Trung Tá Nguyễn Văn Vinh
VNCH đă giữ vững được cuộc sống tự do trong suốt 21 năm ngắn ngủi
nhưng đầy gian truân, máu và nước mắt, đầy sự hy sinh của biết bao
nhiêu người.
Trong số những sự hy sinh đó, phải nói tới sự hy sinh của người lính
Biệt Kích Dù hoạt động tại Bắc Việt. Số phận của họ rất bi thảm khi
bị kẹt tại Bắc Việt. Bảng tổng kết sơ khởi cho biết trong số những
Biệt Kích Dù được thả ra miền Bắc có 7 người đă bị CS tuyên án tử
h́nh và đă bị hành quyết, 9 người tử trận, 21 người chết trong các
trại tù khổ sai miền Bắc, 7 người chết sau khi được thả về, 2 người
mất tích khi thi hành nhiệm vụ, 11 người bị chỉ định phải định cư
tại các nông trường hay hợp tác xă miền Bắc. Đa số những người c̣n
lại đều bị tra tấn dă man và bị bắt lao động khổ sai trong những
trại tù khắc nghiệt nhất. Tại sao hầu hết các biệt kích thả xuống
miền Bắc đă bị CS bắt ?
Bài viết sau đây là của Trung Tá Nguyễn Văn
Vinh, người trực tiếp phụ trách các toán Biệt Kích Dù được thả xuống
Bắc Việt, sẽ cho chúng ta biết những nét đại cương về tổ chức các
đơn vị Biệt Kích, các hoạt động của họ và cách thức điều hành của cơ
quan t́nh báo Hoa Kỳ.
o O o
Vài nét về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Ít ai biết đến các tên P45, Sở Bắc hay Sở Khai Thác, tiền thân của
Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu.
Đó là những bí danh của một cơ quan t́nh báo chiến lược, được thành
lập từ cuối năm 1958, đặt trực thuộc Phủ Tổng Thống và nằm trong
mạng lưới chỉ huy của Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc
Biệt VNCH.
Cơ quan này được Hoa Kỳ yểm trợ cả về tài chánh lẫn các phương tiện
cần thiết để thực hiện cuộc chiến tranh không quy ước chống miền Bắc
CS.
Sau Hiệp định đ́nh chiến Geneva, vĩ tuyến 17 được
chọn làm vùng phi quân sự và sông Bến Hải là biên giới thiên nhiên,
ngăn cách 2 miền Nam Tự Do và Bắc CS. Quân đội viễn chinh Pháp, dưới
áp lực của Hoa Kỳ, đă phải kéo cờ tam tài xuống khỏi dinh Norodom,
nhường chỗ cho quốc kỳ VN tung bay tại dinh Độc lập vừa được đổi tên
và đổi chủ.
Để đáp lại, quân đội Pháp đă không nương tay, xóa sạch mạng lưới
t́nh báo mà họ đă khổ công gầy dựng trong nhiều năm tại miền Bắc.
Đây là một sự thiệt hại khá lớn cho ngành t́nh báo non trẻ của miền
Nam.
Trong khi đó, CS đă để lại tại miền Nam vô số cơ sở t́nh báo mà họ
đă gầy dựng trong suốt thời kỳ chống Pháp, trong đó phải kể đến các
thân nhân của các cán bộ và bộ đội tập kết. Thêm vào đó, các khuyết
điểm to lớn chồng chất của 2 chế độ lỗi thời Thực dân và Phong kiến
đă làm mồi nuôi dưỡng các phong trào chống đối trong nội bộ miền
Nam, rất thuận lợi cho các cán bộ CS nằm vùng khai thác.
Dù vậy, ngành t́nh báo miền Nam, tuy phải xây dựng trễ và phải đặt
nền móng từ đầu, nhưng lại được hưởng ứng nồng nhiệt v́ đa số người
Việt thời ấy, nhất là đồng bào di cư, các bộ lạc dân tộc thiểu số,
các đảng phái chính trị và tín đồ các tôn giáo, đă thấy rơ bộ mặt
gian dối của CS.
Có người đă chứng kiến những vụ tàn sát hay đấu tố dă man các thành
phần quốc gia yêu nước nhưng bất đồng chính kiến với CS và có khi họ
chính là thân nhân của các nạn nhân đó.
Ngoài ra, những tài liệu sống động như cuốn phim Chúng Tôi Muốn Sống
đă gây được một ấn tượng ghê tởm CS trong mọi tầng lớp nhân dân miền
Nam.
Nắm được các yếu tố thuận lợi trên đây, Sở Bắc đă gấp rút gửi nhân
viên đến các trại định cư, liên lạc với các vị lănh đạo tinh thần
cũng như các bộ lạc dân tộc thiểu số, chiêu mộ các thanh niên nhiệt
t́nh yêu nước c̣n thân nhân ở tại miền Bắc, để cấp tốc đưa về huấn
luyện và tạo vỏ bọc thuận lợi, đưa họ về quê quán hoạt động.
Từ những năm đầu tiên đến năm 1966, các toán xâm nhập miền Bắc
thường xử dụng một trong những phương cách sau đây:
- Nhảy dù đêm vào vùng mục tiêu.
- Xâm nhập đường biển bằng thuyền mẹ, và từ đó sử dụng thuyền con
bơi vào vùng công tác.
- Xâm nhập vào vùng phi quân sự, vượt sông Bến Hải và lén lút đi bộ
vào điểm công tác, móc nối với thân nhân đă nằm vùng, hoặc giới chức
được tín nhiệm tại địa phương. Trường hợp sau này thường phải xử
dụng “bona fides” để nhận nhau.
- Cử chuyên viên phục vụ tại Ṭa Đại Sứ của một vài nước thứ 3 như
Lào, Cam-bốt, Pháp, Thái Lan hay Hong Kong … rồi từ đó tuyển mộ và
huấn luyện các công tác viên có khả năng, và tạo cho họ cái vỏ bọc
thích hợp cũng như giấy tờ hợp lệ để họ dễ dàng xâm nhập vào miền
Bắc hoạt động. Phương pháp này đă được nghiên cứu tỉ mỉ, nhưng v́
quá tốn kém nên chỉ được thực hiện từng giai đoạn.
Tuy có nhiều h́nh thức xâm nhập khác nhau như vừa tŕnh bày trên,
nhưng trong bài này, tôi (Trung Tá Nguyễn Văn Vinh) chỉ xin đề cập
đến những toán Biệt Kích xâm nhập miền Bắc bằng đường hàng không mà
thôi, v́ đây là phần việc mà chính tôi đă đảm nhận trong nhiều năm
tại cơ quan t́nh báo chiến lược này.
Những chuyến bay đêm
Các toán Biệt Kích Dù thường được thả xuống miền Bắc vào những đêm
trăng. Mùa trăng thuận lợi cho công tác này bắt đầu từ ngày mồng 10
– 20 âm lịch hằng tháng. Giờ giấc được chọn tùy thuộc vào điều kiện
an ninh và thời tiết tại vùng công tác. Để có đủ phương tiện đối phó
với các bất trắc có thể xảy ra khi toán chạm đất, các nhân viên Biệt
Kích Dù phải mang theo các trang bị cá nhân khá nặng nề. Ngoài súng
tiểu liên Swedish K. của Thụy Điển hoặc Sten của Anh hay Uzi của Do
Thái có trang bị ống giảm thanh và 3 đơn vị hỏa lực, họ c̣n phải đèo
thêm các dụng cụ khác trên 20 món, nào bidon nước, bản đồ vùng mục
tiêu, địa bàn, lựu đạn, 3 ngày lương khô, đèn bấm, pamean, dao găm,
túi cứu thương cá nhân, cà mèn, pháo hiệu (pen flare), đồng hồ đeo
tay, radio v.v…
Các dụng cụ này thường được mua ở các nước thứ 3 và không một trang
cụ nào được mang nhăn hiệu Hoa Kỳ hay miền Nam VN. Các đồ trang bị
tập thể nhưng dụng cụ phá hoại, đồ cứu thương, lương thực dự trữ
dùng cho 3 tháng v.v…đều được đóng thành kiện. Máy truyền tin dự trữ
và máy beacon là máy phát tín hiệu có tầng số nhất định, được đặt
tại kiện hàng số 1. Các toán viên khi nhảy dù xâm nhập vào đêm,
chiếc dù có thể bị ảnh hưởng của gió, bạt ra xa cách băi thả 1-2 km.
Nhưng nhờ các radio cá nhân, họ có thể dễ dàng bắt tín hiệu từ máy
beacon phát ra, để đi về hướng tập trung.
Thông thường, các nhân viên quê quán vùng nào được thả về mục tiêu
vùng đó. Để đảm bảo an ninh cho công tác, mục tiêu và nhiệm vụ của
toán chỉ được thuyết tŕnh vào giờ chót, trước khi lên máy bay.
Các chuyến xuất phát trong những năm đầu đến năm 1964, chính cơ quan
Trung Ương T́nh Báo Hoa Kỳ đă yểm trợ cho các chuyến bay bí mật này
và lộ tŕnh duy nhất được xử dụng là Tân Sơn Nhất – Đà Nẵng – Vùng
mục tiêu.
Tại Đà Nẵng, đợi lúc trời tối, phi cơ cởi bỏ hết mọi huy hiệu trước
khi khởi hành xâm nhập vào vùng hành quân. Phi cơ được xử dụng là
loại DC7 hoặc DC6. Phi hành đoàn thường là người Trung Hoa. Tuy
nhiên, cũng có lúc phi hành đoàn là người VN, được tuyển chọn trong
số sĩ quan có khả năng và được tín nhiệm nhất của Không Quân Việt
Nam. Phó TT Nguyễn Cao Kỳ hồi c̣n mang lon Đại úy, đă nhiều lần làm
phi công chính thức cho các phi vụ đặc biệt này.
Đến cuối năm 1966, Trung Ương T́nh Báo Hoa Kỳ rút vào bóng tối,
nhường chỗ cho MAC-SOG, một cơ quan t́nh báo quân sự, thay thế yểm
trợ cho Nha Kỹ Thuật.
Khi cường độ chiến tranh VN đi đến giai đoạn khốc liệt nhất th́ nhu
cầu tin tức gia tăng cao, do đó số toán Biệt Kích Dù hoạt động phải
được tăng cường nhiều hơn. Các phương tiện xâm nhập cũ được thay thế
bằng C123 hoặc C130 và nơi phát xuất được chuyển sang Nakor-Phanum,
một sân bay nằm sát biên giới Thái-Lào hoặc sân bay đón nằm ở phía
Đông -Bắc Thái Lan. Từ các nơi đó các toán Biệt Kích Dù được chuyển
qua trực thăng CH3 để bay băng qua lănh thổ Lào, tiến về vùng mục
tiêu nằm trên ranh giới Lào-Việt. Cũng có lúc mục tiêu được lựa chọn
nằm sâu trong nội địa Bắc Viêt.
Trực thăng là phương tiện xâm nhập vừa rẻ tiền vừa tiện lợi nhưng
lại là phương tiện kém an toàn nhất, v́ tiếng động cơ quá lớn, địch
dễ phát hiện. Phải chăng đây là một trong những nguyên nhân thất bại
của công tác Biệt Kích tại miền Bắc?. Vấn đề này đă được phía VN
quan tâm và nêu lên nhiều lần trong các phiên họp Việt-Mỹ, nhưng
phía đối nhiệm không quan tâm.
Số phận những con chim lạc loài
Đến cuối năm 1968, trong số gần 40 toán được cho xâm nhập bằng đường
hàng không và đường bộ để hoạt động dài hạn, chỉ con có 5 toán là
c̣n giữ được liên lạc với Trung Ương, đó là các toán Tourbillon
(1962), Ares (1962), Remus (1963), Easy (1963) và Eagle (1963).
Theo đánh giá chung của các chuyên viên hữu trách Việt – Mỹ th́ cả 5
toán này h́nh như đă bị địch kiểm soát, nhưng cá nhân tôi vẫn c̣n
tin tưởng một toán, đó là toán Ares.
Sự tin tưởng này có thể đúng v́ lư do sau đây:
Vào những năm đầu ở trại “cải tạo”, tôi thường bị cán bộ, không biết
thuộc cơ quan nào và cấp nào, đă thay nhau thẩm vấn tôi về các toán
Biệt Kích. Một trong những lần thẩm vấn ấy, tôi bị 3 tên cùng một
lúc thay nhau hạch hỏi suốt buổi sáng, khiến tôi không c̣n sức chịu
đựng, tôi đă bị gục ngă v́ tức giận và xây xẩm. Họ cho người dẫn tôi
về pḥng, nhưng 2 giờ sau lại kéo tôi lên tiếp tục thẩm vấn. Họ dùng
đủ tṛ ma giáo “hỉ, nộ, ái, ố”, … lúc th́ mời tôi hút thuốc lá “có
cán” (tức loại thuốc có đầu lọc, một loại thuốc cao cấp vào thời
ấy), lúc lại đập bàn quát mắng, khinh bỉ. Họ chưa bao giờ đánh đập
tôi lúc thẩm vấn, nhưng họ đă dùng những lời rất cộc cằn và thô lỗ
để áp đảo tinh thần tôi.
Một điều làm tôi quan tâm hơn cả là họ hỏi tôi rất nhiều về toán
Ares, như trưởng toán tên ǵ, quê quán ở đâu, tuổi tác độ bao nhiêu,
dáng điệu bên ngoài như thế nào, có những đặc điểm ǵ, những liên hệ
gia đ́nh, địa chỉ của các người thân lúc ở miền Nam, v.v… Tôi thầm
nghĩ nếu Ares đă thật sự nằm trong tay họ th́ mắc mớ ǵ họ phải hỏi
tôi những chuyện thừa thải ấy. Tôi có lư do để không trả lời họ, v́
Ares đă xuất phát năm 1962, trước khi tôi được thuyên chuyển về Sở
Bắc. Tuy nhiên, hôm nay tôi xin nói ra đây những ǵ tôi có thể nói
ra được. Một vài chi tiết khác tôi thấy chưa thể tiết lộ lúc này v́
có thể phương hại đến sự an toàn của toán đó, nếu quả thật toán đó
đến nay vẫn c̣n dấu được tung tích.
Ares hay Hạ Long có tên thật là …, một cán bộ trung cấp và là đảng
viên CS bị khai trừ v́ bất măn. Anh đă theo đoàn người di cư vào Nam
năm … và được một giới chức miền Nam báo cáo lên ông Ngô Đ́nh Nhu.
Tổng Thống Diệm và ông Nhu đă lưu tâm và giúp đỡ cho người này. Sau
đó, Sở Bắc đă cử người đến tiếp xúc thuyết phục và bố trí cho anh
trở về Bắc hoạt động. Anh đă đồng ư và đă được đưa xâm nhập vào Vịnh
Hạ Long năm 1962, rồi từ đó tiến dần về cảng Hải Pḥng và nhà máy
điện Uông Bí. Đây là 2 mục tiêu mà anh có nhiệm vụ theo dơi và báo
cáo mọi sinh hoạt. Ares tỏ ra rất tích cực trong mọi nhiệm vụ giao
phó, và điều rất kỳ lạ là anh đă mộ mến Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm một
cách khác thường. Hàng năm, trước ngày Song Thất hoặc 26/10, anh đều
có đánh điện chúc mừng TT Diệm và nguyện trung thành phục vụ tổ
quốc.
Khi nghe tin TT Diệm bị giết qua đài phát thanh, anh rất thắc mắc và
sau khi được Trung Ương xác nhận, anh đă tỏ ra chán nản tột độ. Dù
vậy, anh vẫn thi hành mọi công tác giao phó một cách chu đáo. Những
chuyến tàu cập bến Hải Pḥng, nhất là các tàu chở vũ khí hay quân
dụng, đă được anh theo dơi và báo cáo khá chi tiết. Ngoài nhiệm vụ
trên, anh c̣n báo cáo kết quả oanh tạc của một số mục tiêu khác nhau
như cầu Hàm Rồng và nhà máy điện Uông Bí ở quanh vùng Hải Pḥng.
Để giúp anh thi hành nhiệm vụ trong thời gian anh bị bị bịnh sốt
rét, Trung Ương đă chấp thuận đề nghị của anh, tuyển mộ thêm người
em ruột và một hai người khác trong họ hàng, để phụ anh thực hiện
quan sát các mục tiêu ở xa. Trong những năm 1966, 1967 và 1968, bệnh
sốt rét của anh trở nên trầm trọng, nhưng Trung Ương không tiếp tế
cho anh được v́ địa điểm nhận tiếp tế của anh nằm trong Vịnh Hạ Long
đă bị lộ. Thêm vào đó, vùng biển Hải Pḥng bị Mỹ gài ḿn khiến mọi
cố gắng tiếp tế bằng thuyền cho anh đều không thể thực hiện được.
Khoảng giữa năm 1968, do lời yêu cầu của phía VN, Hoa Kỳ đă t́m được
kế hoạch tiếp tế cho Ares. Trung Ương báo ngay cho anh tọa độ một số
băi thả tiếp tế và yêu cầu toán đến tận nơi nghiên cứu và báo ngay
địa điểm ưu tiên được chọn. Sau khi nhận phúc đáp, Trung Ương đă
hướng dẫn các chi tiết mà toán phải thi hành để có thể nhận tiếp tế
đúng như dự liệu.
Đến ngày N, giờ G, một đoàn phản lực đă xuất hiện bắn phá một số mục
tiêu ở Hải Pḥng, cùng lúc đó một phản lực cơ khác đă bắn một thùng
“container” đựng hàng tiếp tế xuống thửa ruộng đă ấn định và được
Ares đánh dấu bằng 2 cụm khói trắng như đă chỉ thị. Cách tiếp tế này
đă được thực tập 2 lần tại trại Long Thành và cả 2 lần đều đem lại
kết quả mong muốn. Trong container đựng hàng tiếp tế, ngoài lương
thực, thuốc men, áo quần c̣n có 10 khâu vàng để toán trao đổi thực
phẩm hoặc thuốc men mỗi khi cần đến. Ngoài các vật dụng trên, c̣n có
4 lá thơ, trong đó có một lá thơ thăm hỏi của Trưởng công tác, c̣n 3
lá thơ khác được dán b́ kín. Toán được chỉ thị dán tem vào và tuần
tự gởi đến một địa chỉ trung gian tại Thái Lan. Mỗi thơ đều có dấu
hiệu riêng mà toán không được biết lư do.
Chỉ trong một thời gian ngắn, 2 thơ có nội dung thường đă đến tay
người nhận, thơ c̣n nguyên xi không bị mở, nhưng thơ thứ 3 có “gài”
một tài liệu bí mật giả tạo lại không đến tay người nhận. 2 tháng
sau, khi được Trung Ương hỏi về lá thơ này th́ toán cho biết, trên
đường đi tới bưu điện, bị c̣i báo động, đương sự phải chạy t́m hầm
trú ẩn, không may đánh rơi lá thơ xuống vũng bùn nên đương sự đă
không gửi. Lư do này đă khiến bạn đồng minh Hoa Kỳ nghi ngờ ḷng
trung thành của Ares.
Nhiệm vụ mới
Đến năm 1968, sau đợt tấn công của địch vào dịp Tết Mậu Thân, Nha Kỹ
Thuật phải lănh nhận thêm rất nhiều công tác ngoại biên với những
toán mới được thành lập:
– Các toán STRATA là những toán quân nhân được huấn luyện thuần thục
để thi hành những công tác đột kích hay phá hoại các căn cứ địch nằm
trên lănh thổ Bắc Việt.
– Các toán PICK-HILL là những toán người Miên gốc Việt hoạt động
trong lănh thổ Cam-bốt, có nhiệm vụ quan sát và phá hoại các căn cứ
địa của VC nằm trên lănh thổ nước láng giềng Cam-bốt.
– Các toán EARTH-ANGEL, c̣n được gọi là Đề Thám, là những toán được
thành lập với thành phần tù binh bộ đội Bắc Việt hồi chánh. Các toán
này hoạt động rất đắc lực, được trang bị như bộ đội chánh quy miền
Bắc. Nhờ đó họ len lỏi vào vùng địch khá dễ dàng và đă nhiều phen
lập được nhiều thành tích đáng kể. Một số toán viên sau đó đă gia
nhập Quân đội VNCH.
– Các toán SINGLETON hoạt động riêng biệt từng cá nhân. Họ là những
Việt kiều từng sống nhiều năm tại Cam-bốt, được móc nối trở lại hoạt
động nằm vùng tại Mimote, Krek, Sihanoukville, Kratié, Ba Thu v.v…
Đây là những nơi địch đặt căn cứ quân sự và hoạt động rất mạnh. Các
nhân viên này có nhiệm vụ theo dơi, báo cáo hoạt động địch và hướng
dẫn phi cơ oanh tạc lúc cần thiết.
Ngoài các toán hoạt động như trên, c̣n có chương tŕnh công tác lừa
địch và ly gián địch, được gọi là chương tŕnh Borden, mà toán viên
là những tù binh bộ đội Bắc Việt cứng đầu. Họ được học nhảy dù vài
hôm trước khi được trang bị như một toán viên rất trung thành của
miền Nam: một bản đồ, lệnh hành quân, thơ giới thiệu v.v… Các thứ
này được dấu kín trong áo nhảy và chỉ được trao cho toán viên tù
binh cứng đầu mặc vào trước khi được thả dù xuống vùng địch chiếm
đóng.
Các chương tŕnh mới này đă đem lại những kết quả hết sức khích lệ,
nên phía Hoa Kỳ đă yêu cầu phía VN chấm dứt liên lạc với 5 toán c̣n
lại ở miền Bắc, bằng cách ra lệnh cho các toán ấy t́m cách xâm nhập
qua Lào, tŕnh diện với bộ đội Vang Pao hoặc rút về miền Nam. Tuy
nhiên, nhiều tháng sau khi lệnh được ban hành, không một toán nào
xuất hiện.
Hướng về những người anh em kiêu hùng
Các Biệt Kích Dù bị CS bắt đă phải chịu đủ thứ cực h́nh. Tuy vậy, họ
vẫn giữ vững tinh thần quốc gia và đồng đội. Thái độ cương quyết của
họ đă phải làm các cán bộ CS khâm phục và gọi họ là những người
“không cải tạo được”. Măi đến một thời gian lâu sau khi VNCH bị
chiếm đóng, CS mới tuần tự tạm trả tự do cho các tù nhân Biệt Kích.
Người được trả sớm nhất đă phải ở tù suốt 15 năm và người lâu nhất
trên 20 năm.
Khi họ trở về, chúng ta đă biết thêm được nhiều chuyện đă xảy ra khi
họ công tác tại Bắc Việt. Tuy nhiên, vẫn c̣n một số toán bặt tin,
trong đó có toán VOI do anh Trần Hiếu Ḥa làm trưởng toán cùng với 4
toán viên.
Toán Ares mà tôi đă đề cập ở trên và một vài toán khác nữa, cũng
đang nằm trong danh sách những toán mất tích này.
Phải chăng họ đă bị thủ tiêu hay đă hy sinh trên đường thi hành
nhiệm vụ. “Hy sinh trong bóng tối, tất cả v́ Tổ quốc”, đó là phương
châm hành động mà mọi Biệt Kích đă chấp nhận khi gia nhập vào binh
chủng này.
Tôi c̣n nhớ năm 1970, các sĩ quan trong Bộ chỉ huy Nha Kỹ Thuật đă
được xem một cuốn phim mà một đơn vị VNCH vừa tịch thu được của bộ
đội Bắc Việt khi tấn công vào một căn cứ địch ở Mimot, Cam-bốt. Cuốn
phim ghi lại phiên ṭa xét xử một toán Biệt Kích mang tên toán
Jackson, hoạt động tại vùng Nghệ Tĩnh. Bản cáo trạng rất dài, luận
tội rất nặng “nào là tay sai đế quốc Mỹ, tay sai Ngô Đ́nh Diệm, nào
là xúi dục nhân dân lật đổ chính quyền và phá hoại tài sản nhân dân
v.v…
Toán Jackson đă bị bắt toàn bộ với tất cả vũ khí và chất nổ khi toán
phá chiếc cầu thứ 2 tại Cửa Ḷ. Hầu hết toán viên đă lănh án tử
h́nh, chỉ 1-2 người lănh án chung thân. Điều làm anh em chúng tôi
xúc động và hănh diện, là được chứng kiến thái độ hiên ngang và b́nh
tĩnh của các toán viên khi bản án tử h́nh được tuyên đọc.
Theo lời một nhân chứng quê ở Thọ Ninh, bà con với một toán viên cho
biết, 6 người lănh bản án tử h́nh đă bị bắn ngay sau đó, và lời nói
cuối cùng của họ là:
Việt Nam Cộng Ḥa muôn năm !
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm muôn năm !
Anh em chúng tôi là những người đă đi qua nhiều trại “cải tạo” ở
miền Bắc và đă được nghe nói rất nhiều về những việc làm đáng phục
của anh em Biệt Kích. Trong số đó có các vị linh mục, đại đức tuyên
úy, các bạn bè của tôi đă sống chung trại với các anh ấy. Ngoài ra,
các tù h́nh sự miền Bắc mà đa số chúng tôi thường gọi họ bằng danh
từ “bọn h́nh sự”, v́ phần đông họ thuộc thành phần bất hảo, trộm
cướp, đâm chém, giết người … khi được hỏi về anh em Biệt Kích th́ họ
tỏ vẻ rất khâm phục.
Họ nói với tôi: “Các anh Bê Ka là những người rất hào hùng, cán bộ
trại cũng phải nể, các anh ấy rất kỷ luật và đoàn kết với nhau, họ
thương nhau và giúp đỡ nhau. Khi một người bị biệt giam được thả hay
bị ốm, là các anh khác t́m cách giúp đỡ. Dù ai cũng đói, nhưng họ
nhịn bớt phần ăn để bồi dưỡng cho anh em bị bệnh hay bị ốm. Đă có
những anh Bê Ka cướp súng bắn cán bộ rồi chạy thoát, có nơi các anh
toàn bộ đứng lên làm reo tuyệt thực không đi lao động, nhưng cán bộ
trại cũng đành phải làm ngơ …”
Riêng cá nhân tôi, trong 13 năm tù CS, đă không may mắn gặp lại các
anh em Biệt Kích, nhưng tôi không bao giờ quên những con người hào
hùng cùng chung lư tưởng đă cùng chung sống với nhau trong t́nh
huynh đệ chân thành. Tôi là người đă từng sống chung với họ ở trại
huấn luyện Long Thành và lúc họ lên đường đi công tác, tôi đă tiễn
chân hoặc nhiều khi đă cùng với họ bay vào vùng mục tiêu xâm nhập,
đưa tay vẩy chào họ khi họ rời máy bay … Những kỷ niệm đó khó quên
được.
Những kỷ niệm khó quên
Tôi nhớ lại năm xưa, có lần trước ngày lên đường công tác, tôi lái
xe đưa một nhân viên của tôi đến thăm lần cuối người bạn gái, hay
nói đúng hơn, một người yêu, có nhà ở hẻm xứ Bùi Phát, trên đường
Trương Minh Giảng, nay đổi tên là Lê Văn Sỹ. Đến nơi, người thanh
niên ấy vội vă bước xuống xe như muốn tận dụng những giây phút ngắn
ngủi và quư báu c̣n lại. Khoảng 10 phút sau, anh trở ra với người
bạn gái đi theo tiễn chân, trên tay anh c̣n mang một gói quà nhỏ mà
tôi đoán chắc đó là quà kỷ niệm của người yêu. Họ nh́n nhau, mắt đẫm
lệ, và tôi chỉ biết im lặng cảm thông nỗi buồn chan chứa đang xâm
chiếm 2 tâm hồn. Xe chạy được một quăng đường, người thanh niên ấy
quay nh́n tôi, vừa nói vừa mở món quà: ”Đây, anh xem, quà cô ấy tặng
em”.
Tôi liếc nh́n, thấy một nắm tóc thề được gói trong một chiếc áo lót.
Cả hai chúng tôi đều im lặng trên đường về trại.
Lần khác, một nhân viên của tôi cũng sắp lên đường, anh đến gặp tôi
và trao cho tôi một chồng thơ khá dày đă đề b́ sẵn và nói:
”Anh Dũng, anh biết em là con một, em đi nhưng em đă không dám nói
thật với mẹ em. V́ vậy, em nhờ anh mỗi tháng đến thăm mẹ em và trao
cho mẹ em một bức thơ này, nói là em đang đi học ở ngoại quốc gửi về
để mẹ em yên tâm”.
Tôi xúc động nh́n người thanh niên ấy với tất cả ḷng yêu thương và
mến phục. Tôi đă nhận thơ anh giao và hàng tháng, tôi đă đến thăm mẹ
em và trao cho bà quả phụ ấy bức thư của con bà. Nhưng đau đớn thay,
lá thơ cuối cùng của anh đă được trao mà “khóa học” của anh vẫn chưa
măn.
Hai nhân viên Biệt Kích mà tôi vừa kể trên đây, cả 2 đều trở về từ
cơi chết, sau gần 20 năm sống trong lao tù CS, một anh hiện đang
sống ở Cali, đó là anh Lâm, em ruột của anh Nguyễn Ngọc Trâm, c̣n
người kia, trước ngày tôi rời Saigon, anh ấy đang vất vả hành nghề
thợ mộc ngoài Vũng Tàu. Hy vọng một ngày không xa, anh Độ cũng như
bao nhiêu anh hùng Biệt Kích khác c̣n ở VN sẽ được đoàn tụ với chúng
ta tại quê hương thứ hai này.
Trung Tá Nguyễn Văn Vinh
Tiễu sữ
cũa Trung Tá Nguyễn Văn Vinh (NVV):
Houston Sept. 04, 2011
Matthew Trần
Trung Tá NVV hơn tôi (MT) dộ 3,4 tuỗi và có bà con xa với tôi: Chúng
tôi cùng quê ỡ làng Dốc Sơ và nhà cách nhau một xóm. Làng Dốc Sơ nằm
về hướng Bắc cách thành phố Huế độ 5,6 cây số, dọc theo quốc Lộ 1.
Làng Dốc sơ cũng có giáo xứ Dốc sơ: Nơi mà sau nầy (1980?) đă một
thời gian, trở nên họ đạo được cai quăn bỡi linh mục dáng kính Tadêô
Nguyễn Văn Lư đối đầu với csVN trong vụ chúng ngăn cản lần Cha Tadêô
đưa đám thanh niên trong họ đi hành hương Dức Mẹ Lavang.
Vào tuổi niên thiếu, chúng tôi đều được gia-đ́nh cho vào Huế để học.
Chúng tôi không học chung cùng trường nhưng khi “hè về”, chúng tôi
đều trở về làng và thường gặp nhau hàng ngày trong các tṛ tiêu
khiển cũa tuổi trẽ như: câu cá, bắn chim.. Nếu được sáp giữ trâu
"mời" chúng tôi theo tụi vào các tṛ chơi ban dêm th́ chúng nó sẽ
cho chúng tôi ăn trái cây mà chúng nó đi "ăn trộm" được từ các vườn
có trái trong làng như: thanh trà, bưỡi, mít, cam, quưt ..vv. Những
vườn nầy cũng thuộc các gia đ́nh bà con cũa chúng tôi cả !! Đó là
thời vàng son của tuổi trẽ mà bây chừ chúng tôi không thể níu kéo
lại được.
H́nh như anh NVV được gọi nhập ngũ vào khóa 3 SQTB/TĐ (đầu 1953) th́
phải. Tôi được gọi nhập ngũ 6 tháng sau: Khóa 4 SQTB/TĐ (1953-54).
Trong suốt thời gian trong quân ngũ, điều khôi hài là thỉnh thoảng
chúng tôi gặp nhau, chúng tôi nhận thức ra nhau là că hai chúng tôi
đều: đội mũ nồi (béret) xanh lục đậm, với huy hiệu (logo) LLĐB, bằng
Dù và mặc đồng phục bằng văi dù hoa, cả 2 chúng tôi đều tự nhận biết
là cùng binh chủng LLĐB nhưng chúng tôi không biết là người kia ỡ
đơn vị nào, giữ chức vụ ǵ.
Trong LLĐB chúng tôi “không” có thói quen t́m hiễu công việc cũa
nhau. Chúng tôi vẫn có những SQ ăn mặc thường phục và được dùng xe
mang số ẩn tế. Thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau trên các đường phố
trong lúc lái xe ngược chiều th́ chúng tôi .. hoặc là nh́n nhau mĩm
cười .. hoặc là đưa tay vẫy.. thế thôi.
Vào những ngày dầu sôi lữa bỏng trước khi VNCH bị tên phản quốc:
tướng Dương Văn Minh bán đứng cho csBV (30/04/1975) bằng cách lên
đài phát thanh ra lệnh cho chiến sỉ khắp nơi đầu hàng địch .. vào
một hôm nào đó (April 28?/1975) trên đường đến bộ TTM (giai đoạn nầy
tôi phục vụ ỡ Bộ TTM), tôi gặp Tr. Tá NVV lần cuối cùng khi anh từ
ngơ sân bay Tân Sơn Nhất lái xe nhà với gia đ́nh ra, chúng tôi có
ngừng xe đễ nói chuyện vài phút. Đầu đề không ngoài việc hỏi thăm
nhau về các quyết định hệ trọng liên quan đến việc di tăn khỏi
Vietnam.
Anh NVV có hỏi tôi về quyết định của tôi và anh cho biết là HK đă lo
việc di tản cho anh và gia d́nh trong ngày hôm nay (April 28?/1975)
nhưng anh & gia d́nh đă không vào phitrường được !! Mọi ngă - ra vào
- đều có xe kẹt cứng hết .. nên anh & gia đ́nh đang trở ra ..
Tôi cho anh hay là nhờ trong thời gian trước đó, tôi đă được phục vụ
như là TVQL/ QLVNCH tại Đại Hàn, nên có liên hệ tương đối mật thiết
với DAO (VP TVQL/HK) và DAO có hứa sẽ giúp phương tiện di tản.
Nguyên thủy, gia-đ́nh tôi được dự trù di chuyển bằng máy bay, nhưng
vào ngày dự-trù, phi trường TSN bị địch pháo kích, v́ vậy, cuối
cùng, gia đ́nh chúng tôi được di tản bằng đường thủy (từ Tân cảng,
SG).
Thế rồi chúng tôi không gặp nhau nữa cho đến …. năm 1992, khi tôi từ
Mỹ về Vietnam đễ lo vấn đề riêng tư gia đ́nh và đă gặp lại anh NVV
khi tôi đi xem lễ tại DCCT ỡ đường Kỳ Dồng, Sàig̣n.
Vào giai đoạn đó th́ anh NVV đă dược csVN tră tự do. Gia đ́nh anh có
lập một cái tiệm cho thuê "băng" chuyện film (lúc nớ chưa có DVD)
bằng nhựa. Nó nằm đâu đó trên dường Trương Minh Giăng. Business
không đến nỗi tệ lắm.
Anh NVV hơi chán năn khi nhận thức là tôi vừa “về hưu” và đang về
Việtnam lúc đó tôi vào 56 tuổi th́ anh NVV trong giai đoạn chờ chực
đễ được phỏng vấn hầu dịnh cư tại HK. Anh khá lo lắng cho tương lai.
Trong thời gian chờ đợi để được HK phỏng vấn, anh may mắn được một
cựu nhân viên đang định cư tại HK, gỡi cho anh một bài báo (lá kăi)
có h́nh ănh của anh & một dám nhân viên BK củ. Bài báo mô tả hoạt
động của anh trong quá khứ. V́ vậy, cuộc phỏng vấn của phía HK đối
với anh trở nên dễ dàng. Họ giúp đỡ gia đ́nh Tr.Tá NVV tối đa để
được di chuyển sớm.
Thế rồi gia đ́nh của Tr.Tá NVV qua định cư tại Baton Rouge
(Louisiana) theo lời khuyến khích của một cựu nhân viên cũa anh.
Vào lúc dó th́ Tr.Tá NVV với tuỗi đă trên dưới 6 bó, anh sống với sự
trợ giúp cũa chính phủ HK. Nhân viên cũ cũng hăng hái giúp đỡ trong
khă năng. Các con của anh th́ vừa qua, họ chỉ kiếm được các công
việc với đồng lương khiêm nhượng mà thôi.
Độ 5, 6 năm sau, một cựu nhân viên khác của anh, mời gia đ́nh anh
lên Denver (CO) để định cư và người nầy hứa là sẽ giúp đỡ cụ thể hơn
(chỗ ỡ free th́ făi). H́nh như người nầy may mắn hơn nên họ hoặc là
thuê bao ..hay xây một ngôi nhà để cho gia đ́nh Trung Tá Vinh ở mà
chẳng phải lo ǵ về tiền thuê mướn ..
Thế là gia đ́nh Tr Tá NVV lại di chuyễn một ngoai nữa. Coi bộ lần
nầy cuộc sống tương đối được thoải mái hơn. Thêm vào dó, một người
rễ cũa anh (cựu giáo sư Anh Văn bên VN) và người vợ nhân dịp Bưu
Diện HK đang mỡ kỳ thi tuyễn. Không biết 2 vợ chồng chuẫn bị ra sao
mà khi thi tuyễn vào, diễm cũa mỗi người là 100 % !! Tối đa !! Thế
là că 2 vợ chồng đều được thu nhận vào các positions tốt. Lương khá.
Mấy sắp nhỏ sau đó cũng đă lai rai bắt đầu ra trường. Thế là cuộc
sống của gia đ́nh Tr. Tá NVV được băo đăm. Anh Chị hằng ngày chĩ có
chăm lo việc tinh thần (đạo) mà thôi.
Thế rồi chuyện phải đến đă đến. Chị Vinh đă qua dời v́ một bạo bệnh
ngặt nghèo. Như vậy cũng đă cách đây hơn mười năm. Tr. Tá NVV cũng
di theo chị dộ 3, 4 năm sau.
May God save their souls.
Matthew Trần
Houston, TX 2008
Trần Đ́nh Phục (TĐP)
Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây
biểu chương...
Lễ nghi
quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu,
huy hiệu... QLVNCH
Tiến
tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về
Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6
Gươm lạc giữa rừng hoa
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ
Sắc lệnh về
quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ
quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !
140
chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại
VN
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Tổng Thống Abraham Lincoln
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo
vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng
Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc
Luận về Tậm Lư
Chính Trị
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?
Một tài liệu 42 năm cũ
Dựng
Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi
Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974
Những điều nên biết về
Medicare 2016
Remember C-Rations?
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Tướng lănh VNCH
Bài phỏng
vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột
tháng 3, 1975
Đại Tá
Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần
Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975
tại Sài G̣n
Chuyện của một
ngôi trường
Luận về khoa bảng
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền
Phiếm luận
về mộng mơ qua văn chương và triết học
Chính sách
thuế khóa
Cách viết hoa
trong tiếng Việt
Đoàn
thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa
ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa
Việt Nam
Tiếng Việt ba miền -
Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?
TT
Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?
HCM đă âm mưu
bán nước từ năm 1924
Vài nét
về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải
chiến Midway
Adm
Chester Nimitz
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc
hành quân Lam Sơn 719
Những trận đánh đi vào quân sử
Nguyên nhân xụp
đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng
Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh
chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh
Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng
Nguyên do chính khiến VN bất tử
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và
huyền thoại
Vài nét hoạt
động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến
VNCH
Trung
Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72,
TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng
12 năm 1965
Nhảy Dù và
Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử:
Mậu thân Huế
Trận KAMPONG
TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v
Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn
Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ
QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát
Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân
VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc
Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về
thành nội Tết Mậu Thân
Một ngày với Đô Đốc
Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh
anh dũng và trung thành với Tổ Quốc
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần -
Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối
tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng
Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết
hiên ngang
Chuyến công tác cuối
cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá
BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người
chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà
Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh
một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của
Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn
thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị
bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng
sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi
trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường
BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh
hùng
Lịch sử h́nh thành
QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận
Vong
Người lính
VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người
lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù
bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh
chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính
VNCH
Sự thật về cái chết
của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số
quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những
chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn
Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1,
Phần 2,
Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ
1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn
Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên
Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
QLVNCH
Những người trở về
với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam,
Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ
lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức -
1974
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc
Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù
CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước
Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội
chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối
của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc
Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành
Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú
Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di
sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền
ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc
Kinh