Căn cứ Khe Sanh một tiền đồn đèo heo hút gió ở vùng cực Bắc của Việt Nam Cộng Ḥa, tọa lạc trên một trảng cao của ngọn núi cao nhất vùng Đông Trị trong dảy Trường Sơn, cạnh sông Rào Quan, một chi nhánh của Sông Quảng Trị, bao quanh bởi núi đồi và cây rừng trùng điệp. Phía Bắc và Tây Bắc có 4 ngọn đồi án ngữ là 881 Bắc, 861, 558 và 881 Nam. Các ngọn đồi này được dùng như là các tiền đồn để bảo vệ căn cứ cũng như quan sát để xác định các vị trí pháo và pḥng không của địch. Khe Sanh chỉ cách biên giới Lào-Việt chừng 6 miles (10 km) trên con đường số 9 chạy theo hướng Đông-Tây nối liền Đông Hà thuộc tỉnh Quảng Trị, ngang qua Cam Lộ, Cà Lu, xuyên qua biên giới Lào-Việt tới tận Savannakhet bên Lào. Căn cứ Khe Sanh cách vùng Phi Quân Sự 14 miles (23 km) về phía Nam.
Bản đồ vùng Khe Sanh của Trần Đổ Cẩm
Khi xưa, v́ thuộc địa Lào nằm trong đất liền nên người Pháp xây dựng
đường số 9 để thông thương ra vùng bờ biển Việt Nam. Trong cuộc
chiến Việt Nam, đường số 9 là trục lộ chiến lược quan trọng được
Cộng quân xử dụng để xâm nhập người và vũ khí từ bên Lào vào các
tỉnh cực bắc Việt Nam Cộng Ḥa. Về phương diện hành chánh, Khe Sanh
thuộc quận Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị với quận đường đặt gần làng Khe
Sanh. Về mặt quân sự, Chi Khu Hướng Hóa do một Đại Úy chỉ huy, gồm
chừng một đại đội Địa Phương Quân (ĐPQ) và Nghĩa Quân (NQ) cùng một
số cảnh sát. Thông thường có thêm một Tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 2,
Sư Đoàn 1 Bộ Binh tăng phái hoạt động trong vùng cùng một Pháo Đội
105 ly (-) với 2 khẩu đặt tại sân bay Khe Sanh và 2 khẩu đặt tại
Làng Vei. Sau này, v́ t́nh h́nh an ninh không đuợc khả quan nên Quận
Hướng Hóa được di chuyển về vùng Cùa gần căn cứ Mai Lộc. Về dân cư,
v́ là vùng đồi núi hoang dă, khí hậu khắc nghiệt nên chỉ có chừng
trên ngàn người Việt cư ngụ, đa số là thân nhân và gia đ́nh nhân
viên, binh sĩ phục vụ tại chi khu Hướng Hóa. Sắc tộc thiểu số Bru
đông hơn, tổng cộng chừng 50,000 người sống rải rác trên các đồi,
núí dọc biên giới Lào, nhưng qui tụ khá đông đảo tại hai làng Khe
Sanh và Làng Vei dọc đường số 9. Cũng như những sắc dân thiểu số
khác như Rhadê, Hrê v.v... tại miền Trung và Bắc Việt Nam, giống Bru
thuộc chủng loại Mă Lai- Polynesia nên đen đúa và khá lực lưỡng.
Tuy đường số 9 chỉ là một trục giao thông nhỏ, coi như bị bỏ hoang từ lâu, nhưng khu vực này lại là một chiến trường quan trọng, nơi xảy ra nhiều trận đánh lớn. Lư do v́ con đường này dẫn sang Lào, giao tiếp với đường ṃn HCM, lại nằm trong vùng đồi nuí hiểm trở nên rất thuận tiện cho quân Bắc Việt đưa người và vũ khí xâm nhập các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Để ngăn chận đối phương, người Mỹ đă lập hàng rào điện tử McNamara theo h́nh ṿng cung dọc theo mặt Bắc đường số 9, hướng Đông kéo dài từ Cửa Việt tới Khe Sanh gần biên giới Lào. Như vậy, Khe Sanh là điểm cực Tây của hàng rào Mc Namara nằm trong phần đất Việt Nam, giữ nhiệm vụ thu thập tin tức t́nh báo kỹ thuật và chiến lược của quân lực Mỹ nhắm vào các hoạt động di chuyển, xâm nhập của các đại đoàn chính quy CSBV cơ động sát vùng Bắc Vĩ Tuyến 17 và phía Tây biên giới Việt Lào cũng như trên lănh thổ Lào. Thủy quân lục chiến Mỹ có 3 Tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 26 đóng quân trong căn cứ Khe Sanh . Đó là các Tiểu Đoàn 1, 2, 3 và Tiểu Đoàn 13 Cơ giới cùng một đơn vị T́nh Báo chiến lược.
Năm 1968 Khe Sanh trở thành một địa danh nổi tiếng được nhắc nhở đến
nhiều nhất. Đó là thời điểm của Trận Chiến Tết Mậu Thân khi Việt
Cộng khởi đầu chiến dịch tổng tấn công trên toàn lănh thổ Việt Nam
Cộng Ḥạ. Trong chiến dịch này, 20,000 bộ đội Bắc Việt đă được huy
động để bao vây 6,000 Thủy Quân Lục Chiến HK cùng Tiểu Đoàn 37 Biệt
Động Quân VNCH. Nhưng Khe Sanh đă chẳng thất thủ. Trận chiến kéo dài
77 ngày và Cộng quân hứng chịu hơn 10,000 tổn thất.
Đêm 6 tháng 1/1968, Quân CS Bắc Việt sử dụng một
biệt đội thiết vận xa PT 76 của Nga chế tạo có bộ binh tùng thiết và
1 trung đoàn chủ lực tấn công vào trại Lực lượng Đặc biệt tại Làng
Vei, cách Khe Sanh 6 miles (10 km) về hướng Tâỵ. Trại này do Đại úy
Frank C. Willoughby chỉ huy gồm 1 phân đội
Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ 24 người và khoảng 200 Dân sự Chiến đấu
(Biệt kích quân biên pḥng) phần lớn là dân thiểu số miền núi tỉnh
Quảng Trị. Ngày hôm sau, 7/1/1968, trại này bị tràn ngập bởi lực
lượng Cộng quân, một số đông binh sĩ và cố vấn do Đại úy Frank C.
chỉ huy phải rút về Khe Sanh.
Ngày 19/1/1968 Một đơn vị TQLC Mỹ tảo thanh vùng đồi 881 Bắc đă đụng độ dữ dội với cộng quân. Chiều ngày hôm sau một Trung Úy CSBV tên Lă Thanh Ṭng, Đại đội trưởng pháo đội 14 pḥng không thuộc trung đoàn 95/SĐ325 về đầu thú, và tiết lộ kế hoạch tấn công căn cứ Khe Sanh. Trung Úy Ṭng cho biết đêm nay Bắc quân sẽ mở cuộc tấn công lên các ngọn Đồi 861 và 881-Bắc. Ngoài ra, người tù binh cũng tiết lộ rằng hai sư đoàn 304 và 325C của Bắc Việt đă vạch sẵn kế hoạch đánh chiếm căn cứ Khe Sanh.
Ngày 20/1/1968 đúng như lời tiết lộ của Trung Úy Ṭng, nửa đêm hôm đó sau nửa giờ pháo kích, lực lượng CSBV khoảng 300 cán binh xung phong lên đồị tấn công vào căn cứ. Nhưng lực lượng trú pḥng Đại Đội K/3/26 đă chuẩn bị sẵn sàng tác chiến phản công. Trận đánh kéo dài đến 5 giờ 30 sáng, Cộng quân rút lui để lại 47 xác. Phía bên Đại Đội K/3/26 có một binh sỉ TQLC bị tử thương.
Sáng ngày 21/1/1968, căn cứ bị pháo dữ dội hằng ngàn quả đạn, kho bom dự trử bị nổ tung, nhiều phi cơ trực thăng bị hư hại, phi đạo ở Khe Sanh với chiều dài 3,900 feet (1,188 m) bị cày xới lung tung, rút ngắn lại chỉ c̣n 2,000 feet (609 m) đài kiểm lưu bất khiển dụng, nhiều dụng cụ quan trắc khí tượng bị hư hỏng...T́nh h́nh trở nên vô cùng nghiêm trọng.
Map Khe Sanh Combat Base
Ngày 22 tháng 1/1968, trước t́nh h́nh nguy ngập. Tiểu Đoàn 1/9 TQLC Hoa Kỳ được trực thăng vận đến tăng viện cho Khe Sanh. Đây là một đơn vị thuộc Trung Đoàn 9 đă nổi danh trong trận đánh tại Côn Thiện (Cồn Tiên) gần vùng phi quân sự vào năm 1967 vừa qua
Ngày 25/1/1968 Thiếu Tướng J.J.Tolson, Tư lệnh Sư
Đoàn 1 KBKV, bắt đầu soạn thảo kế hoạch chuẩn bị một cuộc hành quân
để giải tỏa căn cứ Khe Sanh.
Ngày 27/1/1968 Tiểu Đoàn 37BĐQ-VNCH, được không vận đến để tăng viện
thành 5 Tiểu đoàn họp thành lực lượng pḥng thủ căn cứ. TĐT/TĐ37BĐQ
là Đại Úy Hoàng Phổ. Như vậy, ngoài 6,000 TQLC Hoa Kỳ và một Tiểu
Đoàn thiện chiến Biệt Động Quân Việt Nam, Khe Sanh lại được pḥng
thủ bởi hỏa lực pháo binh gồm một pháo đội súng cối 106 ly, 3 pháo
đội đại bác 105 ly, và một pháo đội đại bác 155 lỵ. Về thiết giáp,
Khe Sanh có 5 xe tăng loại M-48 và 2 chi đội chiến xa M-50 Ontos với
6 khẩu đại bác 106 ly trên mỗi chiếc. Về hỏa lực yểm trợ quanh vùng,
Khe Sanh nằm trong tầm tác xạ hỏa yểm của 4 pháo đội đại bác 175 ly
từ căn cứ Rock Pile và 3 pháo đội 175 ly từ căn cứ Carroll.
Trong khi đó tin tức t́nh báo ghi nhận lực lượng Cộng Sản cũng hùng hậu không kém hiện diện chung quanh Khe Sanh. Có ít nhất 3 sư đoàn và thêm một số đơn vị biệt lập hỗ trợ khác. Các đơn vị Cộng Sản được ghi nhận như sau:
- SĐ325 CSBV đang hiện diện quanh quẩn tại phía
Bắc đồi 881 Bắc.
- SĐ304 từ Lào cũng đă xâm nhập vào VN và hiện đang có mặt tại phía
Tây-Nam của Khe Sanh.
- Một Trung Đoàn của SĐ324CSBV cũng được phát giác tại khu phi quân
sự cách Khe Sanh chừng 24 km về hướng Tây Bắc.
- SĐ320CSBV đang ở phía Bắc căn cứ hỏa lực Rockpile, cũng có thể
tiếp ứng cho mặt trận Khe Sanh.
- Ngoài ra, Cộng Sản c̣n huy động thêm một đơn vị Thiết Giáp với
chiến xa T-54 cùng hai Trung đoàn 68 và 164 Pháo Binh.
Theo ước tính của các cơ quan t́nh báo liên quân Việt-Mỹ, quân số tham chiến của Cộng quân tại chiến trường Khe Sanh vào lúc đó đă lên đến khoảng 50 ngàn quân, trong đó 4/5 là lực lượng chính quy CSBV.
Bản đồ khu giới tuyến và QL 9 của Trần Đổ
Cẩm
Ngày 30 tháng 1 Cộng Sản mở chiến dịch "Tổng Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa" trên toàn lănh thổ Nam Việt Nam. Có tất cả 25 tỉnh lỵ và thị trấn trong số 44 Tỉnh của VNCH bị tấn công, trong đó có Huế và Saigon là hai thành phố xảy ra những vụ đụng độ lớn nhất.
Từ ngày 5/2/1968 ( mồng 7 Tết) Cộng quân bắt đầu liên tục pháo kích, tấn công bằng bộ binh và bao vây quanh ṿng đai căn cứ chiến lược Khe Sanh. Địch quân đă phối trí rất nhiều vị trí pḥng không xung quanh căn cứ và các dàn pháo 130 ly đặt sâu trong các sườn núi từ phía biên giới Lào, cách Khe Sanh khoảng 20 cây số, y hệt như chiến thuật sử dụng tại Điện Biên Phủ năm 1954. Nhưng lực lượng trú pḥng đă phản công chống trả quyết liệt gây nhiều tổn thất cho địch quân.
Ngày 9/2/1968 một Tiểu đoàn CSBV thuộc Trung Đoàn 101D của Sư Đoàn 325 tấn công đồi 64 do Đại Đội A/1/9 TQLC trấn giữ. Các vị trí pḥng thủ trên đồi bị Bắc quân tràn ngập. Không chút chậm trễ, các khẩu đại bác quanh vùng đều nhắm hướng đồi 64 và tác xạ. Một lực lượng TQLC khác được gởi đến tiếp viện. Trong 3 tiếng đồng hồ máu lửa này, có 200 bộ đội Bắc Việt chết và 26 binh sĩ Hoa Kỳ tử thương. Sau trận đánh ở Đồi 64 nầy, quân Bắc Việt tạm ngưng các hoạt động để bổ sung quân số. Chiến trường lắng dịu trong hai tuần. Ngày 11 tháng 2, Cộng quân gia tăng pháo kích vào phi đạo, việc tiếp tế cho quân trú pḥng đă gặp khó khăn. Các vận tải cơ C-130 đáp xuống phi đạo trở thành mục tiêu của các họng pháo Cộng quân nhắm vào, hai phi cơ vận tải C-130 đáp xuống Khe Sanh, một chiếc bị nổ tung v́ trúng đạn pháo kích bốc cháy trên phi đạo 6 nhân viên phi hành đoàn bị tử thương. Chiếc thứ hai cũng bị hư hỏng và được gấp rút sửa chữa rồi bay "khập khễnh" về phi trường Đà Nẵng.
Ngày 21/2/1968 khoảng 1 Đại đội cộng quân tấn công vào pḥng tuyến của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân tại khu vực hướng Đông căn cứ Khe Sanh. Nhưng các binh sĩ Mũ Nâu VNCH đă vững vàng cố thủ. Đợt tấn công của đối phương đă bị Biệt Động Quân bẻ gảỵ
Hai ngày sau 23/2/1968, quân CSBV tập trung pháo binh để phục hận. Một ngh́n ba trăm (1,300) quả đạn đủ loại đă được bắn vào Khe Sanh. Trận địa pháo 8 tiếng đồng hồ này đă làm nổ tung một kho tồn trữ đạn trong căn cứ, gây thiệt mạng cho 10 quân nhân Hoa Kỳ và 51 người khác bị thương.
Khoảng 9.30 giờ đêm 29/2/1968, một Tiểu đoàn Cộng quân (thuộc Sư Đoàn 304 CSBV) đánh thẳng vào mặt Đông của Khe Sanh. Đây là khu vực trách nhiệm của TĐ37 Biệt Động Quân VNCH. Sau một màn pháo kích dọn đường, và ba lần biển-người xung phong, CSBV cũng không phá được pḥng tuyến thép. Đêm hôm đó, các binh sĩ Biệt Động Quân b́nh tĩnh chiến đấụ Họ đợi đối phương xung phong đến thật gần rồi mới khai hỏạ. Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân đă chống tră mănh liệt. Kinh nghiệm chiến đấu và sự gan dạ của họ chính là một trong các yếu tố quan trọng giúp đẩy lui cả 3 lần xung phong của Bắc quân. Ngày hôm sau, kiểm điểm t́nh h́nh chiến trận họ đếm được 70 xác chết địch quân trên trận địạ
Sau nhiều ngày thảo luận t́nh h́nh chiến sự, sau cùng Tướng Westmoreland chấp thuận kế hoạch hành quân giải vây Khe Sanh. Hành quân mang tên Pegasus về phía Mỹ và về phía VNCH nằm trong kế hoạch Hành Quân Lam Sơn 207A. Cả hai cuộc hành quân đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tướng J.J. Tolson. Lực lượng tham dự hành quân gồm có :
1/ Lữ Đoàn 1 KBKV với Lữ Đoàn Trưởng là Đại Tá
J.F. Stannard.
2/ Lử Đoàn 2 KBKV với Lữ Đoàn Trưởng là Đại Tá J.C. Mc Donough.
3/ Lữ Đoàn 3 KBKV với Lữ Đoàn Trưởng là Đại Tá H.S.Campbell.
4/ Trung Đoàn 26 TQLC với Trung Đoàn Trưởng là Đại Tá D.E. Lownds
5/ Trung đoàn 1 TQLC.
6/ Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù – VNCH trách nhiệm khu vực phía Bắc quốc lộ
9 và phía Tây căn cứ Khe Sanh gồm 3 Tiểu Đoàn dưới quyền chỉ huy của
Trung Tá Nguyễn Khoa Nam.
- Tiểu Đoàn 3 ND – TĐT là Thiếu Tá Trần Quốc Lịch.
- Tiểu Đoàn 6 ND – TĐT là Thiếu Tá Trương Vĩnh Phước.
- Tiểu Đoàn 8 ND – TĐT là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thọ.
Bộ Tư Lệnh hành quân đóng tại căn cứ Stud gần Cà Lu. Quân số tham
chiến lên đến khoảng 20,000 người với sự yểm trợ bởi 300 trực thăng,
148 khẩu pháo binh.
Ngày 25/3/1968 Thiết Đoàn 1/9 KBKV dưới quyền chỉ huy của Trung Tá R.W.Diller sử dụng trực thăng trinh sát dọc theo QL 9 hướng về Khe Sanh để thu thập tin tức về địch quân, xác định các vị trí bải đáp trực thăng đồng thời tiêu diệt các ổ pḥng không của địch.
Sáng ngày30/3/1968, SĐ3TQLC Mỹ phối họp với SĐ1BB-VNCH hành quân nghi binh tại vùng Côn Thiện và Gio Linh. Lực lượng của Mỹ hơp thành lực lượng đặc nhiệm Kilo trong khi cánh quân SĐ1BB-VNCH nằm trong kế hoạch Lam Sơn 203. Cuộc hành quân chấm dứt lúc trưa ngày 1/5/1968. chỉ có những cuộc chạm súng lẻ tẻ không đáng kể.
Ngày 1/4/1968 cuộc hành quân chính thức khai
diển. Hai Tiểu Đoàn 2/1 và 1/3 TQLC Mỹ từ Cà-Lu tiến dọc hai bên
đường QL9 hướng về Khe Sanh để bảo vệ cho TĐ11Công Binh tu sửa lại
con đường nầy. Trong khi đó 3 Tiểu Đoàn thuộc Lữ Đoàn 3KBKV được
trực thăng vận đổ xuống các bải đáp phía
trước cách Khe Sanh khoảng 5 dậm.
Ngày 2/4/1968 liên tiếp 2 ngày, hai Lữ đoàn 2 và 1 KBKV được thả
xuống phía Nam căn cứ Khe Sanh và đường số 9 tảo thanh quanh khu vực
đồn điền của người Pháp khi xưa. Sau khi được thả xuống bải đáp,
TĐ1/5KBKV hướng về mục tiêu đồn Pháp cũ, đă đụng độ với một Tiểu
Đoàn cộng quân đang cố thủ tại đây,TĐ1/5KBKV bị thiệt hại nặng,
Trung Tá Runkle Tiểu Đoàn Trưởng bị tử thương. TĐ2/5KBKV được lịnh
vào thay thế nhưng cộng quân đă rút lui. Trong khi đó, các đơn vị
pḥng thủ bên trong căn cứ Khe Sanh, TĐ1/9TQLC cũng bắt đầu tấn công
ra về phía Nam để chiếm lại ngọn đồi 471 theo chiến thuật gộng kềm,
ép đơn vị Tiểu Đoàn 7 Trung Đoàn 66 địch quân vào giửa. Cộng quân cố
thoát ra khỏi ṿng vây nhưng với hoả lực hùng hậu của các đơn vị
tham chiến, Công quân phải rút chạy và bỏ lại chiến trường 148 xác.
Ngày 4/4/1968 Các Tiểu Đoàn 3, 6 và 8 Nhảy Dù thuộc LĐ3ND-VNCH được thả xuống khu vực LZ Snake phía Tây và Tây Nam căn cứ Khe Sanh. ( bên ngoài và phía sau vị trí của địch quân đang bao vây căn cứ.) để chận đường lui binh của địch. Tiểu Đoàn 3 Dù của Thiếu Tá Lịch được trực thăng vận phía Tây Nam của đồi 471, Tiểu Đoàn 6 Dù của Thiếu Tá Phước được thả về phía Bắcc ủa T Đ3ND. Tiểu Đoàn 8 Dù của Thiếu Tá Thọ cùng với Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn và một pháo đội 105 ly được thả về khu vực phía Bắc Làng Khe Sanh .
Vừa được thả vào buổi chiều, thiết lập xong các công sự pḥng thủ th́ TĐ8ND cùng với Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn bị địch quân tấn công phủ đầu vào buổi tối v́ chúng nghĩ rằng đây là một đơn vị của Hoa Kỳ. Bị chống trả mănh liệt, địch phải rút lui. Trong trận này, Tham Mưu Trưởng Chiến Đoàn là Thiếu Tá Bùi Văn Thạch, cùng khóa 3 Thủ Đức với Trung Tá Nam, tử trận.
Ngày 6/4/1968 các đơn vi KBKV đă bắt tay được với
TQLC bên trong căn cứ tại đồi 471.Sau đó TĐ 1/9 TQLC bắt đầu càn
quét khu vực chung quanh căn cứ khởi đi từ ngọn đồi 552 rồi đến đồi
681. không gặp một kháng cự nào của địch.
Cùng lúc đó về mặt Bắc, TĐ2/26TQLC cũng tiến ra ngọn đồi 558. Mủi
tiến quân nầy gập sự chống trả mạnh mẽ của công quân; trận chiến
phải mất hết 2 ngày mới bứng hết các ổ kháng cự.
Ngày 7/4/1968 trong khi tiến về Khe Sanh dọc theo QL9, TĐ2/7KBKV đă chạm địch mạnh tại địa điểm chỉ cách Khe Sanh chừng 2 dậm. Để 3 Đại Đội cầm chân địch quân ở mặt trận chính, Đại Đội thứ tư ḷn ra sau bọc hậu, mới đánh bật được Cộng quân ra khỏi các công sự pḥng thủ. Cũng trong ngày nầy các Tiểu Đoàn Nhảy Dù Việt Nam đă chạm địch, Sau khi TĐ3ND và TĐ6ND đáp xuống vị trí ổn định, Trung Tá Nam Chiến Đoàn Trưởng cho lệnh các đơn vị mở rộng đội h́nh tiến vào phía căn cứ,
Khi biết có lính Nhảy Dù VN tăng cường, binh sỉ TQLC bên trong căn cứ lên tinh thần nên khi lực lượng Nhảy Dù chạm địch, bên trong căn cứ cũng bắn ra dữ dội. Do đó địch quân bị kẹt giữa hai lằn đạn, v́ quá gần trong khoảng cách không quá 200m, biết không thể tiến cũng không thể thoát được, địch quân gọi pháo tác xạ vào ngay lên đội h́nh của chúng nên bị chết rất nhiều, một số bị bắt sống, bên ta cũng bị tổn thương khá cao. Đại Đội 33 Nhảy Dù bị tổn thất nặng nhất: Đại Úy Nguyễn Đức Cần, ĐĐT cùng 2 Chuẩn Úy Trung Đội Trưởng bị tử thương . Một Thiếu Úy Trung Đội Trưởng bị thương. chỉ c̣n một Trung Đội Trưởng là Thiếu Úy Trương Văn Dũng không bị thương tích. Bị dồn ép và không chịu nổi bị tấn công từ nhiều phía, địch quân bắt buộc phải bỏ chạy.
Sau đó Lực lượng Nhảy Dù trở lại hành quân giải tỏa Làng Vei lúc này vẫn do một tiểu đoàn CSBV chiếm đóng, c̣n dân chúng th́ đă di tản ra khỏi vùng. Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, tương đối c̣n nguyên vẹn, được lệnh chuyển hướng về phía Nam để án ngữ sườn phía Bắc của Làng Vei trong khi đó một lực lượng của Sư Đoàn 101 Hoa Kỳ tiến từ hướng Đông. Ngay hôm đó, Truyền Tin Tiểu Đoàn 3 Dù ḍ tần số địch biết được địch đang tăng viện thêm hai tiểu đoàn, một tiểu đoàn chận đánh Tiểu Đoàn 6 Dù c̣n tiểu đoàn kia hỗ trợ cho Làng Vei, liền báo cáo về Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn. Tiểu Đoàn 6 Dù được lệnh dừng quân chuyển qua đội h́nh pḥng thủ. Chưa kịp đào công sự chiến đấu th́ TĐ6ND đă bị địch xung phong. Tiểu đoàn 3 Dù bắn yểm trợ khoảng 100 đạn súng cối trên hướng tiến quân của địch. TĐ6ND nhờ chuẩn bị trước nên phản công quyết liệt, địch phải rút lui trước sự chống trả của các chiến sĩ Dù. Bác Sĩ Nghiêm Sĩ Tuấn, Y Sĩ Trưởng của Tiểu Đoàn 6 Dù tử thương.
Các lực lượng Hoa Kỳ sau đó đă sử dụng tối đa ưu thế của không quân chiến thuật oanh kích các tiểu đoàn địch khiến họ phải rút về biên giới Lào. Sau cuộc hành quân nầy th́ các đơn vị của Cộng Sản Bắc Việt đang được điều động đến khu vực Khe Sanh phải bỏ dở ư định tấn công v́ không muốn làm mồi cho hỏa lực Không Quân và Hải Quân Hoa Kỳ do đó áp lực địch vào căn cứ Khe Sanh giảm đi và thế là giấc mơ tạo dựng một chiến thắng quân sự như kiểu Điện Biên Phủ của Vơ Nguyên Giáp để eo sèo đ̣i hỏi Mỹ và VNCH nhượng bộ kể như không thành. Các binh đoàn dưới quyền chỉ huy của ông bị mất từ 10 đến 13,000 bộ độị. Nhiều đơn vị bị xóa tên dưới hỏa lực hùng hậu của pháo binh và không yểm.
Ngày 8/4/1968 Căn cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải toả sau 77 ngày bị cộng quân vây hảm , các đơn vị tham chiến tung quân càn quét các khu vực xung quanh, chỉ một vài cuộc đụng độ lẻ tẻ quanh ngọn đồi 881 Bắc.
Tổng kết về cuộc hành quân Pagasus thiệt hại về
phía đồng minh 41 Bộ Binh Mỹ, 51 TQLC Mỹ và 33 quân nhân VNCH bị tử
trận và 667 M ỹ 187 Việt bị thương, đổi lại 1304 quân CSBV bỏ xác
tại trận và 23 tù binh (chưa kể số thiệt hại v́ pháo đài B52 và Pháo
binh tác xạ)
Thiếu Tướng Dư Quốc Đống Tư Lệnh Sư Đoàn
Nhảy Dù đang gắn huy chương cho
Trung Tá Nguyễn Khoa Nam, Chiến Đ̣an Trưởng LĐ3ND
Cuộc hành quân Lam Sơn 207 A chính thức kết thúc
vào ngày 15/4/1968 Lữ Đoàn 3ND được đưa về Huế để tham dự một cuộc
hành quân mới chiếm lại thung lủng A Shau.
Sau này, có người nhận xét cho rằng tướng Giáp muốn dụ Hoa Kỳ dồn
quân vào Khe Sanh để quân Cộng Sản có thể rănh tay tấn công các vùng
khác. Người khác lại cho rằng ông Giáp bao vây Khe Sanh với lư do
muốn tạo dựng một chiến thắng như Điện Biên để buộc Hoa Kỳ phải
nhượng bộ. Trong khi đó, một số tài liệu chiến sử Hoa Kỳ lại nghĩ
rằng tướng Westmoreland đă "tương kế tựu kế." Ông mong Cộng quân sẽ
tập trung nhiều binh đoàn gần Khe Sanh để ông có thể dùng hỏa lực
pháo binh và phi cơ tiêu diệt.
Nhưng lịch sử đă đổi chiều không phải của Điện Biên Phủ 14 năm về trước. Năm 1968, Hoa Kỳ có đầy đủ phương tiện để pḥng thủ, yểm trợ, và tiếp tế Khe Sanh trong 77 ngày, hoặc lâu dài hơn nếu cần thiết. Phía bên kia, Cộng quân đă không chiếm nổi Khe Sanh, mà lại c̣n bị thiệt mất từ 10 đến 13,000 bộ đội. Đó là chưa kể thiệt hại trên các phương diện khác như quân cụ, chiến thuật, cùng hàng ngàn thương binh.
Tài liệu tham khảo:
- Trận chiến Tết Mậu Thân 1968 của Phạm Văn Sơn trên trang nhà
History of the Viet NamWar.
- Chiến tranh Việt Nam toàn tập của Tiến Sĩ Nguyẽn Đức Phương, nxb
Làng Văn 2001.
- Một Cánh Hoa Dù của Trương Dưởng. Tác giả xb 1998
- The War in The Northern Provinces 1966-1968 by Lieutenant General
Willard Pearson Dept of The Army Washington, D.C., 1975
- Phỏng vấn trực tiếp các chiến hữu trong SĐND.
- Khe Sanh 77 ngày trong năm 1968 của Phạm Cường Lể trên trang nhà
History of the VN War.
Đại Úy Vơ Trung Tín
Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
Đại Úy Nguyễn Hữu Viên
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-897-1435
Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây
biểu chương...
Lễ nghi
quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu,
huy hiệu... QLVNCH
Tiến
tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về
Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6
Gươm lạc giữa rừng hoa
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ
Sắc lệnh về
quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ
quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !
140
chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại
VN
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Tổng Thống Abraham Lincoln
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo
vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng
Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc
Luận về Tậm Lư
Chính Trị
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?
Một tài liệu 42 năm cũ
Dựng
Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi
Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974
Những điều nên biết về
Medicare 2016
Remember C-Rations?
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Tướng lănh VNCH
Bài phỏng
vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột
tháng 3, 1975
Đại Tá
Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần
Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975
tại Sài G̣n
Chuyện của một
ngôi trường
Luận về khoa bảng
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền
Phiếm luận
về mộng mơ qua văn chương và triết học
Chính sách
thuế khóa
Cách viết hoa
trong tiếng Việt
Đoàn
thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa
ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa
Việt Nam
Tiếng Việt ba miền -
Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?
TT
Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?
HCM đă âm mưu
bán nước từ năm 1924
Vài nét
về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải
chiến Midway
Adm
Chester Nimitz
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc
hành quân Lam Sơn 719
Những trận đánh đi vào quân sử
Nguyên nhân xụp
đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng
Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh
chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh
Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng
Nguyên do chính khiến VN bất tử
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và
huyền thoại
Vài nét hoạt
động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến
VNCH
Trung
Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72,
TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng
12 năm 1965
Nhảy Dù và
Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử:
Mậu thân Huế
Trận KAMPONG
TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v
Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn
Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ
QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát
Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân
VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc
Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về
thành nội Tết Mậu Thân
Một ngày với Đô Đốc
Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh
anh dũng và trung thành với Tổ Quốc
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần -
Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối
tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng
Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết
hiên ngang
Chuyến công tác cuối
cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá
BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người
chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà
Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh
một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của
Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn
thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị
bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng
sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi
trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường
BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh
hùng
Lịch sử h́nh thành
QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận
Vong
Người lính
VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người
lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù
bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh
chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính
VNCH
Sự thật về cái chết
của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số
quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những
chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn
Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1,
Phần 2,
Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ
1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn
Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên
Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
QLVNCH
Những người trở về
với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam,
Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ
lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức -
1974
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc
Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù
CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước
Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội
chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối
của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc
Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành
Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú
Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di
sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền
ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc
Kinh