Nguyễn Đ́nh Phúc
Sau 30 tháng 4, 1975, chủ quyền đất nước mất vào
tay Cộng Sản (Việt Cộng và CS Nga, Hoa), Chánh Quyền và Quân Lực
VNCH không c̣n nữa. Ngày nay dù phải xa quê hương, hoàn cảnh đổi
khác nhưng lư tưởng, chánh nghĩa người chiến sĩ một đời theo đuổi
vẫn c̣n đó, Tổ Quốc- Danh Dự - Trách Nhiệm vẫn c̣n đó, Quê Hương-
Dân Tộc vẫn c̣n đó. Con đường tranh đău hôm nay dù mang một h́nh
thái khác xưa nhưng mục tiêu vẫn nhằm tranh đău cho nền Độc Lập, Dân
Chủ, Tự Do thực sự, cho Hạnh Phúc, Thịnh Vượng muôn đời của toàn
dân. Một điều khẳng định: chúng ta không bao giờ quên được Tổ Quốc,
Đồng Bào v́ khi vừa nghe tin những quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa hay
mới đây Ải Bắc, Bản Giốc... vừa bị ‘bạo quyền cắt đất cầu phong’ hay
những tài nguyên thiên nhiên bị cướp đoạt, dâng hiến... tức khắc tim
ta nghẹn ngào, muốn đứng vùng lên... Điều này chứng tỏ chúng ta vẫn
măi măi là chiến sĩ VNCH.
Ngày mai, khi công cuộc tranh đău dành lại được chủ quyền từ tay CS
cho toàn dân, nền đệ tam Cộng Ḥa được thiết lập, Quân Lực VNCH được
tái tổ chức th́ câu chuyện về quân phục, cấp hiệu, phù hiệu... hôm
nay chẳng là câu chuyện phiếm, cũng một trong trăm ngàn tài liệu cần
đến.
Từ hơn hai ngàn năm trước, Đức Khổng Tử đă nói đến tầm quan trọng
của nhung phục, đại ư Ngài dậy: ‘người tráng sĩ tự ḿnh chưa đủ oai
dũng khi lên yên chiến mă nếu như thiếu nhung y, giáp trụ, thiếu cờ
hiệu, cờ lệnh...’ Bài viết xin được các chiến hữu, độc giả bổ sung,
tha thứ v́ hầu như hoàn toàn dựa vào trí nhớ giới hạn, nhận xét cá
nhân. Chỉ xin được xem như câu chuyện ‘lính kể lính nghe’ trong
những ngày bị cấm trại, cấm quân hay phép cuối tuần bị ‘cháy’.
Ngay khi Hiệp Ước Vịnh Hạ Long (ngày 5 tháng 6, 1948) được kư kết
giữa đại diện chánh phủ Pháp và Việt Nam dưới sự chứng kiến của Quốc
Trưởng Bảo Đại, chánh quyền Quốc Gia ra đời. Nước Việt Nam được Độc
Lập, Thống Nhất nhưng vẫn c̣n nằm trong Liên Hiệp Pháp (LHP). Quân
Đội Quốc Gia ngay sau đó được thành lập nhưng thực tế mới chỉ là một
lực lượng quân sự, bán quân sự chiến đấu chống Việt Minh (CS) bên
cạnh quân đội LHP. Cho đến những năm đầu thập niên 50, Bộ Tổng Tham
Mưu (TTM) Quân Đội Quốc Gia vẫn c̣n nhiều Sĩ Quan (SQ) Pháp làm
việc, nhiều đơn vị do SQ, HSQ Pháp chỉ huy, quyền chỉ huy tối cao
c̣n thuộc Bộ Tổng Tư Lệnh Pháp và những Secteur, Sous-secteur (tiểu
khu, chi khu chiến) của Pháp tại địa phương. Sau đó một số khu vực
mới lần lần được trao trách nhiệm lại cho Quân Đội Quốc Gia (QĐQG)
như những thí điểm. Thời gian đó, tất cả văn thư, danh xưng c̣n dùng
Pháp ngữ từ État Major Général cho đến S.P (secteur postal) thay v́
Bộ TTM hay K.B.C. Trong hoàn cảnh như vậy nên quân phục, cấp hiệu,
phù hiệu... tương tợ như quân đi Pháp. Trên toàn lănh thổ có 4 quân
khu: Đệ Nhất Quân Khu (miền Nam), Đệ Nhị (miền Trung), Đệ Tam (miền
Bắc), Đệ Tứ (Hoàng Triều Cương Thổ/ Sơn Cước). Lực lượng chính yếu
gồm các tiểu đoàn B.V.N (Bataillon Vietnamien), tiểu đoàn Nhẩy Dù...
Bên cạnh, chánh quyền địa phương cấp Phần, đứng đầu bởi vị Thủ Hiến
có tư cách pháp nhân riêng, ngân sách riêng, quân đi riêng như Bảo
Chính Đoàn (Bắc), Việt Binh Đoàn (Trung), Vệ Binh Hàng Tỉnh (Nam),
Vệ Binh Sơn Cước, Ngự Lâm Quân, và những lực lượng giáo phái Cao
Đài, Ḥa Hảo, B́nh Xuyên...
Quân Phục
Quân phục gồm lễ phục, quân phục làm việc, ra phố và chiến phục. Vào
những năm đầu, quân phục chưa qui củ, luộm thuộm v́ ngay cả quân
phục quân đội Pháp cũng không hơn. Nhiều quân nhân mặc chemise vàng,
quần trận (loại có túi rộng ngang đầu gối). Đến khi QĐQG chính thức
thành lập (giữa 1950, thời Thủ Tướng Trần Văn Hữu và Tổng Trưởng
Quốc Pḥng Phan Huy Quát), quân phục mới được qui định tề chỉnh hơn.
Lễ phục SQ ngoài mầu trắng, có mầu xanh đậm (mùa lạnh), mũ
casquette. Lễ phục mầu nào th́ phần trên mũ phù hợp theo (trắng,
xanh, không kể mầu đỏ dành cho Hiến Binh). Quân phục làm việc tại
các pḥng sở, ra khỏi doanh trại (số 2) ‘gabardine’ hay ka-ki,
‘béret’ cùng màu vàng xám (trừ Nhẩy Dù đỏ, Thiết Giáp đen). Khi hành
quân đều mặc đồ trận (treillis) mầu xanh ‘olive’, riêng Nhẩy Dù thêm
áo ‘sô’ (saut) trông rất oai hùng.
Tới thời đệ nhất Cộng Ḥa đại lễ phục SQ rất chỉnh tề, áo trắng dài,
cổ cao, cúc (nút) vàng, thắt lưng đen, ‘casquette’ trắng, quần sậm,
có sọc như các quân trường, có cả dạ phục. C̣n tiểu lễ, quân phục số
2 mầu vàng, chiến phục gọn ghẽ hơn xưa. Nhớ lại sau hiệp định đ́nh
chiến 54, quân nhân ra phố mặc đồ tác chiến sẽ bị tuần cảnh bắt giữ
ngay. Nhưng thời gian sau, chiến tranh trở lại quân phục vàng lần
lần vắng bóng ngoại trừ SV hay khóa sinh quân trường. Chuyện trang
phục của chúng ta ngày trước có nhiều điều rất trái mắt do sự tùy
tiện nhất là từ cấp tướng lănh. Một đại tướng v́ gốc Dù nên mặc đại
lễ thay v́ đi casquette’, ông vẫn ‘sính’ đi ‘beret’ đỏ. Một vị lănh
đạo quốc gia, v́ gốc phi công ‘anh dũng muôn đời’ nên cứ diện phi
bào với hai sao để cho tướng 3, 4 sao phải nghiêm chào. Thêm một
tướng biệt phái sang hành chánh thường mặc đồng phục bốn túi kiểu
cán bộ, gặp tổng thống hay thủ tướng lại móc ngay 3 sao trong túi
đeo lên ve áo thoải mái cứ như móc hộp quẹt zippo. Có một đô đốc,
quần lại thích túm (gom) ống trông không giống một ai trong quân
chủng... Vẽ lại vài ba h́nh ảnh mục đích cho bài viết thêm vui thôi
v́ thời phong kiến đă có câu ‘luật không áp dụng với người tôn’ nên
nhằm nḥ ǵ chuyện nhỏ, các vị tùy tiện có chi đâu.
Riêng về quân phục, chúng ta phải học ở quân đội HK: ‘ngoài qui
định, từ thống tướng tới binh sĩ, không ai đeo thừa, mang thiếu một
qui định ǵ so với đồng ngũ, đồng cấp’. Sự đồng nhất triệt để tới cả
mức gọng kính cận, đồng hồ đeo tay cũng không khác nhau. Chắc các
chiến hữu c̣n nhớ chuyện một vị tướng HK, ông đă đeo một huy chương
trên đó có thêm ngôi sao nhỏ bị người chê sai, người bênh vực đúng
nhưng ông vẫn tự sát v́ sự kiện này. Tất nhiên qui tắc nào cũng có
ngoại lệ hay linh động v́ mục đích chung nào đó. Chẳng hạn trên
chiến phục ngay cấp hiệu cũng phải mang cách thức ngụy trang, nhưng
trong dịp quốc khánh, kỷ niệm quân lực... các đơn vị mặc chiến phục
diễn hành vẫn đeo đầy đủ cấp hiệu, dây biểu chương, huy chương
tḥng... để thêm oai dũng khác ngày thường. Khi mới thành lập, chúng
ta c̣n đi giầy đinh (có đinh ở đưới) gọi giầy ‘săng đá’ (do chữ Pháp
soldat - quân nhân), bước đi gây tiếng cồm cộp. Những toán hầu kỳ,
chào kính c̣n mang ‘ghệt’ (guêtre) trắng bằng da hay vải bố để túm
ống quần lại cho gọn, đẹp. Hành quân dùng giầy bố. Sau này dùng giầy
‘sô’ (botte de saut) cột dây, có nhiều loại khác nhau. Những quân
nhân nhân nào diện c̣n cắt ống giầy gắn ‘fermeture’, nhưng khi đổi
giầy có thể bị phạt v́ làm hư quân trang. Giống như một Quận kiêm
Chi Khu Trưởng v́ nhu cầu an ninh đă sơn xe Jeep mầu dân sự, khi đổi
xe đă phải phạt và đền tiền sơn lại như mầu nguyên thủy. Những năm
sau này, thêm nhiều quân binh chủng được thành lập nên ngoài chiến
phục của bộ binh, có nhiều kiểu và mầu sắc đặc thù riêng rất oai
hùng như phi bào (KQ), quân phục trắng (HQ), Dù, TQLC, BDQ... Đây
cũng là một trong những nét khác biệt của từng mầu cờ sắc áo. Sau 75
trong tù cải tạo, anh em chúng ta nhiều khi vẫn được mặc hoặc chính
VC phát quân phục của chúng ta nhưng bắt phá bỏ túi, thay đổi kiểu
nhưng tuyệt nhiên không cho mặc hay phát các đồ bông. Sau này mới
hiểu chúng vẫn rất ‘rét’, bị ám ảnh khi thấy h́nh bóng các thiên
thần mũ đỏ, cọp biển... chẳng khác nào theo Bảo Ninh trong Nỗi Buồn
Chiến Tranh: ‘nhiều cán binh sống sót về lại miền Bắc không dám đứng
dưới quạt trần v́ c̣n ngỡ cánh quạt trực thăng săn đuổi.’
Ngoài ra mũ của chúng ta cũng thay đổi rất nhiều. Xưa kia, mũ
‘béret’ kaki vải rất rộng (miền Bắc gọi mũ bánh đa), hoặc đen, phía
gáy có tua vàng đỏ. Mũ ‘calot’ xám, đen, trên đỉnh xẻ đôi có hai mầu
xanh đỏ lớn hơn KQ. Mùa nắng đi ‘chapeau de brousse’ mũ vải cứng
rộng vành (hơi giống quân nhân Úc), một bên vành mũ bấm gọn lên để
khỏi vướng khi vác súng. Sang thời cộng ḥa, ‘béret’ xám đi theo
quân phục số 2. Trên mũ có huy hiệu tṛn khác mầu tùy mỗi hàng binh
sĩ, HSQ,SQ. Sau đảo chính 63, thường mặc ‘tréllis’ nên mũ vải lúc
đầu cứng (như képi), sau như ‘casquette’ có múi, nhiều Tướng Tá ‘làm
dáng’ tay mũ cũng gắn nhành dương liễu như ‘casquette’ đại lễ. Mũ
sắt hai lớp dù nặng nhưng rất an toàn, có lưới gài lá ngụy trang
nhưng lại dễ bị vướng, móc. Bao bằng vải rằn ri hay vẽ lên như BĐQ
cũng tiện. Bảng tên được gắn liền trên chiến phục hay đeo bên nắp
túi áo phải quân phục số 2, không kể cấp hiệu, phù hiệu được mang
đầy đủ trên quân phục như sẽ đề cập phần sau. Chỉ riêng việc này đă
làm mất tính bí mật quân sự. Địch dễ dàng nhận diện hay trên xác tử
sĩ để lại chiến trường đủ t́nh trạng quân vụ (đơn vị, cấp bậc...)
ngoài những cáo phó, chia buồn, góp vui đầy trên báo chí. Ngoài cổng
doanh trại ghi đủ hệ thống thống thuộc, đơn vị đồn trú. Trong khi VC
đến khi chiếm trọn miền Nam, trước cổng cũng chỉ có tấm bảng ‘doanh
trại quân đội nhân dân’. Như vậy bài học vỡ ḷng ‘che dấu, ẩn nấp’
để ‘ta thấy địch, địch không thấy ta’ trở thành hài hước.
Cấp Hiệu
* Gắn huy chương trên hiệu kỳ đơn vị.
Cấp hiệu là qui ước có h́nh thức tuy nhỏ, đơn giản nhưng biểu lộ
quyền chỉ huy tuyệt đối với thuộc cấp. ‘Huynh đệ chi binh’ là mối
tương quan trong đời quân ngũ, nhưng trong hệ thống quân giai, chỉ
khác một vạch, mầu sắc bạc vàng đủ cho thuộc cấp phải nghiêm cứng
người, đủ để tuân lệnh nhẩy vào lửa đạn.
Từ khi thành lập quân đội QG, cấp hiệu được gọi
bằng ‘lon’ (galon trong Pháp ngữ) hoàn toàn như quân đội Pháp cho
tới thời CH được thay thế hơi theo kiểu Mỹ. Nhiều buổi tổ chức đốt
bỏ cấp hiệu cũ, cùng thời với việc đốt bỏ những bộ bài, bàn đèn á
phiện, sách báo khiêu dâm... Đây là sự kiện thiếu tế nhị trong chánh
sách ngoại giao tiếp theo việc đoạn giao với Pháp. Trước đó, hoàn
toàn như Pháp nên cấp hiệu đều dùng vạch vàng thẳng trên ‘lon’ SQ,
ngoại trừ thiết giáp binh (kỵ binh) dùng vạch trắng. Từ ‘adjudant’
(ông ‘ách’) đều vạch thẳng ngân tuyến, kim tuyến có sợi chỉ đỏ chạy
dọc, ‘aspirant’ (chuẩn úy) 2 sợi chỉ đen ngang, lên tới hết cấp tá
vẫn dùng vạch. Tiếng Việt, lúc đó chúng ta thường gọi quan Một quan
Hai... Tới quan Tư, vạch thứ tư cách xa để phân biệt từ cấp này là
SQ cao cấp (officier supérieur), dưới đó chỉ là SQ cấp thấp
(officier subalterne).Trên quan Tư có quan Năm khoanh trắng
(lieutenant colonel) với 5 vạch (3 vàng, 2 trắng) và quan Năm khoanh
vàng (colonel) 5 vạch đều vàng. Cấp Tướng mang sao (từ 2 sao trở
lên). HSQ và binh sĩ mang vạch h́nh chữ V ngược vàng, đỏ nơi cánh
tay.
Người viết không rơ các danh xưng Tá, Úy do ai trong Bộ QP hay TTM
đặt ra, riêng danh xưng các cấp Hạ Sĩ, Trung Sĩ, Thượng Sĩ xuất xứ
từ lực lượng Bảo Chính Đoàn (Bắc Việt) đặt ra trước cùng lúc với các
Hoa Mai của cấp SQ Bảo Chính Đoàn trong khi SQ chánh qui vẫn c̣n đeo
‘lon’ hoàn toàn như SQ Pháp. Xin được mở dấu ngoặc nói thêm về cấp
hiệu của BCĐ/BV. Bảo Chính Đoàn là lực lượng quân sự cấp Phần, trực
thuc Thủ Hiến. Ngay khi thành lập cấp chỉ huy hoàn toàn Việt Nam,
không có một SQ hay HSQ Pháp nào. Tư Lệnh Phó BCĐ (có lúc gọi Phó
Giám Đốc) là Đốc Quân Đoàn Chí Khoan (sau này là Đại Tá, Phụ Tá Tổng
Trưởng Phát Triển Sắc Tộc). Ông Đoàn Chí Khoan có thể coi như người
soạn thảo sơ đồ tổ chức BCĐ, tất nhiên có phần quân phục, cấp hiệu,
phù hiệu. Có thể ông được ảnh hưởng tổ chức quân đội Trung Hoa (QDĐ)
và tổ chức hành chánh nên dùng các danh xưng Đốc Quân và Phó Đốc
Quân cho SQ cấp Tá và Úy. Mỗi cấp có ba hạng: Phó Đốc Quân hạng ba,
hạng hai và hạng nhất. (tương đương Thiếu, Trung, Đại Úy), và Đốc
Quân cũng có 3 hạng. Trên hết là Chánh Đốc Quân (như cấp Tướng,
nhưng chưa có ai được phong). Tư Lệnh BCĐ đầu tiên là Đốc Quân hạng
2 Hoàng Văn Tỷ (sau này là một trong 6 đại tá đầu tiên của QĐQG), Tư
Lệnh Phó là Đốc Quân hạng 3 Đoàn Chí Khoan, Giám Đốc trường SQ/BCĐ
là Đốc Quân hạng 3 Linh Quang Viên (sau thăng Trung Tướng QLVNCH).
Đốc Quân và Phó Đốc Quân đều đeo hoa Mai bạc (hạng 3 một bông...
hạng nhất 3 bông) nằm trên vạch ngân tuyến. Cấp Đốc Quân thêm hai
sợi ngân tuyến chạy kèm song song hai bên. Kể cả hàng binh (Bảo
Chính Viên) trở lên đều đeo trên vai, nhưng là sợi ngân tuyến, theo
hinh chữ V. Điểm đặc biệt là danh xưng Hạ Sĩ, Trung Sĩ và Thượng Sĩ
được đặt ngay thời đó và sau này vẫn c̣n được dùng. Riêng danh xưng
Đốc Quân, Phó Đốc Quân không được duy tŕ v́ không thuận tiện (nếu
chỉ gọi Đốc Quân sẽ không rơ cấp bậc, gọi thêm hạng lại quá nhiêu
khê).
Nhân đây, xin nói về truyền thống, ư nghĩa cấp hiệu. Từ xưa có 3
quân binh chủng đeo cấp hiệu theo truyền thống quốc tế v́ thường có
tầm hoạt ngoài lănh thổ, phải theo nhiều luật lệ hàng hải, hàng
không gồm hải quân, không quân, thiết giáp binh và lực lượng cảnh
sát. Không hiểu lư do nào, khi qui định lại cấp hiệu theo kiểu Mỹ
chỉ riêng hải quân được giữ lại. Trái lại Cảnh Sát đổi cấp hiệu theo
như quân đội. Trước đây Ngành CS đă có tổ chức qui củ với những
ngạch trật như Thanh Tra, Quận Trưởng, Biên Tập Viên, Chánh Phó Thẩm
Sát Viên... đến khi Tướng Phong sang chỉ huy, mang theo rất nhiều SQ
và có lẽ để tiện việc sắp đặt chức vụ, đă dùng theo cấp bực QLVNCH,
bỏ qui chế, cấp hiệu cũ, không quan tâm đến thời gian huấn luyện,
thâm niên công vụ. Một Biên Tập Viên cùng tŕnh độ văn hóa và thời
gian thụ huấn như một chuẩn úy bộ binh nhưng khi tốt nghiệp mang
ngay cấp Đại Úy CSQG. Ngoài ra dù mang cấp bậc như quân đội, CSQG
cũng không có thẩm quyền ǵ với quân nhân lại tạo cho dư luận, CS dễ
chỉ trích ‘quân phiệt’, ‘cảnh sát trị’ trong khi chính bộ máy ḱm
kẹp, phá hoại của VC có tới cấp Bộ Công An.
Sau năm 1955, trước khi cấp hiệu các lực lượng quân sự địa phương
chính quy hóa, Bảo An Đoàn mang cấp hiệu riêng như BCĐ Bắc Việt
trước kia. V́ thiếu thống nhất nên dễ ngộ nhận nhất là khi xuất
ngoại. Thiếu Úy Bảo An đeo bông hoa thị bạc 6 cánh, trông vừa giống
hoa mai, vừa giống sao, lại thêm hai nhánh lúa ôm hai bên trông như
hai nhánh thiên tuế. Khi du học, du hành quan sát sĩ quan đồng minh
kể cả cấp Tá cũng như huấn luyện viên, một điều ‘Yes, Sir’ hai điều
cũng ‘Yes, General’ với Thiếu Úy và c̣n chào kính ‘túi bụi’ v́ nghĩ
thầm ít ǵ cũng Chuẩn... Tướng.
Trở lại cấp hiệu SQ thời đệ nhất cộng ḥa, cấp Tá mang mai bạc lớn
hơn, Úy mai vàng, nhưng từ xa khó nhận ra, nên sau này thêm hàng lá
thiên tuế kèm theo mai bạc cấp Tá. Cũng từ thời Tướng Nguyễn Khánh,
lập thêm cấp Chuẩn Tướng (một sao) v́ muốn cho Hội Đồng Tướng Lănh
đông hơn, nhiều hậu thuẫn, tạo thành lớp ‘tướng trẻ’ dễ dàng khống
chế lớp ‘tướng không trẻ’ hoặc dễ áp lực cho đi ‘đại sứ’. Đó là thời
‘loạn tướng’. Đề cập đến ‘loạn tướng’ thiết nghĩ phải nói đến qui
chế Tướng Lănh một cách đúng truyền thống quốc tế. Khi đă bước lên
hàng Tướng, cấp bậc có tính cách trọn đời ngay cả khi đă bỏ binh
quyền, đời quân ngũ. V́ vậy không có thể gọi là Cựu Trung Tướng, Cựu
Thiếu Tướng... mà là Trung Tướng NVT, cựu Tổng Thống VNCH, Thiếu
Tướng NCK, cựu Phó Tổng Thống.... Hoặc khi họ đáo hạn tuổi giải ngũ,
dời bỏ binh quyền cũng vẫn dùng cấp bậc Tướng Lănh, chỉ thêm chữ Hồi
Hưu như General Westmoreland (Ret). Quân đi vẫn phải đăi ngộ Tướng
Lănh với đầy đủ qui chế, nghi lễ: lương bổng, quân phục, cấp hiệu,
tướng kỳ, tùy viên, hộ tống, chào kính... ngoại trừ binh quyền.
Ngoài ra, tưởng cũng nên nhắc đến một số cấp hiệu, phù hiệu của các
lực lượng đồng minh tham chiến tại VN trước kia. Ngoài những ǵ theo
truyền thống quốc tế như mỏ neo với hải quân, cánh bay không quân,
chữ thập quân y... có những đặc thù riêng như khối Liên Hiệp Anh
(Úc, Tân Tây Lan...) với vương miện (Crown), Thái Lan trọng bảo tháp
(Phật), dành cho hàng Tướng, sao cho cấp Tá, Úy.
Nhiều người khen quân quân phục HK đẹp, qui củ nhưng cấp hiệu không
ư nghĩa. Thật ra, HK lấy biểu hiệu từ thấp lên cao: cấp Thiếu và
Trung Úy đeo vạch vàng, trắng và Đại Úy 2 vạch trắng là kim loại c̣n
nằm sâu dưới đất. Lên cấp Tá trên cao hơn với lá vàng, trắng. Đại Tá
đeo h́nh chim đại bàng, tung cánh trời cao, đầu đàn... (thường dùng
danh hiệu đại bàng). Ngôi sao sáng hàng Tướng Lănh mang biểu hiệu
cao tột đỉnh, dẫn đạo, chỉ huy.
Ngược lại thời gian mang cấp hiệu theo kiểu Pháp kể cả lúc sau này,
cấp hiệu đeo trong đại lễ phải đầy đủ, tiểu lễ và thường ngày đeo
giản lược trên vai áo. Hàng Trung Sĩ trở xuống đeo hinh chữ V ngược
nơi tay áo. Có tài liệu cho đó là tượng trưng cấp chỉ huy gánh vác
trọng trách (SQ, HSQ cao cấp), c̣n hàng HSQ cấp thấp tuy chỉ huy
nhưng thẩm quyền nhỏ hẹp. Cấp hiệu thời đó không đeo trên ve áo như
sau này, trái lại quân đi Pháp c̣n qui định những tướng lănh cao cấp
lại được phong thêm các cấp hiệu binh nhất, hạ sĩ, trung sĩ danh dự
mang trên ve áo hay tay áo. Như Đại tướng De Lattre, được đeo thêm
cấp hạ sĩ nhất danh dự, Trung tướng Cogny thêm cấp hạ sĩ. Đây là qui
định chính thức như chức Huyện, Phủ hàm thời trước, không như cách
vui chơi khi có người gọi một ca sĩ là hạ sĩ danh dự. Chúng ta có
một danh từ chỉ chức vụ rất đặc thù là chức Tư Lệnh cho cấp chỉ huy
các đại đơn vị (commandant en chef/ commander-in-chief) thay v́ Chỉ
Huy Trưởng. Nguyên nghĩa ‘tư lệnh’ nói lên sự toàn quyền ban phát
lệnh thay v́ chỉ chuyển lệnh từ cấp trên xuống như cấp chỉ huy
trưởng.
Huy Hiệu, Huy Chương
Huy hiệu, phù hiệu mang trên quân phục chỉ rơ đơn
vị trực thuộc. Nhiều khi c̣n dùng thêm khăn quàng trong các buổi lễ
để rực rỡ cho mầu cờ sắc áo, hoặc các ‘nơ’ màu để dễ nhận bạn. Thời
phôi thai, quân đội mới có đến cấp tiểu đoàn, nên phù hiệu đeo dưới
nắp túi ngực phải, bằng kim loại chế tạo từ Pháp. Ngoài ra c̣n được
làm nhỏ để gắn trên bút nịt, vật dụng tùy thân (hộp quẹt, hộp
thuốc...). Các quân trường Vơ Khoa Thủ Đức, Liên Quân Đà Lạt... cũng
có phù hiệu riêng, nhiều khi đeo ngay trên cầu vai (épaulette). Sau
này khi thành lập được các đại đơn vị, binh chủng... phù hiệu bằng
vải đeo cánh tay trái trên cao, đằng trước ngực dành đeo phù hiệu
đơn vị nhỏ. Trên quân phục, chúng ta c̣n đeo thêm các bằng chuyên
môn... như bằng Rừng Núi Śnh Lầy, bằng Dù, cánh Bay...
Quân đội có nhiều h́nh thức tuyên dương, ban thưởng cho toàn đơn vị,
cá nhân như các dây biểu chương, huy chương. Trước kia, chúng ta chỉ
có Croix de guerre, Médaille d’honneur... của Pháp, nhiều loại được
lănh phụ cấp hàng tam-cá-nguyệt. Sang thời chính thể QG, Quốc Trưởng
ban thưởng Bảo Quốc Huân Chương là huy chương cao trọng nhất với năm
hạng, trên mặt Bảo Quốc chạm nổi hàng chữ Tổ Quốc Tri Ân. Thể thức
cấp thưởng rất khó khăn đ̣i hỏi những chiến công hiển hách, thành
tích lớn lao đối với tổ quốc, dân tộc. Nghi thức trao gắn rất long
trọng, quân nhạc cử điệp khúc quốc thiều, người được ân thưởng tay
nâng huân chương để nguyên thủ quốc gia chào kính. Nếu phạm trọng
tội, trước khi truy tố phải có sắc lệnh thu hồi. Nếu khinh tội có
thể được miễn tố hoặc giảm khinh. Đối với hạng nhất, nếu tôi nhớ
không lầm chỉ có 3 người sinh thời được ban thưởng là Bảo Long,
Hoàng Thái Tử kiêm Tư Lệnh danh dự Ngự Lâm Quân. Kế là Đại Tướng De
Lattre, Cao Ủy kiêm Tổng Tư Lệnh quân đi LHP tại Đông Dương, nhờ
chiến thắng Vĩnh Phúc Yên 1951. Sau này Thống Tướng Lê Văn Tỵ khi
gần mất mới được phong Thống Tướng và ân thưởng đệ nhất đẳng. Đại
Tướng Đỗ Cao Trí chỉ được truy thăng Đại Tướng và truy tặng đệ nhất
đẳng sau khi tử trận. Anh Dũng Bội Tinh, chạm chữ Quốc Gia Lao Tường
với nhành dương liễu và sao vàng, bạc, đồng do sự khác biệt giữa SQ,
HSQ, BS về chiến công và phạm vi tuyên dương trước quân đội hay chỉ
trước cấp Lữ Đoàn, Sư Đoàn. Ngoài ra, sau này cùng với sự lớn mạnh
của quân đội, chiến trận gia tăng rất nhiều huy chương thuộc các
quân binh chủng được ban thưởng. Quân Công, Quân Phong, Quân Vụ Bội
Tinh, Lục Quân Huân Chương, Hải Vụ, Phi Vụ, Chiến Thương... chưa kể
huy chương của nhiều quốc gia, quân lực đồng minh cũng trao tặng.
Riêng về dây biểu chương có ba hạng mang tên mầu:
Anh Dũng, Quân Công, Bảo Quốc và trên hết là dây biểu chương mầu Tam
Hợp. Để được tưởng thưởng mầu Tam Hợp đ̣i hỏi toàn thể đại đơn vị
phải lập chiến công và ít nhất phải được tuyên dương công trạng cấp
quân đội từ 3 lần trở lên.
Huy chương khi được ban thưởng, ngoài văn thư có một bằng treo,
không kể huy chương (tḥng, ngắn). Khi mang huy chương cũng phải
tuân theo các cách thức qui định. Huy chương cao hơn phải đeo từ
trong phía ngực trái ra ngoài, hàng trên xuống dưới. Riêng Bảo Quốc
Huân Chương, đệ ngũ và tứ đẳng dù thấp nhất trong Bảo Quốc nhưng vẫn
phải xếp trên cùng, đệ tam đeo dây ṿng qua cổ, đệ nhị một bên cạnh
sườn và đệ nhất vắt ngang vai. Trong tiểu lễ, huy chương mang dưới
dạng đơn giản (chỉ có phần cuống). Với dạ phục mang huy chương tḥng
nhưng thu nhỏ. Các dây biểu chương cũng thu lại bằng như một huy
chương ngắn, đóng khung vàng, đeo riêng trên cùng. Ngoài ra trên
Quân Kỳ các quân, binh chủng, đại đơn vị, cũng sẽ gắn các dây biểu
chương và huy chương đă được ban thưởng. Với huy chương của các quốc
gia đồng minh, phải có sự chấp thuận trước hoặc phải được hợp thức,
quân nhân đương sự mới được mang.
Các cấp hiệu, huy hiệu, phù hiệu... v́ không được tuyển chọn kỹ
lưỡng nên thường hay thay đổi, gây tốn kém cho quân nhân, chỉ có lợi
cho các nhà sản xuất, buôn bán như Phước Hùng, An Thành...
Nghi Thức Chào Kính
* Tổng Thống kiêm Tổng Tư Lệnh chào Quốc, Quân
Kỳ (Quân phục TQLC, dây Biểu Chương, chào súng kiểu mới).
* Nghênh đón Tổng Thống kiêm Tổng Tư Lệnh (đệ I Cộng Ḥa) do Bộ
Trưởng Phụ Tá Quốc Pḥng, Tướng TTMT, Tướng Chỉ Huy buổi lễ.
Nhập ngũ bài học đầu tiên là cấp hiệu và chào kính. Có nhiều cách
thức chào kính như: chào tay, chào súng, gươm và nhiều cách khác tùy
điều kiện, hoàn cảnh và cũng thay đổi theo thời gian. Theo một số
tài liệu, chào tay phát xuất từ xa xưa ở Tây phương. Khi gặp Vua
Chúa, quan quyền thần dân, thuộc hạ phải dơ tay phải lên che mắt để
không được thấy, cùng bày tỏ cung kính và tay không vơ khí. Cách
thức này chẳng khác sự phủ phục trước Thiên Tử ở Đông phương. Đến
giữa thập niên 50, số SQ cũng c̣n rất ít. Ngay tại Bộ TTM, một thiếu
úy ra vào cổng chính, lính gác đă phải đứng nghiêm, từ trung úy phải
chào súng. Nếu nhiều như sau này, chắc binh sĩ không đủ thời gian
đem súng xuống. Tại các đơn vị, từ cấp đại đội trưởng (thiếu hoặc
trung úy) mỗi khi ra vào cổng, toán binh sĩ trực đă phải dàn chào
dưới sự chỉ huy của đốc canh.
Thời trước, binh sĩ chào súng theo kiểu Pháp:
súng dọc thân ḿnh phía phải, tay phải đỡ đế súng, bàn tay trái khép
để trước súng, ḷng bàn tay úp xuống mặt đất. Với tiểu liên, ṇng
súng quay sang trái. Riêng Bảo Chính Đoàn (BV), súng vác vai, tay
trái đặt ngang báng. Sau này cơ bản thao diễn theo kiểu Mỹ, súng để
trước, giữa thân ḿnh. Với Garant M1, biểu xích ngang thắt lưng, M16
loa che lửa ngang tầm mắt. Nếu mang vai, tay trái giữ dây súng, tay
phải chào tay. Diễn hành súng vác th́ bộ máy c̣ sát vai (ngược lại
kiểu xưa, ngửa lên trời), mặt ngước về thượng cấp. Trước kia khi gặp
cấp trên, nếu hai tay mang xách, hoặc ngồi xe hai bánh, thuộc cấp
chào kính bằng cách ‘hất mặt’ về cấp chỉ huy. Vào CLB, nhà ăn, chào
tay một lần, bỏ mũ, sau đó dù tŕnh diện cấp trên cũng chỉ đứng
nghiêm (không chào nữa).
Khi SQ vào pḥng, quân nhân cao cấp nhất thấy trước sẽ hô: ‘phắc’
hay ‘vào hàng phắc’ đối với từ cấp trung tá (đơn vị trưởng) trở lên.
Khi thượng cấp dời khỏi pḥng chỉ hô ‘nghiêm’. Khi hô ‘vào hàng
phắc’ đúng ra, ai phải về vị trí nấy (xạ thủ về trước súng, âm thoại
về trước máy...). Nhân đây xin kể lại chuyện một lần chào kiếm trong
lễ măn khóa của sinh viên Thủ Đức dưới sự chủ tọa của Quốc Trưởng
PKS. Như thông lệ, Thủ Khoa sau khi hô động lệnh chào súng cho toàn
Khóa xong, đằng sau quay rồi tuốt gươm chào. Bài bản đúng chỉ có
vậy. Không ngờ Quốc Trưởng chắc thấy buổi lễ diễn ra quá đẹp dưới
mắt Cụ, nhà lănh đạo gốc dân sự, chưa quen nghi lễ quân cách nên
bước ngay xuống, dơ tay bắt tay sinh viên thủ khoa. Phần này không
dự liệu nên anh thủ khoa hốt hoảng vă mồ hôi, nhất là nh́n tay Quốc
Trưởng đă đưa ra. Anh không biết xử trí ra sao, hấp tấp chuyền kiếm
sang tay trái, lấy tay phải đón bắt tay Quốc Trưởng, trong khi tay
trái cầm cây kiếm quờ quạng. Sau buổi lễ, anh được lănh ngay lệnh
phạt gia tăng từ ĐĐT lên tới Tướng CHT với lư do: ‘chào kính nguyên
thủ sai qui cách’ (phải tra kiếm vào bao rồi mới được bắt tay).
Chuyện sau không diễn ra một lần mà tái diễn hoặc
tùy tiện mỗi người. Nhiều SQ cao cấp khi được biệt phái sang chỉ huy
tỉnh, quận vào các dịp cúng tế tại đ́nh, miếu đă rất lúng túng hoặc
hành xử sai qui cách. Có ông đứng vái, có ông lại lên gối, xuống gối
trong bộ quân phục đầy huy chương, biểu chương...có ông tránh tham
dự để khỏi ngượng ngùng. Người viết thường được hỏi về thái độ thích
nghi và đă cố giải thích: ‘với quân nhân, cao trọng nhất là Tổ Quốc,
qua biểu tượng quốc kỳ, chúng ta cũng chỉ chào theo quân cách. Quân
đội không dự trù có trường hợp quân nhân giữ nhiệm vụ hành chánh
phải đến nơi tôn nghiêm. Các SQ tỉnh, quận trưởng, cho dù với tư
cách thượng khách, khi được mời lên chiêm bái, chỉ cần đứng thế
nghiêm là đủ (không bái lậy, khoanh tay, chắp tay v́ các động tác
này không hề có theo quân cách). Việc cử hành lễ hoàn toàn là quyền
hạn và trách nhiệm của ban hương chức. Nếu muốn bầy tỏ cung cách nào
khác hơn, hăy mặc thường hay quốc phục.’ Không biết ư kiến các niên
trưởng ra sao?
Chuyện về quân phục, cấp hiệu, huy hiệu... rất dài, phức tạp. Đủ
thẩm quyền, phương tiện phải là Bộ Quốc Pḥng, TTM hay toàn thể
chiến hữu chứ đâu phải do một anh lính ‘tốt đen’. Tuy vậy đă là lính
từng biết hô lớn câu ‘tan hàng! cố gắng!’ nên cuộc đời ‘cố gắng’ đă
quen, chẳng ngại ngần hay dở, đúng sai cứ miệt mài ngồi bên bàn máy.
Nh́n lại quân phục, cấp hiệu, phù hiệu hay nói rộng hơn chiến lược,
chiến thuật của ta suốt 25 năm ảnh hưởng Pháp rồi đến Hoa Kỳ. Điều
này sao tránh v́ chúng ta phải nhận viện trợ, yểm trợ của đồng minh
trong cuộc chiến tự vệ, sinh tồn.
Ngày mai, khi chủ quyền, đất nước về lại nhân dân qua đấu tranh th́
mọi điều lớn nhỏ hoàn toàn do ta. Chỉ riêng chuyện quân phục, cấp
hiệu, phù hiệu... chẳng theo kiểu Tây kiểu Mỹ mà do ḿnh chọn từ
chiến công, h́nh ảnh ngàn năm giữ nước. Nào cọc sắt Bạch Đằng, mũi
khoan Yết Kiêu (hải quân, người nhái), ngựa sắt Phù Đổng (thiết kỵ),
ḷ đúc Cao Thắng (quân cụ), nỏ thần An Dương Vương (pháo binh), Loa
thành (công binh), lá khô thấm mật Nguyễn Trăi (tâm lư chiến)... kể
sao cho hết. Người viết, một khinh binh VNCH, trong tư thế nghiêm
chào tay. Chào quốc kỳ tượng trưng cho Tổ Quốc, chào Quân kỳ, cấp
hiệu, phù hiệu, huy chương tượng trưng cho Quân Đội. Kính cẩn
nghiêng ḿnh trước anh linh anh hùng liệt sĩ, chiến hữu đă hy sinh.
Sau cùng, tay nâng bài viết trân trọng trao đến chiến hữu, độc giả.
Nguyễn Đ́nh Phúc
* Người viết chân thành cáo lỗi đă không có điều kiện để xin phép
tác giả những tấm h́nh in trong bài. Mong rằng với mục đích tôn vinh
tập thể quân đội, xin được thông cảm, miễn thứ.
Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây
biểu chương...
Lễ nghi
quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu,
huy hiệu... QLVNCH
Tiến
tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về
Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6
Gươm lạc giữa rừng hoa
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ
Sắc lệnh về
quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ
quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !
140
chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại
VN
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Tổng Thống Abraham Lincoln
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo
vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng
Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc
Luận về Tậm Lư
Chính Trị
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?
Một tài liệu 42 năm cũ
Dựng
Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi
Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974
Những điều nên biết về
Medicare 2016
Remember C-Rations?
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Tướng lănh VNCH
Bài phỏng
vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột
tháng 3, 1975
Đại Tá
Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần
Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975
tại Sài G̣n
Chuyện của một
ngôi trường
Luận về khoa bảng
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền
Phiếm luận
về mộng mơ qua văn chương và triết học
Chính sách
thuế khóa
Cách viết hoa
trong tiếng Việt
Đoàn
thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa
ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa
Việt Nam
Tiếng Việt ba miền -
Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?
TT
Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?
HCM đă âm mưu
bán nước từ năm 1924
Vài nét
về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải
chiến Midway
Adm
Chester Nimitz
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc
hành quân Lam Sơn 719
Những trận đánh đi vào quân sử
Nguyên nhân xụp
đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng
Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh
chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh
Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng
Nguyên do chính khiến VN bất tử
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và
huyền thoại
Vài nét hoạt
động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến
VNCH
Trung
Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72,
TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng
12 năm 1965
Nhảy Dù và
Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử:
Mậu thân Huế
Trận KAMPONG
TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v
Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn
Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ
QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát
Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân
VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc
Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về
thành nội Tết Mậu Thân
Một ngày với Đô Đốc
Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh
anh dũng và trung thành với Tổ Quốc
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần -
Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối
tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng
Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết
hiên ngang
Chuyến công tác cuối
cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá
BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người
chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà
Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh
một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của
Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn
thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị
bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng
sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi
trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường
BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh
hùng
Lịch sử h́nh thành
QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận
Vong
Người lính
VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người
lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù
bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh
chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính
VNCH
Sự thật về cái chết
của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số
quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những
chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn
Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1,
Phần 2,
Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ
1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn
Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên
Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
QLVNCH
Những người trở về
với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam,
Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ
lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức -
1974
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc
Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù
CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước
Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội
chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối
của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc
Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành
Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú
Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di
sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền
ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc
Kinh