do
tu bổ thành hệ thống rộng lớn gồm cả Trường Sơn Tây và
Trường Sơn Đông, CSBV chuyển tải tất cả các thứ ấy vào
Lào, Miên và Miền Nam. Tuy nhiên với lực lượng hơn 150,000
quân chính thức lưu lại Miền Nam sau khi “ngưng bắn tại chỗ”
theo Hiệp định Paris [trên thực tế có thể lên đến 280,000
quân] CSVN vẫn chưa tấn công Miền Nam. Chỉ có chạm súng nhỏ
cấp trung đoàn trở lại. Hoa Kỳ chỉ còn trên dưới 5,500 quân
nhân và chuyên viên ở Nam Việt Nam, nhân viên và chuyên viên
của DAO [Defendense Attaché Office] thuộc Toà Đại sứ Hoa Kỳ,
các Lãnh sự quán ở Quân khu, liên lạc điều hành ngân khoản
viện trợ quân sự cho QLVNCH. MACV giải tán. Trong khi đó
QLVNCH bị cắt viên trợ đến tối đa và phải trải quân mỏng ra
để trám vào các vùng lãnh thổ mà 9 sư đoàn Hoa Kỳ và
Đồng Minh rút về nước, nhất là ở QĐI & QK1 và QĐII & QK2.
Chỉ thành lập thêm SĐ3BB ở QĐI & QK1. Từ 11-13/2/1973,
Kissinger dẫn phái đoàn kinh tế Hoa Kỳ sang Hà Nội cùng
Phạm văn Đồng và Lê Đức Thọ thành lậ̣p “Uỷ ban Hiệp thương
Kinh tế” giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt để điều hành ngân quỷ
viện trợ 4.75 tỷ Mỹ kim không bồi hoàn mà Nixon đã hứa với
Phạm văn Đồng trước ngày ký Hiệp định Paris-1973. Ngày
1/11/1973, Bộ Chính trị đảng CSVN họp và ra nghị quyết
(NQ-21) giải phóng Miền Nam bằng vũ lực và mở rộng Hành
lang 613, hay đường Trường Sơn Đông, để chuẩn bị chuyển quân
tấn công Sài Gòn bằng lộ trình ngắn nhất thay vì dùng
đường Trường Sơn Tây. Ngày 17/8/1974, CSVN thử thách phản ứng
của Hoa Kỳ lần thứ nhất. Ba sư đoàn bộ và pháo CSBV tấn
công chiếm các quận Nông Sơn, Dục Đức và Thượng Đức trên
trục QL-14, thuộc tỉnh Quảng Nam, cách Hội An 15 dặm ở
hướng tây và Đà Nẵng 25 dặm, định cắt Nam Việt Nam làm đôi,
ít nhất là cô lập QĐI & QK1 trên tuyến Thượng Đức–Hội An.
Tướng Ngô Quang Trưởng đưa Sư Đoàn Nhảy Dù của Tướng Lê Quang
Lưỡng từ Quảng Trị vào, sử dụng các đơn vị SĐ3BB và một
chiến đoàn BĐQ + Thiết Kỵ án ngữ Đại Lộc và các lữ đoàn
Dù đánh nhau dữ dội với các sư đoàn CSBV trên vùng đồi 1062
Thượng Đức từ tháng 8 đến 12/1974. Hoa Kỳ giữ sự im lặng.
Điều bất tường xảy ra trước trận đánh là, ở Hoa Kỳ, ngày
9/8/1974 Nixon từ nhiệm để tránh bị quốc hội giải nhiệm
[empeachment] về vụ Watergate. Ông này rời Bạch Ốc mang theo
lời hứa trong hai bức thư gởi Tổng thống Nguyễn văn Thiệu
trước khi ký Hiệp ước Paris-1973 là sẽ trả đũa mạnh mẽ
nếu CSBV vi phạm tái tấn công Miền Nam. Tháng 1/1975… đúng
thời điểm mà Kissinger dự trù tối đa hai năm sau Hiệp định
Paris-1973, CSBV thử thách phản ứng của Hoa Kỳ lần thứ hai,
tấn công và chiếm tỉnh Phước Long với lực lượng ba sư đoàn
bộ và pháo. Hoa Kỳ chỉ phản kháng lấy lệ. Tổng thống mới
của Hoa Kỳ Gerald Ford lúc đó đang sử dụng Kissinger ở chức
vụ Ngoại trưởng. Kissinger ngó lơ thì còn ai nhắc lại lời
hứa của Nixon. Hoa Kỳ đã phản bội, như lời phát biểu sau
này của ông Thiệu. Nên ghi nhận là tháng 6/1973, Quốc hội
Hoa Kỳ biểu quyết chấp thuận Nghị quyết “Case & Church” cấm
chính phủ đem quân trở lại Đông Dương. Chính phủ của Ford bị
bó tay. Tướng Frederic Weyand, nguyên Tư lệnh MACV cuối cùng,
được cử sang Sai Gòn điều tra về vụ CSBV chiếm Phước Long.
Trở về Washington, Ông đề nghị Tổng thống Ford xin Quốc hội
chi viện đặc biệt 300 triệu Mỹ kim cho QLVNCH. Quốc hội Hoa
Kỳ bàn cãi cả năm rồi quyết định từ chối. Hơn nữa, ngân
khoản viện trợ chính năm 1975 của Miền Nam từ 1.4 tỷ Mỹ kim
bị rút xuống, chỉ còn 500 triệu. Rõ ràng Quốc hội Hoa Kỳ
đã bỏ rơi Miền Nam Việt Nam. “Hội chứng bỏ rơi” [“abandoning
syndrome”] lan rộng trong chính giới Hoa Kỳ sang Sài Gòn –nó
nhen nhúm trong các giới tài phiệt có máu mặt, chính
khách, bộ trưởng và các tướng… lớn.
Đêm 9 rạng ngày 10/3/1975, CSNV mở chiến dịch Tây Nguyên tấn
công thị xã Ban Mê Thuột tỉnh Đạc Lắc và Quận Đức Lập
tỉnh Quảng Đức theo chỉ thị BCT/Đảng CSVN mà Phạm Hùng,
lãnh tụ cao cấp nhất của Trung ương Cục Miền Nam [TUC/MN]
nhận được, mục đích của chiến dịch là để cho Đoàn 559 mở
trục “Trường Sơn Đông”, hay trục QL-14, bị nghẽn ở bắc quận
lỵ Đức Lập, nối Đức Cơ và Đôn Luân ở Phước Long, chuẩn bị
cho cuộc TCK vào năm 1976 hay 1977. Đại tá Trịnh Tiếu, Trưởng
Phòng 2 QKII & QK2, trình kế hoạch của CSBV cho Tướng Tư lệnh
Phạm văn Phú đầu tháng 3/1975. Tuy nhiên, trong hai ngày 4 và
5/3 một sư đoàn CSBV cắt đứt trục lộ 19 nối liền Pleiku và
Qui Nhơn. Tướng Phú tin tưởng vào nhận định của Ông là CSBV
sẽ tấn công tỉnh Kom Tum hoặc Pleiku, nên ra lệnh đưa hai trung
đoàn của SĐ23BB, căn cứ chính ở Ban Mê Thuột, lên vùng
Pleiku-Kontum. Đức Lập mất liên lạc trong đêm 9/3. Thị xã Ban
Mê Thuột và Phi trường Phụng Dực gần đó, thiếu quân phòng
thủ trước sức tấn công của ba sư đoàn bộ binh CSBV cộng thêm
chiến xa, nên thất thủ ngày 12/3. Ai cũng nghĩ là Sài Gòn
sẽ tăng quân để tái chiếm Ban Mê Thuột.
Bất ngờ, ngày 14/3 Tổng thống Thiệu ra lệnh cho Tướng Phú
bỏ Pleiku và Kon Tum với lý do rút quân về vùng duyên hải
lập tuyến phỏng thủ mới bảo vệ các vùng đất trù phú theo
khả năng bị cắt mọi viện trợ đến mức nguy kịch nhất. Từ
quân lệnh này, đã diễn ra cảnh “đoàn quân di tản máu và
nước mắt” [“Convoy of Blood and Tears] trên con đường hoang phế
7-B Pleiku- Hậu Bổn-Phú Yên. Đoàn người gồm 55,000 binh sĩ
và hơn 450,000 dân tị nạn già trẻ, đàn bà và trẻ con, đại
đa số là gia đình binh sĩ, với mọi loại xe mà họ có,
chiến xa và quân xa khởi đi từ Pleiku, KonTum ngày 16/3/1975
đến Phú Yên ngày 27/3/1975 chỉ còn 20,000 quân và 100,000 dân.
Quân CSBV bắn đại pháo và phục kích bắn thẳng vào đoàn di
tản, giết người tập thể. Không ít binh sĩ bươn bả lo cho vợ
con… Từ đó thêm một nhóm từ mới “hội chứng gia đình”
[‘family syndrome”]. Binh sĩ vừa đánh vừa bảo vệ gia đình
của họ. Và bảo vệ gia đình trở thành ưu tiên thứ nhất của
binh sĩ các đơn vị QLVNCH trong khi cấp lãnh đạo của họ lâm
phải “hội chứng bỏ rơi”. Trách ai đây?!. Trước tiên,
dịch…“hội chứng” lan rộng tàn phá tinh thần chiến đấu của
quân dân các tỉnh miển Trung. Đó là lý do chính làm tan rã
các đơn vị thiện chiến của QLVNCH, mất hai vùng lãnh thổ
trọng yếu, gây hệ luỵ toàn diện cho Miền Nam. Tướng Ngô
Quang Trưởng, Tư lệnh QĐI & QK1 được lệnh bỏ lãnh thổ QK1
ngày 13/3/1975, trước Tướng Phú một ngày, cũng với lý do
Tổng thống Thiệu nêu trên. Tuy nhiên, ông Trưởng cho rằng tình
hình ở Quân khu không có gì nguy ngập nên cầu cứu với Thủ
Tướng Trần Thiện Khiêm. Ngày 14/3/1975, Tổng thống Thiệu ra
lệnh đưa hai lữ đoàn của Sư đoàn Nhảy Dù về Sài Gòn và
một lữ đoàn khác về Khánh Dương, trên QL-19. Tướng Trưởng
bị tước mất một đơn vị tinh nhuệ. Trung tướng Lâm Quang Thi
được chỉ định Tư lệnh Bộ Tư lệnh Tiền phương QĐI & QK1 phụ
trách Huế và Quảng Trị. Ngày 18/3 Tướng Khiêm ra viếng
BTL/QĐI & QK1 ở Đà Nẵng, gặp cả hai Tướng Trưởng và Thi.
Không có chỉ thị gì chính thức. Tướng Trưởng bay về Sài
Gòn găp Tổng thống Thiệu trình lại kế hoạch tái phối trí
lực lượng ở QK1. Trở ra Đà Nẵng, Ông chị thị cho Tướng Thi
cố thủ Huế và Quảng Trị đồng thời lập kế hoạch dự phòng
đưa Lữ đoàn 147 TQLC và SĐ1BB về phòng thủ Đà Nẵng. Tuy
nhiên không rõ vì lý do gì, ngày 24/3/1975, Tướng Lâm Quang
Thi ra lệnh cho Bộ Tư lệnh Tiền phương của Ông rút bỏ Huế,
bỏ mặc cho Lữ đoàn 147 TQLC ở bãi Cửa Thuận, làm mồi cho
địch pháo tập trung và tan rã. Tướng Thi bỏ Huế xuống
chiến hạm chạy xa đã gieo kinh hoàng… cho dân chúng. Hàng
triệu thị dân cố đô, hoảng loạn kéo nhau chạy trên QL-1, hay
trên những chiếc thuyền lớn bé vô định xuôi nam. Đà Nẵng
tràn ngập người tị nạn, SĐ1BB và SĐ3BB, đại đa số binh sĩ
có gia đình ở Quảng Trị, Thừa Thiên và Đà Nẵng, tan rã…vì
dịch “bỏ rơi”, kéo theo dịch… lo cho “gia đình”. Binh sĩ bỏ
đơn vị đi tìm gia đình sau khi ông tướng tiền phương bỏ Huế,
làm Đà Nẵng lên cơn sốt dữ dội với ba triệu người, hỗn
loạn giành giựt nhau, dắt díu nhau, tìm cách tốt nhất chạy
giặc. Phố thị, bãi biển, phi trường náo loạn… Tướng Trưởng
và Bộ Tư lệnh của Ông đã trở thành bất lực. Cũng tan rã.
Các sĩ quan cấp tá, cấp úy, đơn vị trưởng của hầu hết
các đơn vị, trong hoàn cảnh đó, chi còn biết nói với binh
sĩ một câu chung chung: “Thôi, các em đi đi.., đi mà tìm gia
đình. Chúc may mắn.” Và thầy trò ôm nhau, rơi nước mắt với
nhau… trước khi chia tay. Một quân đoàn tan rã. Ngày 24/3, quân
CSBV chiếm Quảng Trị và Huế. Ngày 30/3 mất Đà Nẵng. Trước
đó, ngày 24/3 SĐ2/BB ở Tam Kỳ rút ra Cù lao Ré, sau đó được
đưa về Bình Tuy cùng với Liên đoàn 12 BĐQ. Ngày 24/3 mất
Quảng Ngãi. SĐ22BB ở Bình Định được lệnh rút về Bến Lức,
tỉnh Tân An. Ngày 1/4 mất Qui Nhơn. Ngày 31/3, mất Tuy Hoà sau
khi đoàn di tản từ Pleiku-KonTum Quân khu 2, cao nguyên, chạy
về đến đây ngày 27.3; thực đắng cay cho đoàn người di tản
này. Ngày 1/4 mất Nha Trang. Ngày 3/4 mất Cam Ranh. Quyết
định rút bỏ QK1 và QK2 của Tổng thống Thiệu gây tai hoạ cho
QLVNCH, chẳng ai biết rõ lý do chính, ngoài những gì ông
nói về “khả năng chỉ đủ bảo vệ vùng lãnh thổ trù phú”
nên thu hẹp tuyến phòng thủ. Đảng CSVN nhân cơ hội hai quân
khu Miền Nam bị bỏ rơi CSVN đã khai thác thời cơ độc nhất vô
nhị này. Ngày 24/3/1975 Bộ Chính trị đảng CSVN họp, ra nghị
quyết tổng công kích toàn diện “giải phóng” ngay Miền Nam
–mà trước đây họ dự trù trong một hay hai năm tới. Sau khi
quân CSBV chiếm được Cam Ranh, tức khắc Lê Đức Thọ vào Lộc
Ninh. Tại đây, ngày 8/4/1975 Thọ lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch
Hồ Chí Minh, chỉ định Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, Phạm Hùng
làm Chính uỷ, nhưng tự mình nắm quyền quyết định tối cao
về mọi mặt, quân sự, chính trị và ngoại giao… Về quân sự,
Thọ cho sát nhập các đơn vị cấp sư đoàn và các trung đoàn
biệt lập thành bốn Quân Đoàn I, II, III , IV và Đoàn Chiến
thuật 232 [Tactical Force 232] ở cấp quân đoàn, cùng tiến
đánh, bao vây và tấn công QĐIII & QK3 và vòng đai Thủ đô Sài
Gòn. Về chính trị, không chấp nhận đàm phán ngưng bắn với
Chính phủ Nguyễn văn Thiệu. Về ngoại giao trực tiếp điện
đàm với Đại sứ Pháp trung gian cho một giải pháp an toàn
cho người… Hoa Kỳ còn ở Sài Gòn và cho cả Toà Đại sứ Hoa
Kỳ. Một Phái đoàn của Đại sứ Hoa Kỳ Graham Matrtin do Đại
tá Harry G. Summers cầm đầu [Summers sau này là tác giả của
nhiều bài biên soạn, nghiên cứu và viết sách vể chiến tranh
Việt Nam, trong số có quyển “On Strategy: A Critical Analysis of
the Vietnam War” nổi tiếng; Summers cũng là chủ nhiệm sáng
lập Nguyệt san Vietnam Magazine] được cử ra Hà Nội về việc
này. Nhưng sau khi từ Hà Nội trở về Đại tá Summers không
tiết lộ bất cứ điều gì, nhất là về ngày giờ mất còn
của Sài Gòn, cho đến khi ông mất. Chiến tranh Việt Nam còn
nhiều uẩn khúc chưa thể biết được. Ông Nguyễn văn Thiệu cho
đến ngày mất ở Hoa Kỳ, cũng không nói thêm điểu gì về
quyết định rút bỏ QĐI & QK1 và QĐII & QK2 ngoài những điều
đã nói khi còn quyền bính.
Tuyến phòng thủ mới mạn bắc thủ đô và QĐIII & QK3 do Trung
tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Tiền phương
[BTL/TP/QĐIII], chỉ huy, đóng ở sân bay quân sự Phan Rang.
Tuyến này từ vòng đai phòng thủ bắc Ninh Thuận kéo sang Tây
Ninh, gồm một ít đơn vị và chiến đấu cơ còn lại của SĐ6KQ
của Tướng Phạm Ngọc Sang từ Phù Cát, tỉnh Bình Định rút
về, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù do Đại tá Nguyễn Thu Lương chỉ huy
và SĐ2BB của Tướng Trần văn Nhựt từ Bình Tuy chuyển ra.
Ngày 15/4/1975, Quân đoàn II CSBV tấn công BTL/TP của Tướng
Nghi. Tướng Nghi, tướng Sang và Đại tá Lương đều bị bắt
ngày 17/4 trên lộ trình rút quân về Bình Thuận. Riêng Tướng
Nhựt, Tư lệnh SĐ2BB, ngay phút đầu của trận đánh vừa diễn
ra, đã dùng trực thăng cao bay xa chạy, bỏ quân của sư đoàn
như rắn mất đầu, chưa đánh đã tan rã. May mắn thay, hàng
ngũ quân đội Miền Nam còn lắm anh hùng. Thử hỏi quân đội
Nhật khi bại trận được bao nhiêu tướng tuẩn tiết? QLVNCH có
đến năm vị tướng anh hùng, năm vị thần sống mãi trong lòng
chúng tôi. Chúng tôi vẫn kính phục Tướng Nguyễn văn Thiệu
và các tướng khác ở hải ngoại biết giữ sự im lặng. Chúng
tôi hiểu rõ cái lẽ “gặp thời thế thế thời phải thế”.
QLVNCH có những vị tướng tự trọng, giữ nhân cách đáng quí,
như Tướng Lê Quang Lưỡng, biết mình ra đi đã để lại lời di
chúc “đừng phủ quốc kỳ trên quan tài của tôi”. Chúng tôi
cảm động về lời tâm huyết đó. Ông đã hiểu rõ và tôn trọng
sự thiêng liêng của lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ, tạo
được sự quí trọng trong lòng mọi người. Ông đã bất tử.
Chúng tôi chân thành bày tỏ tấm lòng và tâm sự của chúng
tôi, lớp người đã từng được đào tạo thành cấp chỉ huy,
đầu đội trời chân đạp đất, đem sinh mệnh nguyện đền ơn cho
tổ quốc. Nếu che giấu sự thực… thế hệ tương lai làm sao
hiểu để tránh vết xe đổ của thế hệ trước.
IX. Kết Luận Của Một Sụp Đổ
Trận đánh oanh liệt và hào hùng cuối cùng của quân lực
Miền Nam diễn ra ở thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh, giữa
SĐ18BB và 1 quân đoàn CSBV + 1 trung đoàn chiến xa. Tướng Lê
Minh Đảo, chỉ huy các đơn vị cơ hữu và các đơn vị tăng
cường, Nhảy Dù, Biệt Cách Dù và BĐQ, tổng số chừng 12,000
quân –không kể cánh quân tiếp viện của Tướng Trần Quang Khôi
gồm thiết kỵ và bộ binh chừng 3,200 quân, trên QL-1 gần Ngã
Ba Dầu Giây, chưa bắt tay được với nhau– đã chận đứng
QĐ-IV/CSBV cộng với Trung đoàn 203 Chiến xa và 1 trung đoàn
pháo binh, hơn 45,000 quân, trong 20 ngày. Sức chống trả mãnh
liệt của quân phòng thủ ở cửa ngõ phía đông Sài Gòn này
làm chùng bước tiến quân của CSBV. Tuy nhiên vì nhu cầu
chiến thuật nên ngày 20/4/ 1975 SĐ18BB được điểu động về
phòng thủ căn cứ Long Bình và cánh quân phối hợp của Tướng
Khôi về Biên Hoà. Xuân Lộc bỏ ngõ. Từ ngày 20/4/1975, Thủ đô
Sài Gòn bị 5 quân đoàn chính quy CSBV, tổng cộng chừng
180,000 quân bao vây. Ngày 21/4, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu
từ nhiệm. Khi tuyên bố giao quyền bính lại cho Phó Tổng
thống Trần văn Hương, được truyền thanh trên Đài Phát thanh
Quân Đội, Ông Thiệu cho rằng Hoa Kỳ đã “phản bội” VNCH. Hôm
sau, 22/4/1975, Ông Thiệu và Ông Khiêm được giám đốc quan CIA
ở Sài Gòn hộ tống ra Phi trường Tân Sơn Nhứt lên một DC-6
Hoa Kỳ đi Đài Loan. Ở Hoa Kỳ, ngày 23/4/1975 Tổng thống
Gerald Ford phát ngôn trước các sinh viên Đại học Tulane ở New
Orleans, nguyên văn:“Today America can regain the sense of pride
that existed before Vietnam. But it cannot be achieved by re-fight a
war that is finished as far as America is concerned.”(45) Chúng tôi
không thể dịch câu nói này toàn bích, xin quí độc giả giúp
cho. Chỉ hiểu phóng rằng Hoa Kỳ không có được sự hãnh diện
như trước khi có chiến tranh Việt Nam; tuy nhiên dù muốn hồi
phục lại sự hãnh diện đó, Hoa Kỳ cũng không thể mở lại
cuộc chiến đã chấm dứt mà Hoa Kỳ đã từng quan tâm. Nghĩa
là dù không có danh dự gì trong chiến tranh Việt Nam nhưng
Hoa Kỳ đã không còn quan tâm đến cuộc chiến đó nữa. Nghĩa
là… chấm hết. Nghĩa là bỏ rơi Việt Nam. Với lời tuyên bố
này của Tổng thống Ford, ở Sài Gòn cơn sốt bị “bỏ rơi” lên
cao độ. Từ ngày đó, 23/4 Phòng Tuỳ viên Quân sự Hoa Kỳ [DAO]
lập danh sách cho gia đình công chức cao cấp và gia đình sĩ
quan cao cấp của BTTM/QLVNCH di tản bằng C-130 đi Phi Luật Tân,
rồi sang Guam. Những gia đình có tiếng tăm cũng được cấp
chiếu khán đi hàng không dân sự đến nơi nào họ muốn. Trong
tình trạng đó, nhiều giới chức cao cấp chính phủ và nhiều
tướng lãnh tư lệnh binh chủng, cục trưởng, các sĩ quan giám
đốc nha sở trung ương, đã âm thầm bỏ rơi thuộc cấp… di tản.
Đến ngày 27-28/4 ngay cả ở BTTM/QLVNCH các cấp trưởng phòng
trở lên cũng biến mất. Trừ các tướng tá chỉ huy các đơn
vị tác chiến vẫn cầm được quân, cương quyết giữ đất, giữ
được kỷ luật trong quân và sẵn sàng tác chiến, nhất là
các cấp chỉ huy 450,000 chiến sĩ ở QĐIV & QK4. Trước tình
trạng ở Sài Gòn các vị chỉ huy đầu não quân đội đã biến
mất, Ông Trần văn Hương không thể làm gì hơn được là giao
chính quyền lại cho Tướng Dương văn Minh theo yêu cầu của
nhiều nghị sĩ và dân biểu. Chiều 28/4 lễ bàn giao diễn ra
trong khi Phi trường Tân Sơn Nhứt bị ném bom bởi 1 sĩ quan cũ
của KQVN theo giặc. Sáng ngày 29/4 Đại sứ Martin thị sát Phi
trường TSN và ra lệnh đình chỉ mọi di tản bằng C-130 và cho
thi hành việc di tản bằng trực thăng, ưu tiên cho người Mỹ.
Và cảnh hoảng loạn như khu rừng bị cháy, những cánh chim
bị vỡ tổ, bay tán loạn, khi ngay trong đêm đó, cơ sở DAO và
Trại Trần Hưng Đạo của BTTM /QLVNCH bị pháo kích… nên những
chuyến bay trực thăng chở người di tản bay lên và đáp xuống
ở sân trực thăng DAO cấp thiết hơn là hình ảnh của đàn chim
vỡ tổ đó. Tuy nhiên, không phải chỉ có sân trực thăng DAO
chở người chạy giặc đã vào đến ngõ, mà trực thăng Hoa Kỳ
đáp trên nóc bằng các buildings cao trong thành phố và ngay
cả trên nóc của Toà Đại sứ Hoa Kỳ. Bên vòng rào ngoài của
cơ quan này là cảnh chen lấn xô đẩy nhau, giành nhau chen
chúc vào cổng, trèo tường mong vào bên trong để chờ đợi và
hi vọng… được ra đi. Trong khi đó, chiến sĩ tác chiến và
các sĩ quan chỉ huy họ điềm tĩnh nhìn người ta đi và chờ
địch đến. Martin nghĩ rằng chúng tôi sẽ gây tao loạn cản
trở người Mỹ ra đi… Không, họ đến không ai mong. Họ đi không
ai tiễn. Chúng tôi ở lại để chờ chết trên quê hương của
mình. Thế mà, người ta không cho chúng tôi được chết… ở bãi
chiến. Sáng 30/4/1975, chưa tan bóng tối, Đại sứ Martin bỏ
Sài Gòn trên chuyến bay cuối cùng, cuốn theo lá quốc kỳ và
danh dự của nước Mỹ. Gần trưa, Ông Dương văn Minh tuyên bố
đầu hàng. Năm vị tướng tuẩn tiết, hàng trăm sĩ quan và binh
sĩ nữa đã đền ơn nước bằng lối chết anh hùng đó. QLVNCH
tan vỡ. Nhưng lạ lùng thay, chưa có một quân đội nào đã tan
rã rồi mà linh hồn vẫn tồn tại trong lòng mọi người và
càng ngày thế giới càng tìm hiểu nhiều thêm, viết nhiều
hơn để suy tôn và trả danh dự cho chiến sĩ của quân đội đó.
Ở trận địa, họ chưa từng thua bất cứ trận đánh nào. Ở
trong mọi hoàn cảnh loạn lạc, khốn khổ, họ lo trước cho sự
an toàn của người dân hơn sinh mạng của họ. Ở những ngày
cuối cùng họ bình tĩnh nhìn người bạn cũ ra đi mà không
hề hờn oán người bạn này. Những người dễ thương đó cũng
bị chính tên mưu sĩ không thuần giống kia đưa vào màn diễn
bi đát làm tổn thương trầm trọng đến danh dự đất nước, quân
đội và gia đình họ. Chúng tôi cám ơn những người bạn đáng
thương này và dân chúng Hoa Kỳ đã bao dung những người một
thời thất quốc, ly gia như chúng tôi. Nhưng nhìn lại quê nhà,
niềm đau trong lòng loang lở mãi không thôi. Dân chúng Việt
Nam nghèo và khổ sở quá. Đàn áp còn tàn bạo quá, nỗi lo
sợ mất dần đất đai còn dai dẳng quá. Chúng tôi không hi
vọng kẻ mù sẽ sáng mắt mà hi vọng những kẻ còn nhìn
thấy chút ánh sáng không trở thành người mù… Thế nhưng bốn
mươi năm sau khi chiến tranh chấm dứt, có người còn nói đến
chuyện bên thắng cuộc bên thua cuộc… Mù quáng hay đần độn?
Cả một dân tộc Việt Nam đã thua. Nhìn cho rõ, nhận cho rõ,
để chiến thắng sau nầy. Tuy nhiên người đần độn nhất vẫn
là Kissinger. Ông ta đã làm cho Hoa Kỳ mất cả danh dự và
niềm tự hào từ trước. “Hội chứng Việt Nam” vẫn chưa dứt
hẳn vì bức tường tưởng niệm chiến sĩ hi sinh ở chiến
trường Việt Nam vẫn còn giữa lòng Hoa Kỳ. Riêng chúng tôi,
quân dân Miền Nam cũ, vẫn ngẩng cao đầu nhìn những kẻ ngu
muội múa may quay cuồng với hi vọng một ngày chỉ cho họ
biết rõ việc “dưỡng hổ di hoạ” và nhìn rõ, hiểu rõ hơn
Trung Quốc là đại hoạ của nhân loại. Không biết ngày nay
Kissinger đã sáng mắt nhìn thấy hay chưa… Riêng ở Việt Nam,
sau khi CSVN chiếm Sài Gòn, chiếm trọn cả miền Nam, hàng
triệu người bị đưa vào nhà tù nhỏ. Toàn dân miền Nam bị
đoạ đày trong nhà tù lớn, tài sản bị tước đoạt, tư tưởng
bị huỷ diệt. Hàng vài ba triệu người bỏ quê cha đất tổ
vượt biển, vượt rừng, đi tìm tự do bất ở phương trời nào;
thà chết còn hơn sống với những người hút máu, rút cạn
tuỷ xương của họ. CSVN đã bứng tận gốc rễ của nền tự do
ở mảnh đất trù phú nhất Việt Nam này. Không ít văn nghệ
sĩ trí thức cộng sản khi vào đến miền Nam đã bừng con mắt
dậy tưởng mình năm mơ mà thấy thiên đường, vì từ lâu họ đã
sống ở đáy địa ngục đỏ, dã man và tàn độc… Con người cần
hơi thở trong một chế độ chính trị dân chủ cởi mở, tự do
và bình đẳng. Tuy nhiên, một thể chế chính trị dân chủ, tự
do… chưa đủ, cần có những nhà lãnh đạo đạo đức, nhân hậu,
nhất là ở các cường quốc, nhân loại sẽ bớt khốn khổ.
Vĩnh Định Nguyễn văn Dưỡng
[Văn Nguyên Dưỡng]
Cảng Trân Châu Sơ Thu 2013
GHI CHÚ
1. NGUYỄN XUÂN THỌ, “Histoire de la Pénétration Francaise au
Vietnam 1858-1897”; (Hawaii, 1993), Article “La Convention de Tien
Stin; Le Traité de Patenote de 6 juin 1884; các trang 414 -430.
2. -TOGO SHIGENORI, “The Cause of Japan” (New York: Simon and
Schuster, 1956), trang 85.
-VAN NGUYEN DUONG, “The Tragedy of the Vietnam War” (North Carolina:
McFarland Publishers Inc., 2008), trang 13.
3. R. ERNESTRE DUPUY & TREVOR DUPUY“The Harper Encyclopedia of
Military, Fourth Edition, 1990; các trang 1232-1280.
4. Như tham chiếu cận trên.
5. R. ERNESTRE DUPUY & TREVOR DUPUY, sách đã dẫn; các trang
1280-1281.
6. Như tham chiếu cận trên
7. CLAIRE L. CHENNAULT, “Way Of A Fighter” (New York: Putnam’s Son,
1949),
trang 115.
VAN NGUYEN DUONG, sách đã dẫn; các trang 13-16.
8. Wikipedia, “Free French Forces”: http://wikipedia/wik/Free_French
Forces; trang 8/13.
9. Tài liệu tham chiếu cận trên, cùng trang.
10. Wikipedia, the Free Encyclopedia, “Charles de Gaulle”, 10.
http://en.wikipedia.org/w/index.php?title=Charles de Gaulle.; trang
13/38.
11. Tài liệu tham chiếu cận trên; trang 14/38.
12. Tài liệu tham chiếu cận trên; trang 13/38 “Truman nói về
de Gaulle bằng một câu giản
dị “I don’t like the son of a bitch.”
13. -CHARLES DE GAULLE, “Memories de Guerre” (Paris:Librairie Plon,
1954); tr.165.
-VAN NGUYEN DUONG, sách đã dẫn, ghi bằng Anh ngữ tuyên bố đó;
trang 16.
14. PHẠM CAO DƯƠNG, “Nhìn Lại Những Nổ lực của Cựu Hoàng
Đế Bảo Đại”,
http://us.mc1645.mail.yahoo.com/mc/showMessage?pSize=25&sMi; trang
4/8.
15. CHARGES DE GAULLE, sách đã dẫn; các trang 249-250.
16. Xem “NGUYỄN VĂN THINH”, http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn
Văn_Thinh.
17. Xem “VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG”,
http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_
Quốc_ dân_ đảng; trang 4/6.
18. -Xem “GUERRE D’INDOCHINE”,
http://fr.wikipedia.org/wiki/Guerre_d’Indochine; trang 5/14.
19. -The Pentagone Papers: Senator Gravel Edition (Boston: Beacon
Press, 1971), Volume
1, pp. 18-19.
-VAN NGUYEN DUONG, sách đã dẫn, trang 21.
20. Xem “VIỆT
MINH”,http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Độc_lâp̣_Đồng_minh_Hội;
các trang 5,6,7/10.
21. -PHÙNG NGỌC SA “Võ Nguyên Giáp, Hung Thần CSVN”. Xem toàn
bài.
http://www.tinparis.net/thoisu10/2010_03_20_VoNguyenGiapHungThanCSVN_PNS,
-Xem “History of the NVA (PAVN)”,
http://25thaviation.org/history/id554.htm, tr. 4/6.
22. NGUYỄN ĐỨC PHƯƠNG “Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập” (Làng
Văn, 2001);
các trang 902-904.
23. VAN NGUYEN DUONG “Lessons From the Vietnam War”, Diễn Đàn
Việt Thức,
6/4/2013: http://www.vietthuc.org. Tài liệu này quan trọng.
24. -“INDOCHINA WAR”,
http://en.wikipedia.org/wiki/First_Indochina_War; trang 4/18.
- VAN NGUYEN DUONG, tài liệu dẫn cận trên; trang 7/27.
25. VAN NGUYEN DUONG, tài liệu dẫn trên, các trang 14-15/27.
Web. DĐVT ghi trên.
26. QIANG ZHAI, “China and Vietnam Wars 1950-1975”, (The University
of North
Carolina Press, 2000); trang 23.
27. -QIANG ZHAI, sách đã dẫn, Chương I, Tiểu mục: “Chen Geng
and The Border
Campaign”; các trang 26-33.
-VAN NGUYEN DUONG, sách đã dẫn, các trang 24-25.
28. VAN NGUYEN DUONG, sách đã dẫn, các trang 25-26. Tác giả
chỉ đọc được bản dịch
Anh ngữ lời tuyên bố này của De Lattre de Tassigny trong “The
Pentagon Papers”,
Senator Gravel Edition (Boston; Beacon Press, 1971) các trang
53-75. Nội dung bản
dịch: “Certainly people pretend that Vietnam cannot be independent
because it is part of
the French Union. Not true! In our universe, and especially in our
world of today, there
can be no nations absolutely independent. There are only fruitful
interdependencies and
harmful dependencies. Young men of Vietnam… the moment has come for
you to
protect your country.”
29. RONNIE I. FORD, “The Window of Opportunity,” Vietnam Magazine
February1995, trang 6. Ronnie ghi lại bản dịch Anh ngữ huấn
thị của Mao Trạch Đông: “We must by all means seize South-East
Asia, including Vietnam, Thailand, Burma, Malaysia, and Singapore…
This region in rich in raw materials, it is worth the costs
involved. After seizing South-East Asia, we can increase our
strength in the region. And we shall be strong enough to confront
the Soviet and East Europe bloc; the East wind will prevail over the
West wind.”
30. QIANG ZHAI, sách đã dẫn, trang 44, nguyên tác:“By
eliminating the enemy in the Lai
Chau area, liberating the northern and central partsof Laos, and
then expending the
battle-ground to the southern part of Laos and Cambodia to threaten
Saigon.”
31. QIANG ZHAI, trang 47.
32. VAN NGUYEN DUONG, sách đã dẫn, các trang 33-38.
33. -HOANG VĂN CHÍ, “From Colonialism to Commmunism”, ̣(New Delhi,
India: Allied
Pub.,1964), trang 13.
-VAN NGUYEN DUONG, xem chi tiết Chương IV, sách đã dẫn; các
trang 45-56.
34. Stephen B. Young, “LBJ’s Strategy for Disengagement,” Vietnam
Magazine, Feb. 1998,
trang 21.
35. VAN NGUYEN DUONG, trang 59.
36. ROBERT L. HEWITT, “Limited War”, Vietnam Magazine June 1993,
trang 61.
37. JOHN DELLINGER, “The War Makers”, Vietnam Magazine, April 1996,
trang 37.
38. VAN NGUYEN DUONG, trang 96.
39. MICHAEL R. CONROY, ‘Trail along the Trail”, Vietnam Magazine
October 1993, trang 27.
40. MICHAEL MACLEAR “The Ten-Thousand-Day War, (New York: NY, St.
Martin Press, 1981), trang 75.
41. 38 HARRY G. SUMMERS, Jr., “Snatching Victory from Defeat,”
Vietnam Magazine, April 1999, trang 35.
42. GOOGLE, “Hành Quân Lam Sơn 719,
http://www.vnmc-tqlcvn.org/soibien/cs-lamson719-NKP.htm, trang 5/14.
43. -MICHAEL MACLEAR, trang 310.
-VAN NGUYEN DUONG, trang 169-171
44. GOOGLE: “Kissinger’s Strategy Decent Interval”,
http://angrybearblog.com/2006/11
iraq-and-vietnam-kissinger-decent-interval-htm.
45. LARRY ENGELMANN, “Tear Before the Rain” (New York: Da Capo
Press, 1999),
trang 150.
Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây
biểu chương...
Lễ nghi
quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu,
huy hiệu... QLVNCH
Tiến
tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về
Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6
Gươm lạc giữa rừng hoa
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ
Sắc lệnh về
quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ
quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !
140
chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại
VN
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Tổng Thống Abraham Lincoln
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo
vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng
Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc
Luận về Tậm Lư
Chính Trị
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?
Một tài liệu 42 năm cũ
Dựng
Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi
Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974
Những điều nên biết về
Medicare 2016
Remember C-Rations?
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Tướng lănh VNCH
Bài phỏng
vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột
tháng 3, 1975
Đại Tá
Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần
Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975
tại Sài G̣n
Chuyện của một
ngôi trường
Luận về khoa bảng
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền
Phiếm luận
về mộng mơ qua văn chương và triết học
Chính sách
thuế khóa
Cách viết hoa
trong tiếng Việt
Đoàn
thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa
ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa
Việt Nam
Tiếng Việt ba miền -
Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?
TT
Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?
HCM đă âm mưu
bán nước từ năm 1924
Vài nét
về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải
chiến Midway
Adm
Chester Nimitz
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc
hành quân Lam Sơn 719
Những trận đánh đi vào quân sử
Nguyên nhân xụp
đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng
Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh
chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh
Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng
Nguyên do chính khiến VN bất tử
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và
huyền thoại
Vài nét hoạt
động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến
VNCH
Trung
Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72,
TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng
12 năm 1965
Nhảy Dù và
Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử:
Mậu thân Huế
Trận KAMPONG
TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v
Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn
Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ
QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát
Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân
VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc
Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về
thành nội Tết Mậu Thân
Một ngày với Đô Đốc
Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh
anh dũng và trung thành với Tổ Quốc
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần -
Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối
tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng
Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết
hiên ngang
Chuyến công tác cuối
cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá
BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người
chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà
Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh
một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của
Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn
thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị
bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng
sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi
trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường
BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh
hùng
Lịch sử h́nh thành
QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận
Vong
Người lính
VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người
lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù
bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh
chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính
VNCH
Sự thật về cái chết
của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số
quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những
chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn
Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1,
Phần 2,
Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ
1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn
Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên
Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
QLVNCH
Những người trở về
với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam,
Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ
lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức -
1974
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc
Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù
CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước
Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội
chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối
của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc
Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành
Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú
Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di
sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền
ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc
Kinh